Bằng chứng như được khai triển tại phiên xử - một số vấn đề sơ bộ

404 Như dự kiến, khi bằng chứng cuối cùng được đưa ra tại phiên xử, nó đã đi trệch đáng kể, ở một số khía cạnh quan trọng nào đó, khỏi những gì ông Gibson đã khai mở cho bồi thẩm đoàn. Điều đó hầu như không đáng ngạc nhiên khi điều được coi là vi phạm đã xảy ra khoảng 22 năm trước đây.

403 Như một nhận định sơ bộ, điểm đầu tiên cần lưu ý là sự mơ hồ, trong lý lẽ lúc khai mở, liên quan đến chính lúc biến cố thứ nhất và thứ hai được cho là đã xảy ra [130]. Tất nhiên, công tố viện có nghĩa vụ phải cung cấp đầy đủ chi tiết của bất cứ cáo buộc nào để người bị buộc tội biết lý lẽ mà họ phải đương đầu [131]. Nói chung, ngày tháng chính xác mà một hành vi phạm tội tình dục đã lâu năm được cho là đã phạm không có ý nghĩa chủ yếu. Nó cũng không thể được dự kiến một cách hợp lý phải được xác định cách chính xác. Chỉ họa hiếm lắm ngày tháng mà hành vi phạm tội được cho là xảy ra trở thành một yếu tố của việc phạm tội [132].

404 Tuy nhiên, có một số trường hợp, trong đó, mặc dù không có tính căn bản, ngày tháng có tầm quan trọng cốt lõi, hoặc ít nhất cũng trở thành như vậy, trong diễn trình xét xử [133]. Như sẽ thấy, đó chính là những gì đã xảy ra trong trường hợp này. Trong suốt phiên xử, bên bênh vực đã mạnh mẽ một cách phi thường nhằm thu hẹp, và xác định, hoặc ngày 15 hoặc ngày 22 tháng 12 năm 1996 là hai ngày duy nhất, trong đó, biến cố đầu tiên có thể xảy ra, thì ai cũng rõ điều này được coi là hết sức quan trọng đối với bên bênh vực.

405 Theo quan điểm của bên bênh vực, nếu những ngày tháng đó có thể được xác định như vậy, thì trình thuật của người khiếu nại rằng cả hai biến cố thứ nhất và thứ hai diễn ra trước Giáng sinh năm 1996, nhưng cách nhau ‘chỉ hơn một tháng’, không nhất thiết được trình bầy là đáng tin cậy. Ngoài ra, có một lượng bằng chứng đáng kể, mà sau này tôi sẽ nhắc đến, có khả năng liên kết cách chuyên biệt với hai ngày tháng đó, có xu hướng làm suy yếu lý lẽ của bên công tố [134].

406 Trong suốt gần như toàn bộ phiên xử, ông Gibson đã cẩn thận để tránh bất cứ sự nhượng bộ nào rằng, như một vấn đề thực tại thực tiễn, biến cố đầu tiên chỉ có thể xảy ra vào ngày này hay ngày nọ trong hai ngày này mà thôi. Tuy nhiên, vào cuối phiên xử, ông ta có rất ít sự lựa chọn trong vấn đề này. Dường như đã được mọi người chấp nhận (và chắc chắn bởi thẩm phán phiên xử), rằng không có ngày nào khác cho biến cố đầu tiên là có thể. Thật vậy, dựa trên cơ sở rằng biến cố đầu tiên phải xảy ra vào ngày này hoặc ngày nọ trong hai ngày này mà công tố đã chỉ định ngày 23 tháng 2 năm 1997 là ngày xảy ra biến cố thứ hai.

407 Cũng cần lưu ý rằng mặc dù ông Gibson, trong diễn từ mở đầu của mình, đã xác định một cách phủ đầu một số vấn đề mà bồi thẩm đoàn sẽ phải xem xét (dựa trên các sự khác biệt rõ ràng giữa trình thuật của người khiếu nại và bằng chứng dự kiến sẽ được đưa ra bởi các nhân chứng khác), cuối cùng, lý lẽ của bên bào chữa đã đi xa hơn thế.

