Ngày 13-09-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Kỳ diệu của ơn được tha thứ
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
06:34 13/09/2019
Chúa Nhật 24 Thường Niên, năm C

Nơi tòa giải tội, tôi đã từng gặp nhiều hối nhân bỏ xưng tội, bỏ rước lễ lâu năm. Một khi họ quyết tâm trở về, tôi nhận ra, hầu như tất cả họ đều cảm nghiệm tình trạng bất hạnh của mình. Xa Chúa, họ mất bình an hoàn toàn. Họ chới với, cô đơn, tuyệt vọng. Họ hổ thẹn và muốn chạy trốn hết mọi người.

Lẽ ra, khi thấy mình mất mát như thế, hối nhân phải đến tòa giải tội. Nhưng thật trớ trêu, càng xa Chúa, họ càng sợ tòa giải tội, bởi họ dư biết, đến với tòa giải tội cũng đồng nghĩa với việc họ phải đối diện cùng lương tâm của mình. Mà lương tâm có bao giờ tha thứ hay bao che cho ai. Vỉ thế, họ cố tìm cách chạy trốn. Bao nhiêu năm cố gắng chạy trốn lương tâm, phiêu lưu trong tội lỗi, con người chỉ còn lại nơi mình toàn những chán chường, thất vọng.

Ngược lại, do một động lực nào đó, họ lên đường về lại cùng Chúa, họ sẽ bắt gặp một tình yêu đại lượng không gì bằng.

Họ sẽ lấy lại tất cả quyền làm con Thiên Chúa. Tâm hồn sẽ bình an vô cùng. Họ thấy mình như vừa sống lại sau một thời gian chính mình giết chết mình.

Có hối nhân còn nghẹn ngào vì ân hận, pha lẫn niềm sung sướng vì vừa được giải thoát, vừa như trút gánh nặng của lương tâm đè nặng tâm hồn bấy lâu nay, vừa cảm nhận tình yêu tha thứ mà Thiên Chúa không ngừng trao ban. Vì thế, giọt nước mắt trong tiếng nghẹn ngào sẽ là giọt hạnh phúc tuôn trào trên khóe mắt.

Cảm nhận được hạnh phúc khi trở về cùng Chúa, không phải vì chính việc họ trở về cho bằng họ đã chạm tới lòng nhân hậu vô cùng luôn nội tại nơi chính cung lòng Thiên Chúa đã dành cho họ, chờ đợi họ.

Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới đong đầy hạnh phúc trong lòng người. Tình yêu chờ đợi cách hết sức bền bỉ của Chúa, làm cho lòng cứng cỏi của con người bị thiêu cháy, chỉ còn lại niềm tin tưởng mà thôi.

Hãy nhớ, mỗi một lần ta phạm tội là mỗi một lần ta bứt ra khỏi tình yêu của Chúa. Còn tình yêu của Chúa lại vượt lên trên mọi tính toán, mọi đo lường của ta.

Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin cha anh đối xử với anh như một người làm công. Nhưng cha anh lại hồi phục cho anh mọi giá trị làm con. Anh là con, chứ không phải làm công.

Vậy, chúng ta hãy trở về cùng Chúa. Người đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta là đứa con hoang đàng, nhưng không bị bỏ rơi.

Chỉ cần trở về cùng Chúa bằng việc ăn năn tội, xưng thú tội lỗi, là ta lại được Chúa trả lại mọi giá trị làm con của Chúa cho ta.

Hãy nhớ rằng, chỉ có con cái mới bỏ cha mình, còn người làm cha không dễ gì dứt bỏ con cái. Ta không sợ Thiên Chúa từ bỏ, vì Người yêu ta như yêu chính bản thân Người. Chỉ có ta liều lỉnh, đã nhiều lần từ chối tình yêu của Chúa mà thôi.

Lạy Chúa, chúng con thấy mình vẫn rơi vào tội lỗi của người con hoang đàng, bởi biết bao nhiêu lần chúng con đã phạm tội. Chúng con thèm tự do quyết định đời mình, nhưng tự do ấy biến chúng con thành nô lệ, một thứ nô lệ đớn hèn, đó là nô lệ cho tội lỗi.

Xin lôi kéo chúng con về cùng Chúa. Xin tha thứ tội lỗi chúng con. Xin ban sức mạnh để từ nay, chúng con quyết tâm chừa bỏ tội lỗi của mình
. Amen.
 
Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì yêu
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:06 13/09/2019
Suy Niệm Chúa Nhật XXIV Thường Niên - C

(Lc 15, 1-32)

Ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hình ảnh ba chiều về Một Thiên Chúa giầu lòng ái tuất.

Dụ ngôn : "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); "Đồng bạc bị đánh mất" (x. Lc 15, 8-10); cụ thể hơn cả là dụ ngôn "Tình phụ tử" (x. Lc 15, 11-32) thể hiện niềm vui viên mãn tràn đầy. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thể cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người mất chiên cũng có thể tìm lại được chiên, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người tội lỗi trở về, Chúa Cha khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng đầy lòng trắc ẩn và rất mực yêu thương chúng ta.

Xem video và nghe bài giảng

"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái ; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên… : "Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha" (Lc 15, ). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động : "phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy" (Lc 15, 22-24).

Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con khiến chúng ta liên tưởng tới Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Người trước các tội nhân, Người ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời… Ôi khoảnh khắc tuyệt với ! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc ! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa Nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).

Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm : "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.

Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.

Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.

Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, xin giúp đỡ chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Nhìn lên Thánh Giá
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
18:47 13/09/2019
Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Bài đọc 1 sách Dân Số kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.

Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.

Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).

Dịp hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.

1. Núi Nebo

Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.

Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó! . Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).

Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.

Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.

Ngày 20/03/2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.

Ngày 9/5/2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.

Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14) .

Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để
kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.

Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.

2. Tại sao lại treo con rắn ?

Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa : Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.

3 . Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?

Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.

Bài đọc 1 là “lời tiên báo” của sách Dân Số, một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (x. Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người chúng ta, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ : Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Ngài “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh giá để nhìn thấy:

- Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
- Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính; và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!

4 . Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?

Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.

Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Thánh giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống, vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.

Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Adam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Thì giờ đây, sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại (bài đọc 2). Vì tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên cho Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì những người mình yêu.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.





 
Thấy rồi tình thôi xót xa
Lm Nguyễn Xuân Trường
18:52 13/09/2019
Cả 3 dụ ngôn trong Phúc Âm tuần này đều nói đến tìm: tìm chiên, tìm tiền, tìm con. Ba dụ ngôn đều muốn trình bày Thiên Chúa luôn yêu thương đi tìm chúng ta, và vui mừng khi chúng ta sám hối trở về.

1. Yêu phải đi tìm. Trong đời, khi chúng ta càng yêu quý, gắn bó với người nào vật nào, thì khi mất người đó, vật đó, chúng ta càng tiếc xót. Người hay vật mà ta yêu quý đã trở thành 1 phần của đời ta, nên khi bị mất thì càng xót xa. Thiên Chúa dựng nên ta, yêu thương ta, coi ta là con của Ngài, nên khi ta lạc mất thì Chúa xót xa, tiếc lắm, tiếc đứt ruột. Vì tiếc nên Chúa phải đi tìm cho bằng được. Thiên Chúa luôn luôn yêu thương đi tìm con người.

2. Tìm thấy thì vui. Và kinh nghiệm thực tế cho thấy khi đã tìm thấy người yêu dấu hay vật yêu thích thì chúng ta mừng lắm, mặt rạng rỡ vui tươi, miệng thốt lên sung sướng: tìm thấy rồi! Chả thế mà cả 3 dụ ngôn kết thúc đều nói lên niềm vui khi tìm thấy tiền, thấy chiên, thấy con. Niềm vui không chỉ của riêng mình, nhưng niềm vui muốn được chung chia cùng bạn bè lối xóm. Và khi Thiên Chúa tìm thấy người lầm lạc sám hối trở về thì niềm vui không chỉ giới hạn nơi trần thế mà còn vươn tới trời cao: cả triều thần thánh Thiên Quốc cùng vui. Thật đúng là: Và con tim đã vui trở lại…

Tạ ơn Chúa luôn yêu thương đi tìm chúng ta. Thế nên, đừng bao giờ chạy trốn tình yêu Chúa. Hãy để Chúa tìm ta về với Ngài hưởng niềm vui. Thiên Chúa vui khi đi tìm người tội lỗi sám hối trở về. Thế thì, xin cho mỗi người chúng ta thay vì cứ vui một cách vô tình khi hả hê chê trách, chỉ trích người lầm lỗi, thì hãy tạo dựng niềm vui bằng cách chạnh lòng thương cảm cùng Chúa đi tìm những người lầm lạc và giúp họ sám hối trở về. Amen.



