Kết luận về Cơ sở 1

1051 Sau khi lưu ý đến toàn bộ các bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa, và sau khi đã nghị bàn rất lâu và gay go về vấn đề này, tôi thấy mình ở vị trí có một mối nghi ngờ thực sự về tội lỗi của đương đơn.

1052 Theo các nguyên tắc được đặt để bởi Tòa án tối cao trong vụ M, nghi ngờ của tôi là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải có. Đó không phải vì tôi nhất thiết phải được coi có khả năng đánh giá tốt hơn các vấn đề sự kiện thuộc loại được nêu ra trong phiên tòa này. Đúng hơn vì Tòa án Tối cao đã nói dứt khoát rằng thông thường, nghi ngờ của tôi là một nghi ngờ mà bồi thẩm đoàn cũng phải có.

1053 Quay sang chi thứ hai của thử nghiệm M, tôi đã xem xét tất cả các lợi thế khác nhau mà bồi thẩm đoàn có được khi đánh giá tầm quan trọng dành cho bằng chứng. Tôi đã so sánh những lợi thế đó, như chúng hiện là trong trường hợp này, với chủ trương của riêng tôi. Tôi đã kết luận rằng những lợi thế đó không làm giảm sự nghi ngờ của tôi.

1054 Nói một cách khách quan, đây luôn là một vụ án gây vấn đề. Các cáo buộc của người khiếu nại chống lại đương đơn, ở mức độ này hay mức độ nọ, là đáng ngờ (implausible). Trong trường hợp biến cố thứ hai, thậm chí điều đó chỉ là một cách nói chưa đủ.

1055 Đó không phải vì lý do người khiếu nại đã cáo buộc rằng ông ta đã bị lạm dụng tình dục, trong quá khứ, bởi một giáo sĩ Công Giáo cao cấp. Đáng buồn thay, như chúng ta đã tiến đến chỗ đánh giá được, không có gì hoàn toàn bất cái nhiên (improbable) về các cáo buộc của loại đó là đúng cả. Đúng hơn, vì lý do các hoàn cảnh chi tiết được cho là đã bao quanh những cáo buộc lạm dụng đó, các hoàn cảnh về thời gian, nơi chốn và cách thức.

1056 Tôi khá không được đệ trình của Ông Boyce thuyết phục rằng bằng chứng của người khiếu nại có sức thuyết phục, cả khi được xem xét một cách tổng thể, lẫn khi lưu ý đến câu trả lời không hài lòng của ông đối với cuộc đối chất mạnh mẽ của ông Richter, đến nỗi tôi nên gạt bỏ tất cả các nhân tố cho thấy trình thuật của ông không đáng dựa vào. Mặc dù tôi không thể kết luận rằng người khiếu nại đã sáng chế ra những cáo buộc này, ít nhất đối với biến cố đầu tiên và không làm như vậy, đó không phải là yếu tố quyết định liệu Cơ sở 1 có thành công hay không.

1057 Trong vụ Palmer, Tòa án Tối cao đã nói rõ rằng trong một trường hợp như trường hợp hiện tại, bên bào chữa không bị đòi hỏi phải chỉ ra bất cứ động cơ nào từ phía người khiếu nại khiến đã bịa đặt ra câu chuyện của ông ta hoặc bà ta. Bên bào chữa cũng không có bổn phận phải đưa ra một lời giải thích về cách thức, hoặc tại sao, người khiếu nại đã tiến đến chỗ đưa ra các cáo buộc của mình. Câu trả lời ngắn gọn cho những câu hỏi này là như một vấn đề pháp luật, chúng không có liên quan. Chúng không ăn uống gì với việc tiến hành thích đáng của một phiên tòa hình sự. Như vụ Palmer đã cho thấy rõ, chúng có xu hướng đảo ngược gánh nặng phải chứng minh, và do đó không bao giờ nên được yêu cầu [258].

1058 Trong trường hợp hiện tại, có một lượng đáng kể các bằng chứng vững chắc đặt nghi ngờ nghiêm trọng lên trình thuật của người khiếu nại, cả về độ đáng tin cậy lẫn độ đáng dựa vào.

1059 Ở thời điểm này, tôi sẽ không duyệt lại 17 'trở ngại vững chắc’ chống lại bản án của ông Richter, cũng như danh sách giảm bớt gồm 13 trở ngại của ông Walker. Tôi sẽ không mô tả đặc tính của tất cả chúng là 'vững chắc', mặc dù, đối với tôi, một số dường như có sức thuyết phục.

1060 Tuy nhiên, tôi sẽ nói một điều xa hơn về khái niệm ‘cộng hưởng các bất cái nhiên’ (compounding improbabilities) mà cả ông Richter, tại phiên tòa, và ông Walker, trước Tòa án này, đặt vào tâm điểm các đệ trình của họ.