408 Một điểm dẫn nhập cuối cùng ở giai đoạn này. Đương đơn được đại diện bởi ông Richter QC, tại phiên xử. Ông này, cuối cùng, trong diễn từ kết thúc với bồi thẩm đoàn, (được ông hỗ trợ bởi một bài thuyết trình bằng PowerPoint), rằng có ít nhất 17 ‘trở ngại chắc chắn’ đối với việc kết án.

409 Trước Tòa này, ông Walker SC đã giảm 17 'trở ngại chắc chắn' của ông Richter xuống còn 13. Người ta đã đệ trình rằng những ‘trở ngại chắc chắn’ này xét cả từng trở ngại một lẫn toàn bộ các trở ngại, đều chứng minh rằng bồi thẩm đoàn đã hành động vô lý khi đạt tới các lời kết án có tội của họ, một điều, do đó, nên được đặt sang một bên.

Bằng chứng của người khiếu nại – trong chi tiết

410 Trước khi tóm tắt bằng chứng của người khiếu nại, có một số nhận xét dẫn nhập thêm cần được đưa ra. Một đặc điểm khác thường của vụ án này là nó phụ thuộc hoàn toàn vào việc người khiếu nại được chấp nhận, vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, như một nhân chứng đáng tin cậy và đáng dựa vào. Tuy nhiên, bồi thẩm đoàn đã được mời để chấp nhận bằng chứng của ông ta mà không có bất cứ sự hỗ trợ độc lập nào cho nó [135].

411 Tuy vậy, ông Gibson đã đệ trình rằng trình thuật của người khiếu nại về việc lạm dụng tình dục của đương đơn có tính thuyết phục đến nỗi bồi thẩm đoàn phải hài lòng với tiêu chuẩn hình sự cần thiết để kết tội đương đơn.

412 Ngày nay, một sự thật hiển nhiên là, các bồi thẩm đoàn có thể, và thường, kết án trong các trường hợp xúc phạm tình dục đã lâu năm. Đôi khi, họ làm như vậy khi, như trong trường hợp này, bằng chứng của người khiếu nại hoàn toàn không được hỗ trợ [136].

413 Cũng cần lưu ý rằng có một số nét đặc biệt liên quan đến cách các phiên xử liên quan đến tội xâm phạm tình dục được thực hiện. Vì trong các trường hợp thuộc bản chất này, không hề có gì lạ thường khi bồi thẩm đoàn trong phiên xử thứ hai chưa bao giờ thực sự thấy người khiếu nại đưa ra bằng chứng trực tiếp tại tòa án [137]. Họ chỉ thấy một đoạn video ghi lại bằng chứng đó, được thực hiện trong phiên tòa đầu tiên [138].

414 Cơ quan lập pháp Victoria đã xác định rằng bằng chứng được đưa ra bởi những người khiếu nại trong các trường hợp liên quan đến xâm phạm tình dục có thể được đưa ra trong máy ảnh [139]. Ngoài ra, có những hạn chế đối với việc tường trình bằng chứng của họ, nghĩa là trong một số trường hợp, những gì họ nói sẽ không bao giờ được công bố [140].

415 Trong những năm gần đây, thông lệ ở Tiểu bang này là ghi lại tất cả các phiên tòa được thực hiện tại các tòa án Hạt (country) và Tòa án Tối cao, và không chỉ những vụ liên quan đến tội phạm tình dục. Điều này có nghĩa là trong trường hợp tái thẩm được ra lệnh, bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa đầu tiên có thể được diễn lại (replayed) cho bồi thẩm đoàn thứ hai. Thật vậy, trong một số trường hợp như vậy, bồi thẩm đoàn thứ hai đó không bao giờ nhìn thấy nhân chứng sống, nhưng được xem mọi bằng chứng trên màn hình.

416 Người khiếu nại bắt đầu bằng chứng của mình trước công tố viên (evidence in-chief) bằng cách nói rằng biến cố đầu tiên xảy ra sau khi đương đơn vừa cử hành 'Thánh lễ Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa'. Người khiếu nại đã nêu ngày đó là vào ‘nửa cuối năm 1996’. Ông ta nói rằng biến cố thứ hai diễn ra ‘hơn một tháng’ sau biến cố đầu tiên.