------- Trân trọng giới thiệu 3 phút video chia sẻ TÌM THẤY TÌNH THÌ TƯƠI TỈNH

https://www.youtube.com/watch?v=gAD6JmlsmUA&t=560s
 
Cả con lẫn ''cha'' đều “hoang đàng”
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
21:23 13/09/2019
Linh mục Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “Cuộc trở về an toàn” như sau : “Nếu từ ‘hoang đàng’ có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha thì hoang phí về tình thương, và người con thì hoang phí về tiền bạc vật chất.”

Người con hoang phí

Người con thứ hoang phí, hoang đàng như thế nào thì dụ ngôn đã nói rõ. Nó đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài cực kỳ hoang phí.

Người cha hoang phí

Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui.

Nếu chúng ta là người cha, người cha không hoang phí, thì người cha sẽ xử theo 1 trong 3 cách này :

1. Ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: “Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình tao (và cũng là gia đình mày); vì mày mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu.”

2) Ông có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề đối với đứa con trở về.

3) Ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: “Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình.”

Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.

Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí.

Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Tin Mừng Gioan 3,16 ghi : “Thiên Chúa yêu thế gian quá sức đến nỗi đã tặng ban luôn người Con Một…” Yêu gì mà đến nỗi đem con, mà là con một, tặng cho người khác ? Giải thích nổi không? Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương ? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

Nhiều người không chấp nhận lối hành xử phung phí (*) lòng tốt của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài không có quyền gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.

Một hội từ thiện kia xây dựng một trung tâm nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trung tâm, như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu : "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp : "Bởi vì một trong các thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".

Ngôi Con hoang phí

Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con phung phí hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị :

"Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngôi Con đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi. Ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài. Sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã phung phí tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngôi Con muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Ngôi Cha, khi đã phung phí hết đến cạn kiệt để phải thốt lên trên thập giá : 'Ta khát'. Ngôi Con đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, trỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: 'Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của các con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con'. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng (như người con hoang đàng trở về nhà cha trong dụ ngôn).

"Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con (Ngôi Con) từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: 'Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người 'Con Hoang Đàng' của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về...

"Và tất cả họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”

Chúng ta nhắc lại câu nói của hội viên : "đừng ngại phí tổn gì hết, bởi một trong những thiếu niên hư hỏng đó là con tôi”

Chúa Cha rất hoang phí lòng thương xót miễn là cứu được đứa con hoang đàng là chúng ta trở về. Hãy trở về với Cha đấng hoang phí lòng thương xót, và nhất là hãy bắt chước Cha, hoang phí lòng thương xót đối với anh chị em khác, nhất là đó lại là những người thân yêu trong gia đình đang gặp khó khăn.

LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

(lấy ý từ Lm Nguyễn Hữu An)

_________________________________

(*) Ta nhớ lại dụ ngôn người gieo giống, cũng phung phí quá sức. Ông tung gieo hạt giống, hạt xuống vệ đường, hạt kẹt bụi gai, hạt rải trên sỏi đá, rất phóng khoáng, phung phí, chỉ ít hạt mới rơi vào đất. Ta mà gieo giống thì không phung phí như vậy !
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một cơ hội hiếm có để gặp gỡ Đức Giáo Hoàng: Ngài sẽ tông du Thái Lan và Nhật Bản
Đặng Tự Do
03:21 13/09/2019
Trong thông cáo báo chí đưa ra hôm thứ Sáu 13 tháng Chín, Ông Matteo Bruni Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết như sau:

Từ ngày 19 đến 26 tháng 11 năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tông du Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản.

Theo lời mời của Chính phủ Vương quốc Thái Lan và các Giám mục nước này, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện một cuộc tông du đến Vương quốc Thái Lan từ ngày 20 đến 23 tháng 11 năm 2019.

Bên cạnh đó, nhận lời mời của Chính phủ và các Giám mục Nhật Bản, Đức Thánh Cha cũng sẽ thực hiện một cuộc tông du đến quốc gia này từ ngày 23 đến 26 tháng 11 năm 2019, trong đó ngài sẽ đến thăm các thành phố Tokyo, Nagasaki và Hiroshima.

Chương trình chi tiết hai chuyến tông du này sẽ được công bố sau.


Source:Holy See Press Office
 
Tòa thánh công bố Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Thái Lan và Nhật Bản vào tháng 11 tới.
Thanh Quảng sdb
04:19 13/09/2019
Tòa thánh công bố Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm Thái Lan và Nhật Bản vào tháng 11 tới.

Văn phòng Báo chí Tòa thánh vừa thông báo chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Thái Lan và Nhật Bản từ ngày 19 đến 26 tháng 11 tới. Ngài sẽ là vị Giáo hoàng thứ hai đến thăm hai quốc gia châu Á này sau Thánh Giáo hoàng John Paul II.
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thăm hai quốc gia châu Á:
- Vương quốc Thái Lan từ 20 đến 23 tháng 11,
- và Nhật Bản từ 23 đến 26 tháng 11, tại Nhật ĐTC sẽ đến thăm Tokyo, Nagasaki và Hiroshima.
Chương trình chi tiết của chuyến tông du này sẽ được thông báo sau.

Tại Vương quốc Thái Lan
Chủ đề cho chuyến tông du bắt đầu từ Thái Lan với chủ đề: "Các môn đệ của Chúa Kitô, những người truyền giáo” để đánh dấu một mốc điểm quan trọng của giáo hội tại Thái là kỷ niệm 350 năm thành lập Tông tòa tại Xiêm được ký kết vào năm 1669.

Sự kiện này được ghi rõ trong logo chuẩn bị cho chuyến viếng thăm. Bên dưới Đức Giáo Hoàng đang mỉm cười là một chiếc thuyền tượng trưng cho việc truyền giáo. Ba cánh buồm gợi nhớ đến Thiên Chúa Ba Ngôi. Bàn tay tượng trưng cho Đức Nữ Trinh Maria đang nâng đỡ phù trì con tàu Giáo hội. Cuối cùng là cây Thánh giá như lời mời toàn thể Giáo Hội Công Giáo Thái Lan hãy làm chứng nhân cho Tin mừng.

Lục địa châu Á
Vào tháng 1 năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp cho đại hội của Ủy ban Giáo lý do Hội đồng Giám mục Châu Á nhóm họp; kèm theo một phái đoàn của Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa thánh tới tham dự tại Bangkok. Trong thông điệp đó ĐTC viết: "chúng con được qui tụ lại từ khắp các nước châu Á, một địa lục rộng lớn và đa dạng, có nhiều nhiều tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa, nên trọng trách của chúng con phải hiệp nhất để bảo toàn niềm tin Công Giáo, cũng như khám phá ra các phương tiện và phương pháp mới mà làm chứng cho Tin mừng giữa những thách đố của thế giới đương đại chúng ta đang sống".

Nhật Bản
Chủ đề của chuyến tông du đến Nhật Bản tập trung vào việc bảo vệ sự sống và sáng tạo, được trích từ một đoạn trong lời cầu nguyện cho trái đất của chúng ta, nằm ở cuối Thông điệp “Laudato Sì”, về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Trong tài liệu đó, ĐTC khuyến khích mọi người hãy tôn trọng phẩm giá của con người và môi trường chúng ta đang sống.