1061 Liên quan đến biến cố đầu tiên, ông Richter đã đệ trình rằng mỗi một và mọi điều 'không thể' độc lập đã phải xảy ra trong khoảng thời gian giới hạn như nhau (ông gợi ý 10 phút hoặc gần như thế), nếu trình thuật của người khiếu nại phải được chấp nhận.

1062 Tất nhiên, ngày nay, những lập luận ‘cộng hưởng các bất cái nhiên’ thường được các công tố viên đưa ra [259], và thông thường, hoàn toàn hợp pháp, đưa đến hiệu quả tốt [260].

1063 Trọng điểm của Ông Walker, trong lập luận bằng miệng trước Tòa án này, thực sự là một ứng dụng điều các nhà thống kê gọi là ‘quy tắc tích số’ (the product rule) của lý thuyết xác suất. Quy tắc đó quy định rằng xác suất của việc xảy ra chung của các biến cố độc lập lẫn nhau tương đương với tích số của các xác suất cá thể của mỗi một trong các biến cố [261].

1064 Để trình thuật của người khiếu nại có khả năng được chấp nhận, một số 'điều' được ông Richter trình bầy tại số [840] - trong phần lý do của tôi [262], đã phải diễn ra trong vòng chỉ một vài phút. Trong trường hợp đó, tỷ lệ chống lại trình thuật của người khiếu nại về việc lạm dụng đã xảy ra như thế nào, sẽ rất đáng kể. Các cơ may để ‘tất cả các hành tinh thẳng hàng với nhau’, theo cách đó, ít nhất, cũng đáng bị nghi ngờ. Hình thức ‘phân tích duy xác suất’ này, nếu được áp dụng đúng cách, sẽ gợi ý một cách mạnh mẽ với tôi rằng bồi thẩm đoàn, hành động hợp lý, dựa trên toàn bộ bằng chứng trong trường hợp này, đáng lẽ phải có một sự nghi ngờ hợp lý về tội lỗi của đương đơn.

1065 Tất nhiên, lý lẽ bên bào chữa đã đi xa hơn việc chỉ dựa vào phương thức lý luận này. Như tôi đã nói, trình thuật của người khiếu nại có thể không đứng vững được nếu bằng chứng được đưa ra bởi Portelli, hay Potter, được chấp nhận. Có lẽ còn quan trọng hơn, nó không thể đứng vững ngay cả khi bằng chứng của họ được đánh giá là ‘có thể một cách hợp lý’.

1066 Lý lẽ viết của công tố đã đệ trình rằng không ai trong số 22 nhân chứng được gọi tới phiên tòa, những người đưa ra bằng chứng được cho là ủng hộ bên bào chữa, có thể nói bất cứ điều gì vuợt quá điều mà 'thủ tục thông thường' vốn đã có vào năm 1996, và vào đầu năm 1997, cả hai liên quan đến các di chuyển của chính họ và các di chuyển của những người khác. Với lòng kính trọng, điều đó không phải như vậy, ít nhất là liên quan đến Portelli và Potter, và ở một mức độ nào đó, cả McGlone nữa.

1067 Ông Boyce đệ trình rằng điều quan trọng là không ai trong số các nhân chứng được gọi tới phiên tòa có thể ở vị trí nói được rằng việc bị cáo buộc là vi phạm 'đã không xảy ra' [263]. Thay vào đó, bằng chứng của những nhân chứng này chỉ gợi ý rằng một số khung cảnh nào đó, chẳng hạn như Tổng Giám mục bị bỏ lại một mình, trong Nhà thờ Chính, trong khi mặc áo lễ, là 'không có xác suất’ (unlikely) xảy ra. Sự nhượng bộ, về phía bất cứ nhân chứng nào này, rằng khung cảnh này có thể đã xảy ra được cho là đã khắc phục lý lẽ 'không thể’ của ban bào chữa. Như một hệ luận, đã có đệ trình rằng điều này cung cấp câu trả lời hoàn chỉnh cho cơ sở kháng cáo của đương đơn.

1068 Ông Boyce đã đi xa đến mức đệ trình rằng, ở mức cao nhất, bằng chứng cho bên bào chữa chỉ đơn thuần xác lập rằng có thể có những ‘trở ngại’ (hindrances) để trình thuật của người khiếu nại được chấp nhận, nhưng không hơn thế. Ông đệ trình rằng công tố đã đề cập từng ‘trở ngại vững chắc’ một tại phiên tòa, và bồi thẩm đoàn đã được quyền nhận thấy rằng chúng hoàn toàn không ‘vững chắc’. Do đó, họ được quyền hành động dựa trên bằng chứng của người khiếu nại, dù có thể nó không được hỗ trợ.

1069 Theo ông Boyce, Portelli là nhân chứng duy nhất tuyên bố chuyên biệt cho rằng đã không ngừng ở với đương đơn trong Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại mọi thời điểm liên quan.