417 Tuy nhiên, người khiếu nại thừa nhận rằng ông ta không thể ‘nói dứt khoát năm.. . nhưng theo ký ức của tôi thì vào năm 1996. Tôi khá chắc chắn về cùng một năm trong ca đoàn’.

418 Trong cuộc đối chất bởi ông Richter, người khiếu nại thừa nhận rằng ông không thể nói 'với bất cứ sự chắc chắn ngày nào chúng [các biến cố] xảy ra'. Khi nói với ông ta rằng, nếu biến cố đầu tiên xảy ra vào ngày 15 tháng 12 năm 1996, và nếu cả hai biến cố xảy ra trước Giáng sinh năm đó, như người khiếu nại tiếp tục khẳng định, thì biến cố thứ hai, về mặt luận lý, phải xảy ra vào ngày 22 tháng 12 năm 1996. Không thể có ngày nào khác. Đáp lại, người khiếu nại xem ra dao động (vacillate) phần nào. Ông ta nói rằng ông không chắc chắn về ngày chính xác. Tuy nhiên, ông ta tái khẳng định rằng biến cố thứ hai đã xảy ra trước Giáng sinh năm đó.

419 Khi ông Richter một lần nữa nói với người khiếu nại rằng dựa ngay vào trình thuật của người khiếu nại, hai biến cố đã xảy ra vào ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, vì chúng là hai lần duy nhất mà đương đơn đã cử hành Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa trong năm đó, ông ta trả lời rằng ông không chắc chắn lắm liệu [đương đơn] có cử hành Thánh Lễ ngày hôm đó [về biến cố đầu tiên]. Đương đơn có thể tham gia.. . ông ấy đã ở.. . Nhà thờ Chính tòa trong một khoảng thời gian.. . không nhất thiết chỉ là cử hành Thánh lễ.

420 Hiển nhiên, đây là một sự đi trệch đáng kể khỏi chủ trương trước đây của người khiếu nại rằng biến cố đầu tiên xảy ra sau khi đương đơn đã cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật, và trong khi đương đơn còn mặc đủ lễ phục cho biến cố đó. Ông Richter đặc biệt nói với người khiếu nại rằng chủ trương trước đây của ông ta luôn luôn là biến cố đầu tiên đã xảy ra ngay sau khi Thánh lễ được cử hành bởi đương đơn. Người khiếu nại đồng ý rằng đây thực sự là chủ trương của mình. Tuy nhiên, bây giờ ông ta nói rằng ông ta không thể chắc chắn liệu đương đơn có 'nói' Thánh lễ vào ngày xảy ra biến cố đầu tiên hay không, hay ông chỉ đơn thuần là 'chủ trì' Thánh lễ. Tuy nhiên, người khiếu nại lại đồng ý rằng Tổng Giám mục đã mặc ‘đầy đủ lễ phục' khi việc phạm tội diễn ra.



421 Sau đó, trong cuộc đối chất, người khiếu nại không đồng ý với đề xuất cho rằng biến cố đầu tiên chỉ có thể xảy ra vào một trong hai ngày tháng 12 đã được nêu ra. Điều đó bất chấp việc đã nói cho ông ta rằng bằng chứng cho thấy chắc chắn rằng chỉ có hai ngày trong đó đương đơn đã cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật năm 1996, như chính người khiếu nại đã chấp nhận.

422 Khi bị ép về đám rước vào ngày xảy ra biến cố đầu tiên, người khiếu nại nói rằng đó là một đám rước ở bên ngoài. Khi được hỏi chỗ đứng trong đám rước của cậu bé kia trong tương quan với chính mình, người khiếu nại không nói được gì. Tuy nhiên, ông ta xác định rằng cậu bé kia ‘... không ở quá xa’.

423 Người khiếu nại thừa nhận rằng việc tham dự '... tất cả các buổi diễn tập và biểu diễn theo yêu cầu của ca đoàn là các điều kiện để được học bổng'. Ông ta chấp nhận rằng có các buổi diễn tập đặc biệt của ca đoàn vào ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996, mặc dù ông ta không thể nhớ lại chúng một cách chuyên biệt. Ông ta nói rằng ông ‘... luôn đến các buổi [diễn tập] trễ giờ’.