Điều này mang một ý nghĩa đặc biệt ở một đất nước như Nhật Bản nơi mà thảm họa về bom nguyên tử hạt nhân, như chúng ta thấy phảng phất trên logo, "vẫn còn là một vấn đề đau nhức dai dẳng”.
Ba ngọn lửa gồm ba màu khác nhau đặc trưng cho những ý nghĩa khác nhau: ngọn lửa đỏ gợi nhớ đến các vị tử đạo, hạt giống gieo mầm cho Giáo hội Nhật Bản; ngọn lửa màu xanh đậm tượng trưng cho Đức Trinh Nữ Maria, người Mẹ đang ôm ấp cả nhân loại và ngọn lửa mầu xanh lá cây tượng trưng cho bản chất của người Nhật, nói lên sứ mệnh loan báo Tin Mừng yêu thương và niềm hy vọng cho toàn thể cuộc sống...
 
Phản ứng của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi hay tin Hoa Kỳ bị tấn công khủng bố ngày 11/9/2001
Đặng Tự Do
16:34 13/09/2019
Trong những ngày này Hoa Kỳ đang long trọng tưởng niệm biến cố tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, 2001 khiến 2,977 nạn nhân vô tội bị thiệt mạng cùng với 11 tên khủng bố. Thông tấn xã Catholic News Agency cho biết như sau về phản ứng của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi hay tin về biến cố bi thảm này.

Khi ba chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới và Ngũ Giác Đài, và Chuyến bay 93 đã rơi xuống cánh đồng Pennsylvania vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, tiến sĩ Joaquín Navarro-Valls, vào thời điểm đó là giám đốc văn phòng báo chí của Vatican, đã chuyển tin tức cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

“Tôi nhớ buổi chiều khủng khiếp đó như thể là mới ngày hôm qua. Tôi đã gọi điện cho Đức Giáo Hoàng, lúc ấy đang ở tại Castel Gandolfo, tôi đã đưa tin cho ngài. Ngài đã kinh hoàng không chỉ bởi chính thảm kịch, mà còn bởi vì ngài không thể giải thích làm thế nào con người có thể đạt đến vực thẳm tội ác này, ” tiến sĩ Joaquín Navarro-Valls hồi tưởng lại trong một cuộc phỏng vấn năm 2011 với Vatican Insider.

Đức Gioan Phaolô II, là người đã lớn lên tại Ba Lan, đã tận mắt chứng kiến quê hương mình đầu tiên bị Đức Quốc xã xâm lược, và sau đó là Liên Sô, và trong tư cách là Giáo Hoàng đã điều hướng thế giới trong vùng biển quốc tế đầy nguy hiểm của Chiến tranh Lạnh, không xa lạ gì với bi kịch chiến tranh.

Tuy nhiên, các cuộc tấn công khủng bố vào Hoa Kỳ vẫn làm ngài rúng động sâu sắc.

“Ngài đã bị chấn động sâu sắc, buồn bã. Nhưng tôi nhớ rằng câu hỏi lớn nhất ngài đã tự hỏi mình là làm thế nào một cuộc tấn công khủng khiếp như thế có thể xảy ra. Cùng với nỗi đau trước những hình ảnh đó, là sự mất tinh thần của ngài,” tiến sĩ Navarro-Valls nói.

“Ngài đã ở lại một thời gian ngắn trước màn ảnh TV. Sau đó, ngài lui về nhà nguyện, chỉ cách phòng TV vài bước chân. Và ngài vẫn ở đó một thời gian dài để cầu nguyện. Ngài cũng muốn liên lạc với tổng thống George Bush, để truyền đạt sự hỗ trợ, nỗi đau, lời cầu nguyện của ngài. Nhưng không thể liên lạc với tổng thống, là người vì lý do an ninh đang di chuyển trên các máy bay của Air Force One.”

“Thay vào đó, Đức Gioan Phaolô II đã quyết định gửi thông điệp chia buồn và bảo đảm những lời cầu nguyện qua telegram, và là một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên trên thế giới làm điều đó trong ngày bi thảm này.”

Trong điện văn, Đức Giáo Hoàng viết:

“Tôi vội vàng bày tỏ với ngài và đồng bào ngài nỗi buồn sâu sắc và sự gần gũi của tôi khi cầu nguyện cho Hoa Kỳ tại thời điểm đen tối và bi thảm này”, Đức Giáo Hoàng viết.

Trong một bài viết vào năm 2011 trên tờ National Catholic Register, đại sứ James Nicholson, người vừa nhậm chức tân đại sứ của Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh vào năm 2001, đã nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với Đức Gioan Phaolô II, chỉ hai ngày sau vụ khủng bố.

“Điều đầu tiên Đức Giáo Hoàng nói với tôi là ngài cảm thấy rất buồn bã trước những gì vừa xảy ra tại Hoa Kỳ. Tiếp theo, ngài mời tôi cùng nhau cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ.”

“Sau đó, Đức Giáo Hoàng nói một điều rất sâu sắc và tiên tri về tai ương khủng bố quốc tế.” Ngài nói, “Đại sứ Nicholson, đây là một cuộc tấn công, không chỉ ở Hoa Kỳ, mà còn trên toàn nhân loại. Và sau đó, ngài nói thêm “Chúng ta phải làm mọi cách ngăn cản những người này nhân danh Chúa để giết hại người ta.”

Ngày 11 tháng 9 năm 2001 là ngày thứ ba.

Ngày hôm sau, thứ Tư, có buổi triều yết chung với những người hành hương tập trung tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngài đã bỏ bài giáo lý được soạn sẵn sang một bên để nói về thảm kịch mà thế giới vẫn đang quay cuồng.

Ngài nói:

“Tôi không thể bắt đầu buổi triều yết chung này mà không bày tỏ nỗi buồn sâu sắc của mình trước các cuộc tấn công khủng bố diễn ra ngày hôm qua đã mang đến cái chết và sự hủy diệt cho nước Mỹ, cướp đi sinh mạng hàng ngàn nạn nhân và làm bị thương vô số người. Tôi xin gửi đến Tổng thống Hoa Kỳ và tất cả công dân Mỹ, nỗi buồn chân thành. Trước nỗi kinh hoàng khó tả như vậy, chúng ta không thể không rúng động sâu sắc. Tôi thêm tiếng nói của mình vào tất cả những tiếng nói trong những giờ này để bày tỏ sự lên án, sự phẫn nộ, và tôi mạnh mẽ nhắc lại rằng những phương thế bạo lực sẽ không bao giờ dẫn đến những giải pháp đích thực cho những vấn đề của loài người.

Hôm qua là một ngày đen tối trong lịch sử nhân loại, một sự khủng khiếp đối với phẩm giá con người. Sau khi nhận được tin, tôi đã theo dõi với sự quan tâm mãnh liệt về tình hình đang phát triển, với những lời cầu nguyện chân thành dâng lên Chúa. Làm sao một hành vi tàn ác dã man như vậy có thể xảy ra? Trái tim con người có những chiều sâu mà từ đó những âm mưu tàn bạo đôi khi xuất hiện, có khả năng phá hủy trong một khoảnh khắc cuộc sống hàng ngày bình thường của cả một dân tộc. Nhưng đức tin đến trợ giúp chúng ta vào những thời điểm này khi những lời nói dường như thất bại. Từ Chúa Kitô là từ duy nhất có thể đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi gây hoang mang cho lòng trí chúng ta. Ngay cả khi các thế lực bóng tối dường như chiếm ưu thế, những người tin vào Chúa biết rằng cái ác và cái chết không có tiếng nói cuối cùng. Hy vọng Kitô giáo dựa trên sự thật đó. Vào những thời điểm như thế này chúng ta kín múc sức mạnh từ đức tin và lời cầu nguyện của mình.

Với lòng cảm thông sâu sắc, tôi xin gửi những lời này đến dân tộc thân yêu Hoa Kỳ trong thời điểm đau khổ và đớn đau này, khi lòng can đảm của rất nhiều người nam nữ có thiện chí đang bị thử thách. Cách riêng, tôi bày tỏ sự gần gũi với gia đình của những người bị thiệt mạng và những người bị thương, và bảo đảm với họ về sự gần gũi về tinh thần của tôi. Tôi phó dâng cho lòng thương xót của Đấng Tối Cao những nạn nhân bất lực của thảm kịch này, là những người mà tôi đã dâng thánh lễ sáng nay, cầu xin cho họ được yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng. Xin Chúa ban ơn can đảm cho những người sống sót. Cầu xin Ngài nâng đỡ các nhân viên cấp cứu và nhiều tình nguyện viên hiện đang nỗ lực hết sức để đối phó với tình huống khẩn cấp như vậy.