1070 Về phương diện đó, ông Boyce đã đệ trình rằng bằng chứng của Portelli đã được bổ nghĩa (qualified) ở một số khía cạnh quan trọng. Thí dụ, ông ta đồng ý rằng có thể đã có một dịp ông ta không thực sự đi cùng với đương đơn để trở lại phòng áo của mình ngay sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật. Portelli nói rằng ông ta không nhớ bất cứ trường hợp nào như vậy, nhưng ông ta chấp nhận rằng nó có thể xảy ra nếu, vì một số lý do, ông ta phải cởi áo trước.

1071 Ông Boyce cũng lưu ý rằng Portelli đã thừa nhận rằng có thể đã có một dịp, mặc dù đã đi cùng đương đơn đến cửa phòng áo, ông đã để ông ta một mình trong một thời gian ngắn, khoảng hai phút hay gần như thế. Portelli nói rằng điều này rất có thể đã xảy ra nếu có một buổi lễ khác trong Nhà thờ Chính tòa vào chiều hôm đó, và ông cần phải quay lại khu cung thánh để đảm bảo rằng mọi thứ đã sẵn sàng cho biến cố đó [264]. Chính xác làm thế nào một hoặc hai phút vắng mặt loại đó lại có thể củng cố lý lẽ của công tố, hoặc cung cấp sự hỗ trợ cho trình thuật của người khiếu nại, điều này không rõ ràng đối với tôi.

1072 Ông Boyce nhận xét rằng Portelli đã khăng khăng rằng ông đã đồng hành cùng đương đơn tới phòng áo của các linh mục sau khi cả hai Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật vào tháng 12 năm 1996. Portelli cho rằng ông có một ký ức thực sự và chuyên biệt đã làm thế, và đây không phải là một sự tái dựng, về phần ông, dựa trên những gì là thực hành bình thường của ông lúc đó. Ông khăng khăng cho rằng ông không biết gì về việc đương đơn có bao giờ bị để ở một mình trong Phòng áo của các Linh mục.

1073 Ông Boyce đệ trình rằng bồi thẩm đoàn có quyền bác bỏ toàn bộ bằng chứng của Portelli về những vấn đề này. Khi được hỏi liệu ông ta có ở cùng đương đơn trong mọi dịp ông ta cử hành Thánh lễ trong cả hai năm 1996 và 1997, Portelli đã dễ dàng đồng ý. Tuy nhiên, khi được hỏi liệu lần đầu tiên đương đơn cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa có là ngày 15 tháng 12 năm 1996 hay không, câu trả lời của ông không có gì nhấn mạnh hơn là "có vẻ đúng". Đã có đệ trình cho rằng đó khó là một câu trả lời tự tin, hoặc không hàm hồ, cho câu hỏi. Cũng vậy, khi Portelli được hỏi liệu đương đơn có cử hành Thánh Lễ vào ngày 22 tháng 12 năm 1996 hay không, ông ta chỉ có thể trả lời 'điều đó có thể chính xác'. Một câu trả lời được phát biểu bằng các hạn từ này cũng được cho là gây ra sự nghi ngờ về độ đáng dựa vào trong bằng chứng của Portelli .

1074 Ông Boyce đã tương phản sự không chắc chắn được giả định với lời khăng khăng được lặp đi lặp lại và nhấn mạnh của Portelli, rằng ông đã không ngừng có mặt với đương đơn cả trong hai ngày 15 và 22 tháng 12 năm 1996 và vào ngày 23 tháng 2 năm 1997.

1075 Một cuộc tấn công tiếp theo được thực hiện bởi Ông Boyce chống lại Portelli lưu ý rằng, bất chấp khăng khăng nói rằng ông ta có một ký ức rõ ràng về các biến cô xảy ra từ mãi năm 1996 (bao gồm cả tháng 12 năm đó), khả năng của ông ta trong việc nhớ lại những ngày khác và những dịp khác mà không cần phải nhắc nhở thì ít gây ấn tượng hơn. Do đó, thí dụ, ký ức của Portelli về các biến cố tháng 11 năm 1996 được cho là không gần chính xác như ký ức của ông về hai ngày của tháng 12.

1076 Trong trả lời của mình, ông Walker đã đệ trình rằng ông Boyce đã tạo cho Portelli một sự bất công nghiêm trọng bằng cách đã tấn công bằng chứng của ông ta. Chắc chắn, ông Walker thừa nhận, trí nhớ của Portelli đã được nhắc nhở, tại nhiều thời điểm, bởi luật sư của cả hai bên dưới đây.

1077 Ông Walker đệ trình rằng không có gì tai họa về việc nhắc nhở như vậy. Việc đối chất thường phục vụ mục đích hoàn toàn hợp pháp đó. Hầu như không có gì đáng ngạc nhiên khi Portelli cần phải được nhắc nhở một số chi tiết về các biến cố, dù sao, cũng đã diễn ra hơn 20 năm về trước. Không biến cố nào trong số các biến cố đó có thể có bất cứ điều gì giống như tầm quan trọng đối với Portelli của việc Đức Tổng Giám Mục đã cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên của mình sau khi được bổ nhiệm.