424 Về biến cố đầu tiên, ông ta tuyên bố rằng '... ký ức chuyên biệt đầu tiên của ông ta là đang ở trong căn phòng đó [phòng áo của các linh mục]', và ông ta đã đến khu vực này khi ông ta và cậu bé kia phá rào khỏi ca đoàn và đang ‘lục lọi quanh các hành lang’. Khi ông Gibson hỏi ông thêm chi tiết về bằng chứng để ủng hộ lý lẽ của công tố viện (evidence in-chief), ông nói:

Ừm, ừ, chỉ là chúng tôi đã tách ra khỏi nhóm chính của ca đoàn. Ừm, ca đoàn hơi phân tán và hơi hỗn loạn như đám trẻ nhỏ vẫn thường thế, tôi cho rằng, sau một Thánh lễ. Và chúng tôi đã xoay sở để tách mình khỏi nhóm đó.

425 Người khiếu nại không thể nhớ chính xác ông ta và cậu bé kia ở đâu khi họ tách ra khỏi những người khác trong nhóm. Tuy nhiên, ông ta nói rằng điều này đã xảy ra ‘khá gần’ cuối Thánh lễ và ở giai đoạn đó ‘mọi người chưa thay đồ’.

426 Trong cuộc đối chất của ông Richter, người khiếu nại đã đồng ý rằng, theo trình thuật của ông ta, ông và cậu bé đã phá hàng vào thời điểm các ca viên đã tập hợp bên ngoài cổng kim loại, dẫn trực tiếp vào hành lang nhà vệ sinh.

427 Người khiếu nại không thể nhớ lại ai trong số hai cậu bé đã rời khỏi đám rước trước, hoặc ai đã đưa ra quyết định ‘rời... bỏ’. Ông ta nói rằng ý tưởng rời khỏi đám rước không được lên kế hoạch từ trước.

428 Người khiếu nại sau đó nói rằng hai cậu bé đã vào lại Nhà thờ Chính tòa qua 'lối vào phía nam'. Họ đã vào khu vực phòng áo qua phần bên trong của Nhà thờ Chính tòa, đi qua 'cửa đôi bằng gỗ.' vào phòng áo của các linh mục và 'đảo mắt xung quanh'. Ông ta nói rằng ông ta đã không ở trong căn phòng đó trước đây.

429 Tuy nhiên, trong cuộc đối chất, người khiếu nại thừa nhận đã được đưa đi thăm một vòng Nhà thờ Chính tòa khi lần đầu tiên tham gia ca đoàn. Ông đã không tranh luận việc đã được chỉ cho xem nhiều phòng áo khác nhau trong dịp đó.

430 Người khiếu nại nói rằng ngay lập tức ở bên trái, sau khi vào nhà thờ, có 'một khu vực ốp gỗ.. . giống như.. . một bếp nhỏ có lưu trữ.. .' Các cửa đôi dẫn vào các phòng áo được 'mở khóa, có lẽ mở hé', với '... một cánh cửa được cài chốt và cánh cửa kia có thể mở được'.

431 Khi 'lục' qua chiếc tủ, các cậu bé tìm thấy một chút rượu trong một '... chai màu nâu sẫm'. Rượu có màu đỏ hoặc mầu 'đỏ tía [burgundy]', và đó là 'rượu vang đỏ ngọt'. Các cậu bé bắt đầu 'làm vài hớp' trong khu vực hóc tường. Chính vào thời điểm đó, theo người khiếu nại, đương đơn đã vào phòng áo. Ông mặc lễ phục, và chỉ có một mình.

432 Đương đơn ‘đứng ở lối đi’, và nói điều gì đó như ‘các em đang làm gì ở đây?’ hay ‘các em gặp rắc rối rồi’. Rồi đương đơn.. . cởi của ông ta, à, cởi quần dài hoặc thắt lưng của ông ta ra. Giống như, ông ta bắt đầu di chuyển cái của ông ta, bên dưới áo lễ của mình.. .