Anh chị em thân mến,

Anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện cho họ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa để vòng xoáy của lòng thù hận và bạo lực không thắng thế. Xin Đức Trinh Nữ, Mẹ của Lòng Thương Xót, lấp đầy trái tim của tất cả mọi người bằng những suy nghĩ khôn ngoan và ý định hòa bình.

Hôm nay, sự cảm thông chân thành của tôi xin được gởi đến người dân Mỹ, hôm qua đã phải chịu những cuộc tấn công khủng bố vô nhân đạo cướp đi mạng sống của hàng ngàn con người vô tội và gây ra nỗi buồn khôn tả trong trái tim của tất cả những người nam nữ. Hôm qua thực sự là một ngày đen tối trong lịch sử của chúng ta, một cuộc tấn công kinh hoàng chống lại hòa bình, một cuộc tấn công khủng khiếp chống lại nhân phẩm.

Tôi mời tất cả anh chị em tham gia cùng tôi phó dâng những nạn nhân của thảm kịch kinh hoàng này cho tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin ơn an ủi của Người đối với những người bị thương, các gia đình bị ảnh hưởng, tất cả những người đang làm hết sức mình để giải cứu những người sống sót và giúp đỡ những người bị thương.

Tôi xin Chúa ban cho người dân Mỹ sức mạnh và lòng can đảm mà họ cần vào thời điểm đau buồn và thử thách này.”


Source:Catholic News Agency
 
Phán Quyết Của Chánh Án Weinberg Về Kháng Cáo Của Đức Hồng Y Pell: ‘Các trở ngại chắc chắn’ chống kết án, trở ngại 3
Vũ Văn An
18:10 13/09/2019
(3) Không thể có việc đương đơn mặc áo lễ và ở một mình sau Thánh lễ

708 Ông Richter đệ trình rằng bằng chứng cho thấy Luật Giáo hội có từ nhiều thế kỷ cho thấy rõ ràng rằng không một Giám mục nào (tất nhiên, bao gồm cả Tổng Giám mục) có thể bị để ở một mình trong nhà thờ, trong khi mặc áo lễ. Trách nhiệm của Portelli, với tư cách là chưởng nghi, là liên tục ở với đương đơn trong khi ngài mặc áo lễ.

709 Đã có đệ trình thêm rằng Portelli là một người có kinh nghiệm giữ chức vụ đó, sau khi đã thi hành vai trò đó với Tổng Giám mục Little. Hơn nữa, nhiều nhân chứng đã đồng ý rằng, sau khi đương đơn được bổ nhiệm làm Tổng giám mục, Portelli luôn ở cùng với đương đơn. Như đã nói, ông được mô tả giống như một ‘cái bóng’ hay ‘vệ sĩ’.

710 Bằng chứng của Portelli là ông có một ký ức rõ ràng về hai lần đầu tiên mà đương đơn cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật tại Nhà thờ chính tòa. Ông khăng khăng cho rằng ông ở bên đương đơn trong cả hai ngày này.

711 Liên quan đến biến cố thứ hai, bằng chứng của Portelli, như sau:

ÔNG RICHTER: Vâng, nghi thức [protocol] là?

PORTELLI: Nghi thức là người cao cấp nhất luôn là người cuối cùng trong đoàn rước. Thành thử, do đó, nếu là Đức Tổng Giám Mục, ngài luôn là người cuối cùng, bất kể ngài sắp cử hành Thánh lễ hay chỉ chủ trì Thánh lễ, ngài luôn là người cuối cùng.

ÔNG RICHTER: Có bất cứ dịp nào đức ông có thể nhớ lại việc Tổng Giám mục tiến trở lại phòng áo, đẩy bất kỳ ai sang một bên hoặc đẩy bất cứ ai không?

PORTELLI: Không.

ÔNG RICHTER: Hoặc cố gắng vượt qua các giáo sĩ và các người giúp lễ khác và đẩy lấy đường đi vào đám đông - hay một đám ca viên không?

PORTELLI: Không.

ÔNG RICHTER: Đức ông đã bao giờ thấy ngài đẩy ai chưa?

PORTELLI: Không, tôi không thấy.

ÔNG RICHTER: Ngài là một người đàn ông sừng sững như vậy, ngài là gì nhỉ, khoảng sáu bộ Anh bốn ở giai đoạn đó?

PORTELLI: Vâng, ngài như thế.

ÔNG RICHTER: Tôi có thể đưa Đức ông qua một chủ đề khác, nếu tôi được phép, và đó là điều này. Các nhiệm vụ của chưởng nghi quan trọng về phương diện lịch sử, điều đó có đúng không, trong - - -?

PORTELLI: Có - có, đúng, khá nhiều tiền lệ liên quan đến nó.

ÔNG RICHTER: Có cả một bộ lịch sử liên quan đến chức vụ đó?

PORTELLI: Vâng, có.

ÔNG RICHTER: Và đó là một chức vụ chuyên biệt của Giáo hội?

PORTELLI: Nó là như thế.

ÔNG RICHTER: Chưởng nghi cho cả Đức Giáo Hoàng lẫn Tổng giám mục?

PORTELLI: Vâng.

ÔNG RICHTER: Các chưởng nghi đã được biết đến từ Thế kỷ thứ 5?

PORTELLI: Đúng.

ÔNG RICHTER: Vâng, đức ông đã nghiên cứu lịch sử Giáo hội?

PORTELLI: Tôi có nghiên cứu.

ÔNG RICHTER: Trên thực tế, các chưởng nghi đã được đặc biệt nêu tên một cách chuyên biệt từ Thế kỷ 15 hay sau đó?

PORTELLI: Vâng, tuyệt đối như vậy.

ÔNG RICHTER: Và nhiệm vụ của họ được nêu ra trong một số công trình uyên bác, một số có từ nhiều thế kỷ trước?

PORTELLI: Vâng, đúng thế.

ÔNG RICHTER: Và sức đẩy của các công trình đó là một Tổng Giám mục không được để ở một mình?

PORTELLI: Ngài – ngài không thể bị như vậy.

ÔNG RICHTER: Khi ngài đã mặc áo lễ?

PORTELLI: Ừm.

ÔNG RICHTER: Có không?

PORTELLI: Từ lúc ngài thực sự bước vào một nhà thờ.

ÔNG RICHTER: Vâng, và đức ông đã miệt mài học hỏi điều đó khi đức ông trở thành chưởng nghi cho Đức Tổng Giám Mục Pell?

PORTELLI: À, tôi đã thực hiện cùng các chức năng này cho Đức Tổng Giám Mục Little trong ba năm.

ÔNG RICHTER: Vậy à. Vì vậy, đức ông biết chính xác những gì đòi hỏi?

PORTELLI: Vâng.

ÔNG RICHTER: Và không có dịp nào đức ông biết khi Tổng Giám mục Pell, lúc đã mặc áo lễ trong tư cách Tổng Giám mục hoặc mặc áo trong tư cách chủ trì, bị đức ông để ở một mình, hoặc nếu đức ông phải đi vào cung thánh, chẳng hạn, như đức ông đã thảo luận hôm qua - - -?

PORTELLI: Vâng.
...

ÔNG RICHTER: Đức ông có nhớ rằng việc [đức ông đi xem xét các cuốn sách trong cung thánh] đã xảy ra vào hai lần đầu tiên khi Đức Tổng Giám Mục Pell cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật không?

PORTELLI: Không, nó không xẩy ra bởi vì những dịp đó - nếu có những biến cố vào buổi chiều của các ngày đó, chúng phải được liệt kê trong danh sách các cam kết mà ông đã đọc lớn lên.

ÔNG RICHTER: Có không?

PORTELLI: Và chúng không được liệt kê.

ÔNG RICHTER: Vâng. Vì vậy, tình hình là thế này, đức ông nói nó không xảy ra trong hai dịp đó. Đức ông thực sự có thể nói nó đã không xẩy ra, há đức ông không thể sao?

PORTELLI: Có.