1078 Ông Walker đệ trình rằng sự kiện Portelli có thể không có ký ức chi tiết về một số trong những biến cố diễn ra vào tháng 11 năm 1996 một lần nữa là điều khó gây ngạc nhiên. Những vấn đề đó sẽ chỉ quan trọng rất ít đối với ông ta, nhất là để ý đến sự kiện, trong nhiều năm qua, ông ta từng tham dự hơn 100 Thánh lễ với đương đơn.

1079 Thật hợp lý khi nghĩ rằng Portelli sẽ nhớ việc đứng trên các bậc thềm của Nhà thờ Chính tòa sau Thánh lễ với Đức Tổng Giám Mục trong Thánh lễ trọng thể Chúa Nhật đầu tiên của ngài. Tháp tùng Đức Tổng Giám Mục tới cuộc 'gặp gỡ và chào hỏi' của ngài là một phần chính trong vai trò của Portelli. Cả việc không bao giờ để ngài một mình, trong Nhà thờ Chính Tòa, trong khi mặc áo lễ cũng thế.

1080 Ông Walker đã đệ trình rằng việc Portelli sử dụng thành ngữ chung, ‘có thể như thế’ (it would have been) hoặc "Tôi tin như vậy’, đặc biệt khi nói đến việc phác hoạ các vấn đề thực hành, cho thấy ông là một nhân chứng hoàn toàn đáng tin và đáng dựa vào. Không có gì để gợi ý rằng ông ta đã một cách ý thức hoặc tiềm thức tìm cách trợ giúp đương đơn trong việc bào chữa của ngài. Thật vậy, như đã nêu chi tiết trước đây, công tố đã đặc biệt bị thẩm phán xét xử ngăn cản đưa bất cứ đệ trình nào như vậy cho ông. Portelli đã trả lời những câu hỏi đặt ra cho ông về các vấn đề nghi lễ và thực hành bằng các lời lẽ thích hợp với hình thức chúng được hỏi.

1081 Ông Walker đã đệ trình rằng 'sự nhượng bộ' của Portelli đối với ông Gibson rằng 'có thể', đôi khi, đương đơn có thể đã ở trong phòng áo của các linh mục, mà không có Portelli ở đó với ông ta, chỉ đơn giản là một dấu chỉ sự kiện này: ông ta là một nhân chứng hoàn toàn đáng tin, làm hết sức mình để đưa ra bằng chứng xác thực. ‘Khả thể’ mà ông Portelli đã nói đến khi trả lời câu hỏi mà ông Gibson đặt ra tự nó được bổ nghĩa rất cao. Dù sao, nó khó là một loại ‘khả thể’, theo bất cứ cách hợp lý nào, có thể điều chỉnh trình thuật của người bị khiếu nại về các biến cố.

1082 Nói một cách đơn giản, ông Walker đệ trình rằng có mọi lý do để hai Thánh lễ Chúa Nhật đầu tiên của Đức Tổng Giám Mục, và Thánh lễ đầu tiên mà ngài chủ trì vào tháng 2 năm 1997, là các biến cố thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống của Portelli. Chúng như được in sâu vào trí nhớ của ông.

1083 Ông Walker tóm tắt chủ trương của bên bào chữa liên quan đến Portelli như sau:

Nhưng điều quan yếu đối với các mục đích của chúng tôi không phải là những điều thực sự có thể, cả tại phiên tòa hoặc tại đây, để luật sư công tố nói những điều này, nói theo kiểu nói của ông bạn tôi, có thể được 'đặt sang một bên', loại bỏ, chúng không thể và chúng thực sự không nên và sẽ không hợp lý để bồi thẩm đoàn không coi ông ta như một nhân chứng, không bị gợi ý nói láo, không bị gợi ý không có ký ức; ông được mời làm điều mà mọi người chúng ta được mong đợi làm như khả năng tối đa của chúng ta về những vấn đề thường ngày được hỏi về khoảng 22 năm trước.
...

Và Đức ông Portelli xứng đáng hơn, xin nói với lòng tôn trọng, xứng đáng hơn so với cách bằng chứng của ông bị chỉ trích và coi thường về tầm quan trọng của nó đối với việc đánh giá độc lập của các Quan tòa đối với tư liệu dùng cho câu hỏi đầu tiên theo vụ M.

1084 Ông Walker nhắc nhở Tòa án này rằng Portelli đã không bị thách thức, trực tiếp hay gián tiếp, về ký ức của ông rằng, vào hai ngày trong tháng 12 năm 1996, ông đã đứng bên cạnh đương đơn, trong một thời gian kéo dài, tại các bậc thềm trước của Nhà thờ Chính tòa.