433 Người khiếu nại sau đó nói rằng đương đơn.. . kéo [cậu bé kia] sang một bên rồi rút dương vật ra và sau đó túm lấy đầu [cậu bé kia] từ những gì tôi có thể nhìn thấy và, ừm, tôi chỉ có thể giả thiết, đưa dương vật của mình vào miệng cậu ta.

...

Tôi có thể thấy đầu cậu ta bị hạ xuống về phía cơ quan sinh dục của ông ta, và rồi [cậu bé kia] như bắt đầu quằn quại. Tôi không biết, không phải, cậu ấy cũng không nhìn – cậu ấy đang vật lộn, hay sao ấy (you know).



434 Trong cuộc đối chất, người khiếu nại chủ yếu giữ vững trình thuật mà trước đây ông ta đã cung cấp cho cảnh sát về các chi tiết thực sự của hành vi phạm tội xảy ra trong phòng áo của các Linh mục. Ông ta nói rằng đương đơn đã di chuyển áo chùng của mình sang bên hông và lộ dương vật của mình ra. Bản ghi chép (transcript) đọc như sau:

ÔNG RICHTER: [đọc]

‘Ông ấy nói với chúng tôi rằng chúng tôi đã gặp rắc rối dữ rồi. Tôi không thể nhớ lại bất cứ lời nào khác được nói trước khi tôi nhìn thấy Ông ấy rút dương vật ra. Ông ta mặc áo chùng và Ông ta di chuyển chúng sang một bên và để lộ dương vật của Ông ấy ra’ đúng. ‘Tôi không thể nhớ chính xác những gì Ông ta có bên dưới áo chùng’.

Đó là những gì ông đã nói với cảnh sát trong tuyên bố đầu tiên của ông vào ngày 18 tháng 6 năm 2015; Có đúng không?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Đúng.

ÔNG RICHTER: Điều đó có đúng không?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Đúng.

ÔNG RICHTER: Như vậy, ông ta quả di chuyển áo chùng của mình sang một bên và lộ dương vật của mình ra?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Đúng.

435 Người khiếu nại đồng ý rằng bằng chứng của ông ta tại phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không là đương đơn ‘đã kéo chiếc áo chùng của ông ta ra’ và ‘vạch một cái gì đó ra’, do đó để lộ dương vật của ông ta ra. Người khiếu nại nói rằng những câu trả lời ông đã đưa ra tại phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không là đúng.

436 Ông Richter nói với người khiếu nại, tại phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không, rằng ông ta đã không chắc chắn liệu đương đơn có mặc quần trong biến cố đầu tiên hay không. Người khiếu nại đồng ý rằng ông ta đã đưa ra bằng chứng đó.

437 Người khiếu nại sau đó nhắc lại rằng đương đơn đã 'gạt sang một bên' áo chùng của ông ta, và 'tạo ra một cửa mở bằng cách mở áo chùng của ông ta ra'. Người khiếu nại thừa nhận rằng, mặc dù đã nói tại phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không, rằng ông ta không nhớ gì về việc đương đơn có mặc quần hay không bên dưới áo chùng của mình, ông ta đã nói trước bồi thẩm đoàn, trong cuộc khảo sát của công tố (in-chief), rằng đương đơn đã tháo thắt lưng của mình ra. Ông ta giải thích rằng đó là vì ông ta ‘... nghĩ rằng [đương đơn] đang lúng túng cởi vội quần của ông ta hoặc thứ gì đó bên dưới áo chùng của ông ta’.

438 Khi được trưng bầy một trong những lễ phục của Tổng Giám mục, áo anba (alb), một chiếc áo buông thẳng xuống đất, và rõ ràng không thể ‘vạch’ theo bất cứ ý nghĩa nào, người khiếu nại đã đưa ra gợi ý rằng có lẽ 'bạn có thể kéo nó [áo anba] lên trước’. Khi bị thách thức vì sự khác biệt giữa gợi ý đó, và bằng chứng mà ông ta đã đưa ra trước đây về vấn đề này, người khiếu nại giải thích rằng đương đơn đã 'kéo [áo chùng] để lộ dương vật của mình, bất kể cách đó là: lên, qua, xuống, phải, trái. Ông ta kéo nó sang một bên để lộ dương vật của mình ra’.