ÔNG RICHTER: Được. Bây giờ, sau khi đã nói điều đó, chúng ta đã thảo luận khái niệm cho rằng một ai đó có thể tiếp cận Đức Tổng Giám Mục và muốn một cuộc trò chuyện riêng tư sau Thánh lễ?

PORTELLI: Ừm.

ÔNG RICHTER: Và lúc đó đức ông sẽ bước sang một bên vì điều đó?

PORTELLI: Vâng.

ÔNG RICHTER: Nhưng trong dịp đó, đức ông sẽ thấy Đức Tổng Giám Mục đi cùng với người đó, một người như vậy, hoặc đến văn phòng của ngài hay đến phòng áo?

PORTELLI: Vâng.

ÔNG RICHTER: Vâng, nhưng ngài sẽ ở với người đó?

PORTELLI: Vâng.

ÔNG RICHTER: Và đức ông sẽ được yêu cầu ngay lập tức trở lại với ngài khi cuộc trò chuyện riêng tư đó đã chấm dứt?

PORTELLI: Nếu nó từng xảy ra, thí dụ, - - -

ÔNG RICHTER: Vâng?

PORTELLI: - - - mà ngài muốn nói chuyện với, cứ nói thế đi, thì bình thường sẽ có một trong những linh mục ở đó.

ÔNG RICHTER: Có?

PORTELLI: Nếu ngài cần nói chuyện với ai đó, ngài thường sẽ nói với người ấy hoặc trước Thánh Lễ, ‘này, tôi sẽ nói chuyện với người này và người này’, và như thế tôi chỉ đơn giản đợi ở ngoài cửa.

ÔNG RICHTER: Đúng?

PORTELLI: Hoặc nếu không, đó là một quyết định mà ngài đã đưa ra ở đó và lúc đó, ngài sẽ chỉ cho tôi hay, ‘Hãy cho chúng tôi một phút’, và tôi sẽ tìm cách bận bịu ở một khoảng cách xa.

ÔNG RICHTER: Những dịp đó đã không xảy ra trong hai Thánh lễ trọng thể đầu tiên?

PORTELLI: Không, theo ký ứ của tôi.

ÔNG RICHTER: Chúng ta đang nói tới khoảng thời gian nhiều năm khi điều đó có thể xảy ra đó đây, lúc này lúc nọ, nhưng không phải vào năm 1996?

PORTELLI: Đúng.

ÔNG RICHTER: Đức ông có đồng ý không?

PORTELLI: Có.

712 Ông Richter lưu ý rằng ông Gibson đã không thách thức bằng chứng của Portelli, liên quan đến bản chất của các nhiệm vụ Chưởng nghi của ông này. Chuyện như vậy, mặc dù thẩm phán xét xử đã cho phép ông Gibson được đối chất Portelli về sự đáng dựa vào bằng chứng của ông (mặc dù không đúng y như sự thật của nó).

713 Ông Richter mời bồi thẩm đoàn nhớ rằng Portelli đã tiếp tục nói rằng nếu vì một lý do nào đó, ông không thể ở cùng Tổng Giám mục trong vài phút hoặc khoảng thế, một ai khác sẽ đảm nhận vai trò đó. Chẳng hạn, nếu có một Thánh lễ đặc biệt khác được lên lịch trình tại Nhà thờ Chính tòa vào chiều hôm đó, và Portelli phải dành hai phút để thu thập vật phẩm từ cung thánh trước khi trở lại với Tổng Giám mục để hỗ trợ ngài cởi áo lễ, chắc chắn Potter sẽ ở lại với đương đơn suốt thời gian đó. Tuy nhiên, Portelli đã khẳng định rằng không có gì thuộc loại đó xảy ra vào ngày 15 hoặc 22 tháng 12 năm 1996. Bất cứ Thánh lễ đặc biệt nào như vậy chắc chắn sẽ được liệt kê trong tờ Kairos, và không có gì đã được liệt kê như vậy.

714 Portelli nói rằng nếu đương đơn đã đi vào phòng áo của các Linh mục sau Thánh lễ vào một trong những ngày đó, lý do duy nhất của ngài để làm như vậy sẽ là để cởi áo lễ. Ông nhấn mạnh rằng đương đơn sẽ chỉ cởi áo lễ với sự trợ giúp của Portelli. Ông nói rằng việc cởi áo lễ liên quan đến việc xử lý các lễ phục thánh thiêng, và được coi như một phần của phụng vụ.

715 Ông Richter đệ trình rằng bằng chứng của McGlone hỗ trợ Portelli về phương diện này. McGlone nói rằng một Tổng Giám mục mặc lễ phục không bao giờ có thể bị để ở một mình, ít nhất là trong suốt diễn trình nghi lễ. Những nghi lễ này tiếp diễn cho đến khi Tổng Giám mục thực sự đã cởi lễ phục. Ông nói rằng các lễ phục không chỉ đơn giản là thánh thiện, nhưng còn được làm phép. Chúng rất thánh thiêng. Có những lời cầu nguyện chuyên biệt được đọc cả khi mặc áo và cởi áo lễ.

716 Portelli nói rằng ông nhớ mình đã giúp đương đơn mặc áo lễ khi ngài cử hành Thánh lễ lần đầu tiên trong tư cách Tổng Giám mục tại Nhà thờ Chính tòa. Ông nói thêm rằng các linh mục đồng tế cũng sẽ có mặt trong phòng áo của các Linh mục ở thời điểm đương đơn mặc và cởi áo lễ.

717 Ông Richter đệ trình rằng bằng chứng của Portelli về vấn đề này cũng được Potter hỗ trợ. Ông nói rằng nếu Portelli tình cờ không ở với đương đơn vì bất cứ lý do đặc thù nào, ông ta, tức Potter, sẽ đảm bảo rằng hoặc ông ta hoặc một linh mục hoặc các linh mục khác sẽ ở đó để chăm sóc ngài.

718 Về phương diện đó, điều thích hợp là quay lại trích đoạn bằng chứng của Potter, về chủ đề này, được trình bầy tại số [509] của những lý do này.

Trả lời của công tố - Có thể có việc đương đơn mặc áo lễ và ở một mình sau Thánh lễ

719 Ông Gibson, trong diễn từ kết thúc của mình, đã đệ trình rằng việc 'hoàn toàn có thể' là vào ngày 15 hoặc 22 tháng 12 năm 1996, đương đơn đã không được Portelli tháp tùng khi ông trở lại phòng áo của các Linh mục sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật.

720 Ông Gibson lưu ý rằng Portelli đã đồng ý rằng ông ta không nhớ chuyên biệt việc mình đã ở với đương đơn mọi phút trong thời gian sau Thánh lễ, mặc dù ông đã điều chỉnh câu trả lời đó bằng cách nói rằng ông không ở cách xa đó lắm. Ông đã giải thích rằng đó là vì ông ta, chính ông ta, đã phải cởi áo lễ.

721 Ông Gibson nhắc nhở bồi thẩm đoàn rằng Portelli đã đồng ý rằng có thể đã có những lúc ông ta không liên tục ở gần Tổng Giám mục, ngay sau Thánh lễ, mặc dù ông nói rằng những dịp như vậy rất hiếm. Ông không nhớ chuyện này từng xảy ra. Nếu có, ông ta sẽ chỉ tách khỏi đương đơn không quá ‘một hay hai phút’. Dù sao, ông ta cũng chắc chắn ai đó sẽ tháp tùng Tổng Giám mục mọi lúc.

722 Liên quan đến bằng chứng của Potter, rằng Tổng Giám mục không bao giờ bị để ở một mình khi mặc áo lễ, ông Gibson đã dựa rất nhiều vào cuộc thảo luận mà Potter đã có với Thám tử Reed vào tháng 12 năm 2016, mà tôi đã đề cập đến ở các số [511] - [513] những lý do này. Như đã chỉ ra trước đây, Potter đã thừa nhận vào dịp đó rằng ông ta không thể quả quyết một cách tuyệt đối rằng đương đơn chưa bao giờ ở một mình khi ông ta trở lại phòng áo của các linh mục. Ông Gibson đệ trình rằng sự nhượng bộ của Potter đối với hiệu quả đó đã làm cho bằng chứng dường như có thể gỡ tội của ông liên quan đến vấn đề này trở thành vô hiệu quả trên thực tế.