1085 Ông Boyce cũng chĩa một loạt những lời chỉ trích vào bằng chứng được McGlone đưa ra. Ông ta đệ trình rằng ngay cả khi McGlone được Tòa án này phát hiện là một nhân chứng đáng tin, thì điều ông ta bây giờ cho là mình nhớ dịp đầu tiên đương đơn đã cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật (chủ yếu dựa vào sự hiện diện của mẹ ông ta và tác phong gây bối rối ngày hôm đó ), vẫn sẽ chỉ cung cấp cho đương đơn một bằng chứng ngoại phạm cho ngày hôm đó. Nó sẽ không bao gồm cả hai ngày [265].

1086 Liên quan đến Potter, ông Boyce đệ trình rằng, theo thỏa thuận, cả hai bên đã đối xử với ông ta một cách nhẹ nhàng. Vì lý do tuổi tác, thẩm phán xét xử đã miễn trừ cho công tố việc phải tuân thủ bất cứ nghĩa vụ đặc thù Browne v Dunn nào liên quan đến Ông. Ông Boyce đệ trình rằng, trong những trường hợp này, bồi thẩm đoàn hoàn toàn có quyền hình thành bất cứ quan điểm nào mà họ cho là thích đáng đối với Potter. Tất nhiên, quan điểm ấy phải đúng. Tuy nhiên, do đó, đề xuất cho rằng các thành viên của Tòa án này có quyền hình thành quan điểm riêng của họ về Potter cũng như thế. Ông Boyce mời chúng tôi hoàn toàn để sang một bên bằng chứng của ông ta, như ông đã làm liên quan đến Portelli. Tôi bác bỏ đệ trình đó.

1087 Theo quan điểm của tôi, Portelli là một nhân chứng đáng tin và đáng dựa vào. Đối với tôi, ông ta rõ ràng đã cố gắng hết sức để nhớ lại các biến cố của nhiều năm trước đây, và đối với tôi, dường như ông ta đã đưa ra được cú phản công (đấm) rất tốt khi làm như vậy. Chỉ riêng bằng chứng của ông ta đã có thể đủ để tạo ra một sự nghi ngờ hợp lý về tội lỗi của đương đơn vì, nếu nó dù chỉ 'có thể một cách hợp lý' vừa đúng sự thực vừa chính xác, thì trình thuật của người khiếu nại phải là 'không thể', ngay cả trong ý nghĩa đầy đủ nhất của hạn từ đó.

1088 Dù lưu ý tới tuổi đời của Potter, và một vài điểm mất trí nhớ rõ ràng, tôi cũng coi ông ta như một nhân chứng trung thực, người đang làm hết sức mình để thẳng thắn với tòa án dưới thế. Tôi cũng coi ông ta như một nhân chứng mà bằng chứng nói chung có thể được chấp nhận là đáng dựa vào khi nói đến các vấn đề thực hành phụng vụ, và vai trò đã hàng thập niên của ông ta như Người coi phòng áo. Cũng như với Portelli, Potter sẽ có lý do tốt để nhớ lại lần đầu tiên đương đơn đã cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính Tòa.

1089 Tôi thấy bằng chứng của McGlone, là đáng tin liên quan đến cuộc gặp gỡ mà ông mô tả giữa mẹ ông và Tổng Giám mục. Bằng chứng của ông ta liên quan đến tác phong của mẹ ông ta trong dịp đó có ‘tiếng vang của sự thật” (ring of truth) rất mạnh mẽ về điều đó.

1090 Bằng chứng của Finnigan, liên quan đến việc đương đơn đứng ở các bậc thềm của Nhà thờ Chính tòa sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, đặc biệt quan trọng. Người ta nhớ rằng ông rời chức vụ giám sát ca đoàn vào Lễ Giáng sinh năm 1996. Nếu, đến lúc đó, đương đơn đã khai triển thực hành đứng ở các bậc thềm phía trước, thì lý thuyết của công tố rằng thực hành 'gặp gỡ và chào hỏi' có thể chưa được khai triển cho đến năm 1997 đã bị chứng minh một cách thuyết phục là không thể đứng vững được.

1091 Nếu trong một khoảnh khắc, tôi có thể quay sang hồ sơ phỏng vấn đương đơn, tôi sẽ nói rằng tôi coi việc ông bác bỏ đã được thực hiện một cách mạnh mẽ và thuyết phục. Cũng cùng một sự xem xét tới điều tôi đã nói tới liên quan đến các nguy hiểm của việc dành quá nhiều tầm quan trọng cho các vấn đề về thái độ ứng xử, đối với tôi, dường như đương đơn bị sốc và tức giận vì bản chất của các cáo buộc được nói cho ông, như tôi hiểu nó, lần đầu tiên trong chi tiết.