439 Không ngạc nhiên gì, đây là một trong những vấn đề có liên quan tới bằng chứng của người khiếu nại mà ông Richter đã dựa vào khi mời bồi thẩm đoàn bác bỏ trình thuật của ông ta, trong diễn từ kết thúc của ông.



440 Khi người khiếu nại được cho xem chiếc áo lễ (chasuble) do đương đơn mặc, ông ta đồng ý rằng nó không có bất cứ chỗ mở nào, và nó không thể được kéo sang một bên.

441 Người khiếu nại nói rằng hành vi phạm tội thực sự liên quan đến cậu bé kia xảy ra trong '... một khoảng thời gian ngắn.. . chỉ một hoặc hai phút’. Ông ta nói rằng hành động của đương đơn đẩy dương vật của mình vào miệng người khiếu nại 'khoảng một thời gian ngắn' kéo dài 'chỉ một vài phút tối đa'.

442 Theo người khiếu nại, sau đó, đương đơn đã hướng dẫn anh ta '... cởi quần của tôi ra và lấy mất quần của tôi.. .' Lúc đó, đương đơn 'bắt đầu chạm vào bộ phận sinh dục của tôi.. . thủ dâm.. . hoặc cố gắng làm điều gì đó với cơ quan sinh dục của tôi’. Trong khi điều này xảy ra, đương đơn đã 'rờ mó chính mình.. . trên dương vật.. . bằng bàn tay kia’. Sự xúc phạm đặc thù này diễn ra trong vòng ‘một hoặc hai phút’. Sau đó, ngưng, và người khiếu nại mặc lại quần áo. Ông ấy nói ‘... chúng tôi đứng dậy và chúng tôi rời khỏi phòng’, và ông ấy và cậu bé kia trở lại ‘khu vực thay đồ của ca đoàn'.

443 Người khiếu nại nói rằng trong diễn trình xẩy ra việc phạm tội, cả hai cậu bé đã cất tiếng và ‘đưa ra một số.. . phản đối’. Tuy nhiên, ông ta tuyên bố rằng họ không hét lên. Ông ấy nói rằng con đường họ đã theo để trở lại phòng thay đồ của ca đoàn là ‘bằng cách đi ra ở lối vào phía nam và đi quanh’. Sau đó, ông ấy nói thêm rằng họ đã rời khỏi phòng áo cùng một cách như họ đã đi vào.

444 Ít lâu sau đó, người khiếu nại đã điều chỉnh bằng chứng của mình, chỉ nói rằng ‘rõ ràng có một cách để chúng tôi trở lại với ca đoàn.. . Tôi không chắc chắn trăm phần trăm về việc nó đã xảy ra như thế nào’.

445 Khi được hỏi tại sao các cậu bé không trở lại ca đoàn bằng cách đơn giản rẽ phải khi ra khỏi phòng áo của các Linh mục, và do đó chỉ cần đi qua một cánh cửa duy nhất, người khiếu nại nói rằng ông ta không muốn '... đi qua một cánh cửa ở một khu vực mà lúc đó họ không nên ở đó... ' Ông ta nói rằng ông ta và cậu bé kia đã '... quay lại đó rất, rất nhanh sau những gì đã xảy ra' và rằng 'vẫn còn những người ở xung quanh.'

446 Người khiếu nại nói rằng họ ‘... trở lại với những người khác của ca đoàn vẫn còn đang quanh quẩn và kết thúc việc làm trong ngày’. Ông nói rằng ‘...đến lúc chúng tôi thay quần áo, thì số cậu bé đã ra về nhiều hơn bình thường'. Sau đó, ông ấy nhấn mạnh rằng các cậu bé đã '... trở lại với một nửa của ca đoàn hoặc số lượng ít hơn của ca đoàn đã kết thúc.. . đang thay đồ cho ngày hôm ấy’.

447 Khi ông Richter nói với người khiếu nại bằng chứng của ông ta tại phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không rằng ông ta không biết mình đã đi đâu sau biến cố đầu tiên, và ông ta chỉ có thể '...nhớ đã trở lại xe và lái về nhà sau đó', người khiếu nại chấp nhận rằng đó là những câu trả lời của mình. Ông nói rằng chúng là sự thật. Ông ta không giải thích làm thế nào trí nhớ của ông ta lại đã khá hơn khi ông ta đưa ra bằng chứng tại phiên xử. Khi được hỏi liệu ông ta có thể nhớ lại việc đã quay lại Trung tâm Knox hay không, ông nói rằng ông không thể nhớ.