723 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng ông Richter đã đệ trình rằng điều này đã được nói quá một cách đáng kể về hiệu quả của việc Potter ‘nhượng bộ’ đối với Thám tử Reed. Bằng chứng của Potter là, theo khả năng nhận thức của ông ta, Portelli đã luôn ở bên cạnh đương đơn khi họ trở lại phòng áo để cởi áo lễ. Theo Potter, ngoại lệ duy nhất có thể là dịp hiếm hoi khi chính Portelli được yêu cầu cử hành Thánh lễ sau đó trong ngày đó.

724 Lịch trình chứng cớ chi tiết của công tố, đính kèm các lý lẽ viết trình bầy trước Tòa án này, cho thấy rõ bằng chứng của một số nhân chứng khác, không ai trong số họ có thể nói một cách không hồ đồ rằng đương đơn luôn được Portelli (hoặc người khác) tháp tùng sau Thánh lễ [197]. Ông Gibson đã dựa vào sự kiện này.

Kỳ tới: Cản trở 4: Không thể có chuyện các cậu bé bị lạm dụng tình dục bởi đương đơn trong phòng áo của các linh mục sau Thánh lễ, mà không bị phát hiện
 
Giấc mơ được hiện thực: Đức Thánh Cha Phanxicô và Nhật Bản.
Thanh Quảng sdb
19:39 13/09/2019
Giấc mơ được hiện thực: Đức Thánh Cha Phanxicô và Nhật Bản.

Văn phòng báo chí Tòa thánh vừa thông báo về chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Nhật Bản vào tháng 11 này như là một giấc mơ được hiện thực đối với Đức Thánh Cha Phanxicô vì khi còn là một tu sĩ Dòng Tên trẻ tuổi, ngài đã ước ao được đi truyền giáo tại Nhật bản.
"Theo thời gian, Cha cảm nhận một khát vọng được trở thành một nhà truyền giáo tại Nhật Bản, nơi mà Dòng Tên đã gieo mầm một công việc rất quan trọng. Đó là tâm tình của Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, được ghi trong cuốn sách El Eluituita, được xuất bản vào năm 2010.
Dòng Tên đến Nhật bản

Nhật Bản và Dòng Tên
Nhật Bản đã trở thành một điểm thu hút đặc biệt đối với Dòng Tên kể từ năm 1549 khi Thánh Phanxicô Xavier đến thăm đất nước này. Trong năm thế kỷ sau đó, Dòng Tên đã luôn quan tâm đặc biệt đến người dân và văn hóa Nhật Bản.
Sự chú ý này đã được củng cố trong những thập kỷ gần đây bởi hai cha Bề trên cả của dòng Tên là Cha Pedro Arrupe và Cha Adolfo Nicolás, cả hai đều có sống ở Nhật Bản một số năm. Chưa kể đến vai trò quan trọng của linh mục Giuseppe Pittau, dòng Tên đã có công rất lớn trong lãnh vực đối thoại văn hóa được triển khai giữa Nhật Bản và phương Tây.
Các tu sĩ dòng Tên đã luôn theo đuổi một đường hướng là kiên trì hội nhập văn hoá với xác tín rằng "không thể có những thành công nhanh chóng và ngay lập tức, vì chính Chúa cũng chạy có ba dặm một giờ, có nghĩa là, theo tốc độ của vũ hoàn chúng ta", như Cha Nicolás đã bình luận trong bài viết “Tổ chức của Giáo Hội Công Giáo” (La Lailtiltà Cattolica), với tựa đề "Sống sứ mệnh tại Nhật Bản" được xuất bản năm 2014.

Nhật Bản và Đức Thánh Cha Phanxicô
Tác phẩm “Tổ chức của Giáo Hội Công Giáo” (La Lailtiltà Cattolica) ảnh hưởng rất sâu đậm trong tâm tư của Đức Thánh Cha Phanxicô mà chúng ta có thể tìm gặp, phảng phất trong các bài giảng mà ngài hay chia sẻ trong các thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta. Vào ngày 17 tháng 4 năm 2013, ngài đã chia sẻ với lòng ngưỡng mộ trước những chứng tá của Giáo hội Nhật Bản, vẫn còn âm hưởng dù các ngài đã tuẫn tiết tử đạo từ những thế kỷ 16 và 17.
Điều gây ấn tượng nhiều cho vị Giáo hoàng này là sức mạnh của các tín hữu Nhật bản trong các cuộc cứu trợ các thiên tai! Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ lại cảnh các nhà truyền giáo cho hay "tất cả cộng đoàn cùng học đạo, đều chịu phép rửa tội, và tất cả hợp thức hóa hôn nhân trong Giáo hội".

Đức Thánh Cha Phanxicô và các Giám mục Nhật Bản
Đức Thánh Cha Phanxicô đã đón nhận lời khẩn xin của hàng Giám mục Nhật bản trong chuyến “viếng mộ Thánh Phêrô” của hàng Giám mục Nhật bản hai năm trước đây, rằng ngài sẽ viếng thăm đất nước Nhật bản trong một ngày nào đó!
Trong dịp đó, ĐTC đã nói đến di sản của Giáo hội tại Nhật Bản dựa trên hai trụ cột: các vị truyền giáo đến sau Thánh Phanxicô Xavier, "các ngài đã hiến dâng cuộc đời để phục vụ Tin Mừng cho nhân dân Nhật Bản", và những gì mà ĐTC gọi là "các Kitô hữu ẩn danh".
Đức Thánh Cha Phanxicô cho hay: “Khi mà các linh mục tu sĩ và những giáo dân ngoại quốc bị trục xuất khỏi đất nước Nhật bản, thế mà "đức tin Kitô giáo của anh chị em không hề bị tiêu tan, nhưng vẫn được kiên vững dù có phải sống ẩn dật và bị cô lập!

Giáo hội tại Nhật Bản
Giáo hội Nhật Bản, với một lịch sử đầy gian chuân khốn khó, nhưng cũng không thiếu ơn lành của Chúa. Giáo hội Nhật bản nêu gương cho chúng ta rằng “mỗi Kitô hữu là người truyền giáo”.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm hạt Phú Thọ: Thực thi bác ái
Văn Minh
09:02 13/09/2019
“Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Thực thi Lời Chúa trên đây, Ban Chấp hành (BCH) và các thành viên Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu (GĐPTTTCG) giáo hạt Phú Thọ đã tổ chức chuyến ra đi chia sẻ những tấm bánh Trung thu, những chiếc lồng đèn cho các em thiếu nhi kém may mắn không phân biệt tôn giáo tại họ đạo Vị Hưng, giáo phận Cần Thơ, cùng nhau vui đón Tết Trung Thu.

Thực thi bác ái

Vào lúc 5g00 sáng thứ Tư ngày 11.09.2019, các thành viên GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ cùng quý vị ân nhân, gồm 60 người trên 2 chuyến xe khởi hành từ giáo xứ Tân Phước đi thực thi bác ái. Khi xe của đoàn ra khỏi TPHCM, đoàn cùng nhau đọc mười kinh Mân Côivà cầu xin Đức Mẹ ban cho đoàn đi trên đường được mọi sự bình an.

Xem Hình

Trên đường đi, đoàn trao cho họ đạo Đại Hải - GP Cần Thơ 1.800 hộp bánh.Đúng 12g00, đoàn tới thánh đường giáo xứ Tắc Sậy, kính viếng và cầu nguyện cùng cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Sau khi dùng cơm trưa xong, đoàn tiếp tục đi đến họ đạo Vị Hưng lúc 16g30. Khi xe của đoàn tới, được cha sở Anphongsô Lê Kim Thạch, quý vị đại diện HĐMVGX ra đón tất thân tình. Vì họ đạo nằm bên kia sông, nên xe lớn không thể vào được mà phải dùng phà của họ đạo đưa người và hành lý qua con sông Xà No. Sau cái bắt tay thăm hỏi của cha sở Anphongô đến từng người đi trong đoàn, và ngài mời mỗi người một ly nước mát do chính người giáo dân của họ đạo làm, ai nấy đều vui mừng đón nhận và cùng nhau thưởng thức vì sau gần 10 tiếng đồng hồ ngồi trên xe, đối với những người lớn tuổi thì đó là cả một sự hy sinh của các cụ. Tại đây, đoàn đã trao 2.200 hộp bánh, 3000 cây kẹo mút, 200 cuốn tập, 600 chiếc lồng đèn cùng một số tập vở bút viết và các vật dụng khác cho họ đạo.