1092 Ở một mức độ hạn chế, tôi cũng tính đến lời bác bỏ của cậu bé kia với mẹ mình rằng ông ta đã từng bị lạm dụng tình dục khi còn là thành viên của ca đoàn. Xem xét tới sự miễn cưỡng dễ hiểu của nhiều nạn nhân bị lạm dụng tình dục trong việc phàn nàn với người khác, việc cậu bé kia bác bỏ việc mình bị lạm dụng như thế có thể được cho là đã đi một bước xa hơn việc không có bất cứ khiếu nại nào. Việc bác bỏ đó là một vấn đề cần được xem xét, kết hợp với phần còn lại của toàn bộ bằng chứng, khi quyết định liệu nó có rõ ràng một cách hợp lý để bồi thẩm đoàn được thuyết phục ngoài sự nghi ngờ hợp lý hay không.

1093 Xử lý sau đó với lý thuyết 'người điên', điều rõ ràng là một số kẻ phạm tội tình dục phạm các tội ác của họ theo cách có thể được mô tả đúng là gần như 'nghẹt thở trong tính trơ trẽn của nó'. Người ta từng biết các thầy giáo đã quấy rối tình dục học sinh trong lớp và ngay cả trong khi có mặt của các học sinh khác.

1094 Theo kinh nghiệm của Tòa án này, điều không hề bất thường khi khi đưa ra một đệ trình cho rằng một bản án phải bị bác bỏ như là không hợp lý vì hành vi bị cáo buộc đầy rẫy nguy hiểm đến mức có thể không có thực (improbable) một cách cao độ. Một lập luận chỉ ẩn dưới những hạn từ này, và không có gì hơn, hiếm khi thành công.

1095 Mặc dù vậy, trình thuật của người khiếu nại về biến cố thứ hai, đối với tôi, dường như đã đưa sự trơ trẽn lên một tầm cao mới, một loại mà tôi chưa từng được thấy. Việc sử dụng thuật ngữ ‘điên rồ’ có thể là một kiểu nói bay bướm hùng biện. Nó có thể vô cảm và không thích đáng, mặc dù tòa án hình sự không phải là nơi làm héo úa các bông hoa tím.

1096 Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng bất cứ công tố viên nào cũng sẽ cảnh giác với việc buộc tội thuộc loại nghiêm trọng như thế này chống lại bất cứ ai, dựa trên ý niệm đáng ngờ (implausible) rằng một vụ tấn công tình dục kiểu này xảy ra ở nơi công cộng, và trước sự chứng kiến của nhiều người có tiềm năng làm nhân chứng. Nếu biến cố xảy ra theo cách người khiếu nại cáo buộc, đối với tôi, dường như rất khó có khả năng là không ai trong số nhiều người có mặt nhìn thấy những gì đang xảy ra, hoặc báo cáo theo cách nào đó.

1097 Nếu, theo tôi nghĩ, không rõ ràng để bồi thẩm đoàn được thuyết phục, vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, về tội lỗi của đương đơn liên quan đến biến cố thứ hai, thì đó là một nhân tố, thông thường, được dự kiến sẽ tác động đáng kể đến tính khả tín của người khiếu nại nói chung [266]. Nói cách khác, một nghi ngờ về vấn đề đó thường sẽ tạo ra sự nghi ngờ thực sự đối với tính đáng tin và đáng dựa vào của người khiếu nại liên quan đến biến cố đầu tiên.

1098 Tuy nhiên, tôi nhận rằng các điều 44F và 44G của JDA (đã bãi bỏ quy tắc được đặt ra ở New South Wales trong vụ R v Markuleski [267]) phải được ghi nhớ khi đánh giá việc Tòa án này, theo điều 4A của Đạo luật đó, đã lý luận ra sao liên quan đến vấn đề đó. Thành thử, tôi buộc phải tránh coi tính có thể không đúng sự thực (improbability) trong trình thuật của người khiếu nại liên quan đến biến cố thứ hai như có nghĩa là cùng một nghi ngờ mà tôi đã có liên quan đến vấn đề đó nhất thiết phải được áp dụng vào trình thuật của ông ta về biến cố đầu tiên. Điều đó có thể trái với lương tri (counterintuitive) ở một số khía cạnh, nhưng đó là điều, theo tôi, pháp luật dường như đòi hỏi, và nhất quán với hướng trong đó các lời buộc tội phát sinh từ biến cố đầu tiên không được chấp nhận qua lại (cross-admissible) với lời buộc tội phát sinh từ biến cố thứ hai.

1099 Xin nói rõ, như tôi đã chỉ ra trước đây, tôi thấy không có gì nội tại là có thể không đúng sự thật trong cáo buộc rằng một giáo sĩ cao cấp, bất kể thuộc giáo phái nào, lạm dụng tình dục một đứa trẻ. Những phát hiện của Ủy ban Hoàng gia về các Đáp ứng Định chế đối với việc Lạm dụng Tình dục Trẻ em nói lên một bản cáo trạng gây sững sờ về nạn giáo sĩ lạm dụng ở đất nước này.