448 Về biến cố thứ hai, người khiếu nại nhắc lại rằng biến cố này diễn ra ngay sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật và Thánh lễ này đã được đương đơn cử hành. Bản ghi chép đọc như sau:

ÔNG RICHTER: Tôi có thể duyệt lại với ông không - điều này giả thiết xảy ra ngay sau khi Thánh lễ được Đức Tổng Giám Mục Pell cử hành. Chính xác chứ?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Chính xác.

ÔNG RICHTER: Không có thời gian nào để Đức Tổng Giám Mục Pell đứng trên bậc thềm và nói chuyện với mọi người, đúng không?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Có thể lắm.

449 Câu trả lời cuối cùng có thể được cho là một lảng tránh. Rõ ràng, là không có đủ thời gian để đương đơn đứng trên các bậc thềm, nói chuyện với mọi người, theo cách mô tả, và vẫn bắt kịp đám rước trong hành lang phòng áo.

450 Ngay sau đó, người khiếu nại đã co giãn (resiled) một số câu trả lời trước đó của ông ta. Ông ta nói rằng biến cố thứ hai có thể không xảy ra trong một cuộc rước nào cả. Lần đầu tiên, Ông ta nói thêm rằng ông ta không chắc chắn rằng biến cố thứ hai đã xảy ra trong khi ca đoàn đang tiến bước.

451 Trong bằng chứng nói với công tố viên của mình, người khiếu nại đã mô tả biến cố thứ hai như sau:

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Chúng tôi đang bước đi.. . có những người đi dọc hành lang phía sau.. . đi ngang qua phòng áo và tôi thấy ông ta và ông ta dùng thân mình đẩy tôi vào tường và ông ta siết chặt bộ phận sinh dục của tôi.

ÔNG GIBSON: Khi ông nói ‘ông ấy’ là ông đang ám chỉ ai?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: George Pell.

ÔNG GIBSON: Và khi ông nói, ‘Bộ phận sinh dục của tôi’, ông có thể nói chuyên biệt hơn không?

NGƯỜI KHIẾU NẠI: Tinh hoàn của tôi, dương vật của tôi.

452 Người khiếu nại nói rằng biến cố thứ hai chỉ chiếm vài giây. Sau những gì xảy ra, đương đơn '...tiếp tục bước đi'. Ông ta nói rằng ông ta không nghĩ rằng vụ việc đã xảy ra '...dưới mắt bất cứ ai'. Tuy nhiên, sau đó, ông ta đã nhận, có 'một số người xung quanh hành lang... '. Ông ta nói rằng việc lạm dụng tình dục đã diễn ra quá ngưỡng cửa của phòng áo của các Linh mục, ‘hướng về phía sau Nhà thờ Chính tòa'.

453 Trong cuộc đối chất, ông Richter nói với người khiếu nại rằng ông ta đã nói với phiên tòa quyết định có đưa vụ này ra xử không rằng biến cố thứ hai đã xảy ra ở hành lang, nhưng ‘trước khi bạn đến khu vực phòng áo’. Ông ta đã thừa nhận rằng đúng là như vậy.

454 Cuối cùng, người khiếu nại nói rằng vào thời điểm đó, đương đơn đã mặc ‘lễ phục’ (in robes), và ông ta đã mặc một thứ mà ông ta mô tả là ‘chiếc áo choàng bên trên’ (the over robe).

455 Từ bản tóm tắt ngắn gọn này về bằng chứng của người khiếu nại, người ta có thể thấy rằng có rất nhiều tài liệu khiến cho trình thuật của ông ta có thể bị chỉ trích một cách hợp pháp. Có những điều bất nhất, và khác biệt, và một số câu trả lời của ông ta đơn thuần vô nghĩa.

Kỳ tới: Bằng chứng của nhiều nhân chứng khác nhau của công tố đã dẫn đến việc ủng hộ bên bênh vực