Đúng18g00, các thành viên GĐPTTTCG cùng hiệp dâng Thánh lễ đồng tế dành cho các em thiếu nhi mừng Tết Trung Thu, do cha sở Anphongsô Lê Kim Thạch và cha phó Giuse Duy Anh đồng tế.

Sau Thánh lễ, cha sở Anphongsô, cha phó Giuse, quý soeur, cùng các em rước đèn xung quanh nhà thờ. Sau đó, là tiết mục văn nghệ được mở màn với màn múa Lân do các em trong Ban Lễ sinh thể hiện đã diễn ra rất ấn tượng và sôi động. Trước khi các em ra về, các anh chị huynh trưởng và đại diện GĐPTTT hạt Phú Thọ phát cho mỗi em đi tham dự một hộp bánh không phân biệt lương giáo. Xong công việc, đoàn được cha sở mời dùng cơm tối và nghỉ đêm tại họ đạo.

Sáng hôm sau, vào lúc 5g00, các thành viên tham dự Thánh lễ cùng cộng đoàn do cha sở Anphongsô chủ sự. Sau bữa điểm tâm sáng, lúc 8g00, đoàn lên xe trở về Sài Gòn, kết thúc chuyến đi thật tốt đẹp.

Trên đường về, đoàn tới Trung tâm Hành hương Đình Khao - Giáo phận Vĩnh Long, được cha Mathêu Nguyễn Tấn Thụy, chánh sở họ đạo Thiềng Đức, kiêm nhiệm Trung tâm Hành hương Đình Khao đón tiếp, và được ngài chia sẻ về những cuộc bách hại, trảm quyết, của các Thánh Tử Đạo. Đặc biệt, là cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh, bị trảm quyết tại cây đa ngoài bờ sông phía trước mặt.

Tại đây, ông Giuse Phạm Quang Thúy, đại diện trao cho soeur quản lý 100 hộp bánh, 100 chiếc đèn lồng, 500 cây kẹo mút, và 200 cuốn tập vở.

Sau bữa cơm trưa bình dân tại Trung tâm Hành hương Đình Khao do quý soeur Dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum tiếp đãi, đoàn trở về TPHCM lúc 17g00 cùng ngày trong bình an.

Ngoài ra, nhân mùa Trung thu, GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ đã chuyển đến Dòng Saint Paul Kon Tum 300 hộp bánh, 10 chiếc áo mưa trẻ em, giáo xứ Hòa Bình, Gia Định, 400 hộp bánh, 2000 cây kẹo mút, cơ sở Khiếm Thị Bừng Sáng quận 10 TPHCM 150 hộp bánh, và các em Thiếu nhi giáo xứ Tân Phước, Sài Gòn 200 hộp bánh.

Tổng số tiền trong chuyến thực thi bác ái và giúp các em thiếu nhi vui tết Trung thu là 66.800.000đ. Số tiền này do các thành viên trong các xứ đoàn, cùng quý vị ân nhân trong GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ cùng nhau đóng góp.
 
Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney Nhận Lãnh Bí Tích Thêm Sức
Diệp Hải Dung
21:29 13/09/2019
Tối thứ Sáu 13/09/2019. Có 45 em Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc Liên Đoàn Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney đã đến thánh đường Saint Therese Miller Sydney lãnh nhận Bí tích Thêm Sức do Đức Giám Mục Richard Umbers chủ sự.

Tham dự Thánh lễ có các bậc Phụ huynh, quý Vú Bõ đỡ đầu, Quý Sơ Trợ Úy, quý Huynh Trưởng, và quý Quan Khách tham dự rất đông đủ. Trước khi dâng Thánh lễ, Cha Tuyên úy Trưởng Bùi Sơn Lâm ngỏ lời chào mừng Đức Giám Mục Richard Umbers đã ưu ái thương mến Cộng Đồng đến chủ tế Thánh lễ và ban phép Bí tích Thêm Sức cho các em Thiếu Nhi Thánh Thể hôm nay.

Xem Hình

Sau Phúc Âm, Cha FX Nguyễn Văn Tuyết, Tuyên uý Đặc Trách Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney, giới thiệu với Đức Giám Mục và đọc danh sách 45 em nhận lãnh Bí tích Thêm Sức. Trong bài giảng Đức Giám Mục Richrad nói:

Lúc còn nhỏ thì chúng ta do cha mẹ hướng dẫn dìu dắt, khi chúng ta lớn lên thì chúng ta tự lo cho chúng ta không còn cha mẹ dìu dắt nữa.…đến với Thiên Chúa thì hãy mở tâm hồn của chính mình ra để thực sự đón nhận Thiên Chúa…và hôm nay Chúa Thánh Thần đến với các em Thiếu Nhi trong tình yêu của Ngài…

Sau bài giảng là lời tuyên xưng đức tin của các em sẽ lãnh nhận bí tích Thêm Sức và của các cha mẹ đỡ đầu. Sau đó Đức Giám Mục Richard Umbers ban bí tích Thêm Sức. Cùng đồng tế Thánh lễ tạ ơn gồm có ĐGM, quý Cha Truyên úy Trưởng Bùi Sơn Lâm, Cha Nguyễn Văn Tuyết, Cha Tràn Văn Trợ và Cha Nguyễn Đình Quý.

Trước khi kết thúc Thánh lễ hai em Thiếu Nhi đại diện các em lãnh nhận bí tích Thêm Sức lên ngỏ lời cám ơn ĐGM Richard Umbers và tặng hoa cho Ngài, đồng thời cũng cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Huynh Trưởng, quý Giảng Viên Giáo Lý đã nâng đỡ hướng dẫn dạy dỗ các em trong những lớp Giáo Lý suốt trong một năm qua để hôm nay được vinh hạnh lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm Sức. Các em cũng cám ơn quý ân nhân đã giúp đỡ vật chất lẫn tinh thần, quý Ban Mục Vụ Giáo Đoàn Miller, Ca đoàn Đức Mẹ Fatima Miller đã hát rất hay giúp cho cộng đoàn dâng thánh Lễ một cách sốt sắng và xin tất cả mọi người cầu nguyện cho các em. Các em hứa sẽ cố gắng sống ngoan hiền đạo đức và noi gương Chúa Giêsu Thánh Thể là Vị Anh Cả Tối Cao của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể.

Đức Giám Mục cũng ngỏ lời cám ơn quý Cha cùng hiệp dâng Thánh lễ với Ngài, và cám ơn quý Sơ, quí phụ huynh và cha mẹ đỡ đầu, cùng tất cả mọi người hiện diện trong Thánh lễ.

Sau khi kết thúc Thánh lễ, Đức Giám Mục, quý Cha, quý Sơ và các em chụp chung tấm hình kỷ niệm và ĐGM ở lại gặp gỡ mọi người trong tình thân mật.

Diệp Hải Dung
 
Thông Báo
Phân ưu: Ông Thomas Nguyễn Cần bút hiệu Lữ Giang đã từ trần tại Nam Cali
Lm Trần Công Nghị
10:25 13/09/2019
PHÂN ƯU
Trong niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh
Chúng tôi nhận được ai tín

Ông THOMAS NGUYỄN CẦN
(bút hiệu Tú Gàn & Lữ Giang, cộng tác viên VietCatholic)
sinh ngày 13.2.1935 tại Quảng Bình, Việt Nam
đã được Chúa gọi về lúc 00:05AM ngày 10.9.2019
tại Orange Coast Hospital, California, Hoa Kỳ.
Hưởng thọ 84 tuổi.

Linh cữu được quàn tại Giáo xứ Đức Mẹ La Vang
288 S. Habor Blvd., Santa Ana, CA 92704

Chương trình Tang lễ: Thứ Hai ngày 16 tháng 9 năm 2019:
10:00AM-11:00AM: Thăm viếng.
11:00AM-12:00PM: Thánh lễ an táng sau đó sẽ hỏa táng.