1100 Tuy nhiên, phải nhớ rằng các cáo buộc của người khiếu nại trong trường hợp này không thể, và không nên, được xem một cách tách biệt với việc mô tả chi tiết của ông ta về các hoàn cảnh trong đó việc vi phạm như thế được cho là đã xảy ra. Không thể nói một cách hợp pháp rằng bất kể trình thuật của người khiếu nại có thể không đúng sự thật bao nhiêu, ít nhất liên quan đến các vấn đề chi tiết, và bất kể bộ bằng chứng gỡ tội đưa ra tại phiên xử xem ra có sức thuyết phục thế nào, thái độ ứng xử của người khiếu nại khi đối đầu với cuộc đối chất kéo dài hẳn cũng luôn phỗng tay trên (trump) các nhân tố thuộc loại đó.

1101 Trong vụ án hiện tại, cũng như trong rất nhiều vụ khác liên quan đến hành vi xâm phạm tình dục đã lâu năm, ma quỷ có ở trong chi tiết. Sẽ sai lầm khi nói rằng mặc dù người khiếu nại có thể đã nhầm lẫn về một số vấn đề xung quanh việc vi phạm các hành vi bị cáo buộc là phạm tội này (như hiển nhiên ông ta sai lầm), bồi thẩm đoàn, hành động hợp lý, có thể đơn giản đặt tất cả những điều đó sang một bên, và gạt bỏ những sai lầm của ông ta như không là gì hơn là những vấn đề ở ngoại vi. Đôi khi một cách tiếp cận loại đó có thể được biện minh. Tuy nhiên, điều đó không miễn trừ Tòa án này khỏi nhiệm vụ thực hiện một cuộc đánh giá đầy đủ và đúng đắn về toàn bộ bằng chứng, bao gồm các vấn đề chi tiết. Dù sao, thường chỉ các chi tiết của một hành vi bị cáo buộc là phạm tội có thể là đối tượng của một cuợc đối chất hữu hiệu. Một lời kết án có tội trong những hoàn cảnh trong đó những vấn đề này không thể được thăm dò, hoặc khám phá, đúng đắn, sẽ là và nên là một một vấn đề đáng quan tâm.

1102 Các vụ án như Palmer (và ở mức độ thấp hơn, có lẽ, cả SKA), cho thấy rõ ràng rằng như một phần của việc 'đánh giá độc lập' toàn diện, phải được đảm nhiệm bởi một tòa án phúc thẩm trung gian, giá trị chứng minh của bằng chứng do người khiếu nại đưa ra phải được cân bằng với sự thuyết phục của bất cứ bằng chứng nào hỗ trợ cho lý lẽ của bên bào chữa, hoặc ít nhất tạo một nghi ngờ đối với lý lẽ của công tố.

1103 Điều quan trọng cần lưu ý là trong cả vụ Palmer lẫn vụ SKA, bằng chứng của người khiếu nại đã được mô tả là ‘đáng tin’. Thật vậy, nó thực sự được hỗ trợ bởi bằng chứng độc lập (hoặc nói theo thuật ngữ cũ, nó đã được chứng thực[corroborated]). Tuy nhiên, khi phải đối đầu với bằng chứng gỡ tội rằng ‘xem ra thuyết phục’, bất chấp sự kiện, tự nó, nó không có tính giải quyết dứt khoát (dispositive), sự đáng tin trong trình thuật của người khiếu nại đã không đủ để duy trì lời kết án trong vụ Palmer, và cuối cùng có thể được chứng minh như vậy, cả trong vụ SKA nữa.

1104 Điều tương tự cũng đúng với vụ án này, mặc dù chắc chắn tôi sẽ không cho rằng bằng chứng của người khiếu nại là bất cứ điều gì giống như có sức thuyết phục so với những người khiếu nại trong vụ Palmer và vụ SKA. Không giống như bằng chứng của những người khiếu nại trong các vụ án đó, bằng chứng của người khiếu nại trong vụ án này không được chứng thực (nếu sử dụng thuật ngữ cũ), thậm chí không được hỗ trợ một cách độc lập. Hơn nữa, công tố trong vụ án này phải đối đầu với một lý lẽ mạnh mẽ của bên bào chữa hơn nhiều so với việc họ đã phải đói đầu trong cả hai phán quyết đó của Tòa án Tối cao.

1105 Công tố đã phải chứng minh tội lỗi của đương đơn quá sự nghi ngờ hợp lý. Bên bào chữa không phải chứng minh gì cả. Tuy nhiên, họ đã chỉ rõ cả một bộ bằng chứng đáng kể rằng, theo họ đệ trình, ít nhất ‘khả thể hợp lý’ cũng đã rõ ràng để các cáo buộc của người khiếu nại không đạt được tiêu chuẩn về bằng chứng cần thiết để kết tội [268]. Theo quan điểm của tôi, đệ trình của ông Walker rằng bên bào chữa đã thành công trong việc làm tốt đề xuất đó nên được chấp nhận.