-Ông Nguyễn Cần là Thẩm Phán Tòa Saigon
và Cố Vấn Bộ Tài Chánh VNCH cho đến ngày 30-4-1975.
- Ông đến định cư tại Hoa Kỳ tháng 3 năm 1990.
- Tác giả đã viết ngiều tác phẩm về lịch sử quan trọng, pháp luật, văn hóa.
Ngoài ra cũng đã viết trên 2000 bài khảo luận hay phiếm luận về lịch sử, chính trị
và văn hóa Việt Nam được phổ biến trên các cơ quan truyền thông
trong nước trước đây và tại hải ngoại.
- Là người yêu nước luôn hăng hái bảo vệ Quê hương Tổ quốc Việt Nam
và nhiệt thành bênh vực Giáo hội trong mọi hoàn cảnh.

Chúng tôi xin thành kính phân ưu cùng
Trưởng nam: Nguyễn châu Giang và gia đình
Thứ Nam: Nguyễn Lữ Giang và gia đình
Chị: Nguyễn thị Ân (VN)
Em: Nguyễn Công Kinh và gia đình (VN)

Nguyện xin Thiên Chúa là Cha nhân từ đón linh hồn Thomas
vào nơi ánh sáng ngàn thu và nghỉ yên muôn đời nơi Thiên Quốc.

LM John Trần Công Nghị
và Toàn thể VietCatholic Network
 
VietCatholic TV
Với tỷ số áp đảo 21-3, các Giám Mục Đức bác bỏ ý kiến nêu trong thư của Đức Giáo Hoàng
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
18:28 13/09/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Với tỷ số áp đảo 21-3, các Giám Mục Đức đã bác bỏ một đề nghị thay thế “tiến trình công nghị với hiệu lực ràng buộc” do Đức Hồng Y Marx đề nghị bằng một công nghị tập trung vào việc “ưu tiên loan báo Tin Mừng” theo đề xuất của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Tưởng cũng nên nhắc lại, hôm 14 tháng Ba, Đức Hồng Y Reinhard Marx, Tổng Giám Mục của Munich và Freising, và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức đã tuyên bố rằng Giáo Hội Công Giáo ở Đức đang bắt đầu một “tiến trình công nghị với hiệu lực ràng buộc” để giải quyết những gì ngài nói là những vấn đề chính nảy sinh từ cuộc khủng hoảng lạm dụng giáo sĩ: đó là luật độc thân linh mục, vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ, giáo lý về đạo đức tình dục, các kết hiệp đồng tính, và chủ nghĩa giáo sĩ trị.

Đáp lại diễn biến này, trong lá thư được công bố hồi tháng Sáu, Đức Thánh Cha đã cảnh báo người Công Giáo Đức cần chống lại một công nghị “chỉ tập trung vào việc xem xét các cấu trúc chứ không được linh hoạt bởi sứ mệnh thiết yếu của Giáo Hội là truyền bá đức tin.”

Ngài cảnh báo rằng tiến trình công nghị của Đức phải tránh cám dỗ chạy theo “chủ nghĩa tân Pelagiô” [dựa vào sức riêng của mình] khi “tìm cách điều chỉnh cuộc sống của Giáo Hội theo luận lý hiện tại.” Hệ quả là chúng ta có thể có “một cấu trúc giáo hội gọn gàng và thậm chí là được ‘hiện đại hóa’, nhưng không có linh hồn và hấp lực truyền giáo.”

Đức Giáo Hoàng đặc biệt cảnh báo Giáo Hội Đức đừng nên theo đuổi bất kỳ đường lối nào nhắm thích nghi với não trạng đương thời và thúc giục người Công Giáo Đức phải bảo vệ Giáo Hội cả về cơ cấu lẫn đức tin.

“Giáo Hội hoàn vũ sống trong và với các Giáo Hội địa phương, cũng thế các Giáo Hội địa phương sống và phát triển trong và với Giáo Hội hoàn vũ, và nếu chúng ta tách ra khỏi toàn thể Giáo Hội, chúng ta sẽ suy yếu, khô héo và tàn lụi. Do đó, cần phải luôn luôn sống và hiệp thông hiệu quả với toàn thể Giáo Hội,” Đức Thánh Cha viết.

Một kế hoạch dự thảo đã được đề xuất bởi Đức Hồng Y Rainer Woelki của Köln và Đức Cha Rudolf Voderholzer của Regensburg, và được đệ trình lên Hội đồng Thường trực của Hội Đồng Giám Mục Đức tại cuộc họp ngày 19 tháng 8. Kế hoạch này được soạn thảo chi tiết dựa theo các hướng dẫn trong bức thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho các tín hữu Đức, trong đó đặt ra các tiêu chí rõ ràng cho một tiến trình công nghị đích thực.

Đức Hồng Y Rainer Woelki và Đức Cha Rudolf Voderholzer đề nghị “một sự canh tân tinh thần toàn diện và triệt để, nhất quán với Giáo Hội hoàn vũ và đức tin Công Giáo theo nghĩa ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng theo lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô.”

Đề xuất của hai vị không bác bỏ hoàn toàn các đề nghị thay đổi về cấu trúc của Đức Hồng Y Marx, bao gồm cả sự tham gia của Ủy ban Trung ương Công Giáo Đức, gọi tắt là ZdK. Tuy nhiên, kế hoạch của hai vị nhấn mạnh đến sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và với Giáo Hội toàn cầu, và ưu tiên cho việc truyền giáo. Các ngài yêu cầu rằng các cuộc thảo luận trong công nghị này phải có sự hiện diện của các quan chức Tòa Thánh như Bộ Giáo Lý Đức Tin, và Hội Đồng Giáo Hoàng Tân Phúc Âm Hóa.

Đề xuất này đã được đưa ra bỏ phiếu trong một cuộc họp vào cuối tháng Tám của ủy ban điều hành Hội đồng Giám mục Đức, được tạo thành từ các Giám Mục giáo phận tại Đức, và đã bị bác bỏ.

Các quan chức và quan sát viên có mặt tại cuộc họp nói với thông tấn xã CNA rằng, đề xuất này đã bị bác bỏ một cách áp đảo với tỷ số 21-3, và ba thành viên bỏ phiếu trắng.

Như thế, các Giám Mục Đức quyết định tiếp tục kế hoạch thành lập tiến trình công nghị dưới sự lãnh đạo chung của người đứng đầu Hội Đồng Giám Mục Đức và ZdK.

Theo kế hoạch được phát triển dưới sự lãnh đạo của Đức Hồng Y Reinhard Marx, tiến trình công nghị sắp tới sẽ bao gồm các Giám Mục, giáo sĩ và cả hàng giáo dân. Kế hoạch này cũng bao gồm việc tổ chức những diễn đàn gọi là Synodal Fora, để tự do thảo luận và phát triển các phản ứng đối với các vấn đề cấp bách của Giáo Hội.

Ủy ban Trung ương Công Giáo Đức ZdK, có các thành viên chiếm một phần đáng kể trong tiến trình công nghị được đề xuất, đã công bố tên của những người tham gia trong mỗi diễn đàn và công việc của họ đã bắt đầu ngay cả trước cuộc họp ngày 19 tháng 8. Tất cả các thành viên ZdK được chỉ định đều có một hồ sơ dài về những phát biểu công khai phản đối các giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội, như đòi phong chức cho phụ nữ, và kêu gọi một sự đoạn tuyệt triệt để đối với với các giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức tình dục cho “phù hợp” với lý thuyết mới về giới tính.

Hàng lãnh đạo ZdK nhấn mạnh rằng họ tham gia vào tiến trình công nghị với điều kiện là “những cuộc thảo luận phải có sự cởi mở và các nghị quyết phải có hiệu lực ràng buộc.” Những yêu cầu này được “bảo đảm” bởi Đức Hồng Y Marx.

Lời tuyên bố này đã làm dấy lên mối lo ngại rằng việc thảo luận và bỏ phiếu chống lại các giáo huấn Giáo Hội có thể tạo ra “những kỳ vọng không thực tế” cho những thay đổi, và chung cuộc chỉ gieo rắc những hạt giống bất đồng giữa các Giáo Hội địa phương và toàn cầu.