1106 Trong vụ Chamberlain (số 2) [269], Deane J, người không đồng ý với kháng cáo (nhưng là người, có thể cần được ghi nhận, cuối cùng, mặc dù vì những lý do khác, đã được chứng minh là đúng). Quan tòa nhận xét rằng ‘nguyên cớ liên tiếp chấp nhận phiên xử bởi bồi thẩm đoàn’ không có xác suất hữu dụng bằng cách coi lời kết án có tội của bồi thẩm đoàn là không thể thách thức hoặc không thể kiểm tra được. Làm như thế có thể 'lấy hết nhựa và làm suy yếu thể chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn', và phải chịu bị coi là 'công cụ có tiềm năng gây bất công cố thủ'. Như Quan tòa đã nói, nếu bằng chứng đưa ra chống lại bị cáo không xác lập được tội lỗi vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, thì có một sự hoài thai công lý nếu người đó bị xét xử là có tội dựa trên bằng chứng đó.

1107 Chánh án Deane nói thêm rằng điều này không y hệt như việc nói rằng người thành công trên cơ sở này đã bị kết tội khi thực tế ông ta vô tội. Nó không có nghĩa gì hơn là người đó đã không bị chứng minh là có tội theo tiêu chuẩn đòi hỏi bởi một nguyên tắc căn bản của việc quản trị công lý hình sự.

1108 Quan tòa tiếp tục bằng cách lưu ý rằng khi phiên xử là bởi bồi thẩm đoàn, và có bằng chứng có khả năng hợp lý được coi như xác lập tội lỗi vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, câu hỏi liệu nó có luôn luôn làm như thế hay không là một câu hỏi dành cho bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, câu hỏi được tòa phúc thẩm xem xét là liệu, ngay cả khi có bằng chứng như vậy, việc bồi thẩm đoàn phát hiện ra tội lỗi phải đứng vững mặc dù tòa án phúc thẩm đã được thuyết phục rằng, dựa trên sự đánh giá chứng cứ của mình trước bồi thẩm đoàn, và mặc dù bồi thẩm đoàn kết án là có tội, vẫn còn một nghi ngờ thực sự về tội lỗi của bị cáo.

1109 Chánh án Deane nói rằng ông thấy câu hỏi liệu bằng chứng không thành công trong việc xác lập ngoài sự nghi ngờ hợp lý rằng bà Chamberlain đã giết con gái của mình là một câu hỏi khó khăn. Ông thừa nhận rằng bằng chứng gián tiếp chống lại bà ta có vẻ mạnh mẽ. Ông nói rằng có rất nhiều điều về câu chuyện của ban bào chữa nói về con dingo đã làm ông sững sờ như là ‘cường điệu’ (far-fetched).

1110 Đồng thời, Quan tòa nói rằng lý lẽ của công tố chống lại bà Chamberlain không toàn diện mà bản thân nó cũng không vững vàng. Phần lớn bằng chứng được đưa ra tại phiên tòa là bằng chứng của các chuyên gia mâu thuẫn nhau, và bằng chứng suy diễn từ các sự kiện đã được xác lập. Ông kết luận rằng, cố gắng hết sức, cuối cùng ông tiến tới một quan điểm vững chắc rằng, bất chấp phán quyết có tội của bồi thẩm đoàn, bằng chứng đã không xác lập được tội lỗi của bà Chamberlain, quá sự nghi ngờ hợp lý.

1111 Tôi thấy mình ở trong một chủ trương khá giống với chủ trương đối đầu bởi Dean J. Nói theo ngôn ngữ của Quan tòa, tôi nghĩ, có một ‘khả thể đáng kể’ là đương đơn trong trường hợp này có thể không phạm các tội ác này. Điều này có nghĩa là, theo ý kiến đầy tôn trọng của tôi, các bản án này không thể được phép đứng vững. Trật tự duy nhất có thể được thực hiện một cách thích đáng là đương đơn được trắng án ở từng cáo buộc.

1112 Tất nhiên, quan điểm của tôi là quan điểm thiểu số liên quan đến Cơ sở 1. Tôi bối rối bởi sự kiện này là tôi thấy mình bị buộc phải khác với hai đồng nghiệp của mình, những người mà các ý kiến tôi luôn tôn trọng rất nhiều. Điều đó đã khiến tôi phải suy nghĩ kỹ hơn nữa về kết quả thích đáng của đơn này. Tuy nhiên, sau khi đã làm như vậy, tôi không thể, theo lương tâm tốt, làm gì khác hơn là duy trì sự bất đồng quan điểm của mình.

Kỳ tới: Kết luận về kháng cáo dựa trên cơ sở 2 và 3