1. Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đau lòng khi có người biện minh cho chiến tranh Ukraine

Đức Tổng Giám Mục Trưởng Sviatoslav Shevchuk, Giáo chủ Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, bày tỏ đau lòng khi nghe ai đó dùng lý lẽ Kitô để biện minh cho chiến tranh tại Ukraine hiện nay.

Đức Tổng Giám Mục cho biết như trên trong bài diễn văn trực tuyến qua Video tại buổi khai mạc năm học mới tại Đại học Giáo hoàng thánh Tômasô Aquino, cũng gọi là Angelicum ở Roma, nơi ngài là cựu sinh viên.

Ngày 19 tháng Mười vừa qua, những ngày mà tình hình tại Ukraine lại trở nên nguy kịch, thủ đô Kiev bị Nga tấn công bằng hỏa tiễn. Đức Tổng Giám Mục Shevchuk giải thích rằng “ngày 11 tháng Mười vừa qua, xảy ra là từ đầu cuộc xâm lăng của Liên bang Nga tại Ukraine, có 422 trẻ em chết và 805 em bị thương. Theo tổ chức Nhi đồng Quốc tế Unicef, tại Ukraine có khoảng một triệu 600.000 trẻ em có nguy cơ bị đói vì thực phẩm khan hiếm”.

Hiện nay, có một triệu 400,000 người không có nước, vì những cuộc tấn công hạ tầng cơ cấu và hệ thống dẫn nước, trong khi 4.6 triệu người khác chỉ có nước bị giới hạn. Hơn nữa, tính đến hôm nay, theo các dữ kiện của phái bộ theo dõi nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, có 6,221 người bị giết và 9,371 thường dân bị thương.

Những dữ kiện khác của Liên Hiệp Quốc: vì chiến tranh có 14 triệu 300,000 người Ukraine phải di tản vì lý do an ninh. Từ tháng Hai đến tháng Mười năm nay, hơn 13 triệu 700,000 người đã ra khỏi biên giới Ukraine. Theo bộ xã hội, tại Ukraine có bốn triệu 700,000 người di tản nội địa.

Đức Tổng Giám Mục Shevchuk cũng nói rằng: “Ông Putin thông báo đã hoàn toàn thanh lọc các trẻ em tại vùng tạm thời chiếm đóng ở Zaporizhzhia, Kherson, Donetsk và Luhansk, và điều này cần được hiểu là một cuộc diệt chủng các trẻ em Ukraine”.

Đức Tổng Giám Mục cũng cho biết là đã viếng thăm các thành phố trước khi bị quân Nga chiếm đóng và sau đó được giải phóng: “Tôi đã thấy thảm trạng các hố chôn tập thể các thường dân, tôi đã nghe nhiều chứng từ về các nạn nhân bị quân Nga hãm hiếp, chúng tôi xúc động vì chứng tá thương tâm của các thi hài bị hành quyết và bỏ rơi ngoài đường trong các thành phố của chúng tôi”. Trong tình trạng đó, “tìm ra câu trả lời thích hợp cho tiếng kêu đau đớn này của trái tim con người trở thành một thách đố và là một nghĩa vụ”, vì sự ác này có nguy cơ làm bùng nổ một thế chiến mới, có một cơ cấu rõ ràng là ý thức hệ “thế giới Nga”.

Ngoài ý thức hệ diệt chủng của chiến tranh, đối với Đức Tổng Giám Mục Trưởng, “sự đau lòng nhất là nghe những lời biện minh dựa vào Kitô giáo cho cuộc chiến của Nga chống Ukraine, có nghĩa là sự hỗ trợ và hoàn toàn thỏa thuận của Giáo hội Chính thống Nga với ý thức hệ “thế giới Nga”.

Sau cùng, Đức Tổng Giám Mục Trưởng của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương xin cộng đồng các đại học đừng im lặng vì cuộc diệt chủng dân tộc Ukraine, do tay của Nga nếu không bị tố giác và lên án ngày nay thì ngày mai sẽ là nguyên nhân gây ra vô số các nạn nhân, như đã xảy ra với chế độ Đức quốc xã và cộng sản trong thế kỷ trước đây.

2. Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc chống du nhập các thứ “nhân quyền” mới

Đại diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở New York, Đức Tổng Giám Mục Gabriele Caccia, kêu gọi bảo vệ sự sống của các thai nhi và chống lại việc du nhập những điều gọi là “nhân quyền mới”.

Trong bài tham luận hôm 19 tháng Mười vừa qua, tại Ủy ban thứ ba thuộc Đại hội đồng thứ 77 của Liên Hiệp Quốc về vấn đề áp dụng các Văn kiện về nhân quyền, Đức Tổng Giám Mục Caccia nhìn nhận có những tiến bộ quan trọng trong việc thăng tiến và bảo vệ các quyền con người trong những thập niên vừa qua, tuy nhiên các thách đố vẫn còn. Ngài nhắc lại rằng nhân phẩm là điều gắn liền với bản tính con người chứ không phải cho nhà nước hay tác nhân nào khác cấp phát.

Đức Tổng Giám Mục Caccia nhấn mạnh rằng “điều này thấy rõ nhất qua những vụ vi phạm quyền sống, đặc biệt là của các thai nhi, người bệnh hoặc những người khuyết tật và già yếu. Các văn kiện về nhân quyền, khi được áp dụng đúng, tái khẳng định rằng nhân quyền xuất phát từ phẩm giá nội tại của con người, và ngài cũng nhận xét rằng tự do và tình liên đới là những yếu tố cần thiết và bổ túc cho nhau của an sinh con người. Hai yếu tố này là nguồn mạch các nghĩa vụ mà mỗi người chúng ta chia sẻ đối với nhau. “Liên đới mà gây thiệt hại cho tự do thì có nguy cơ làm cho cá nhân bị mất hút trong các nhóm và không để ý gì đến thiện ích cả nhân của họ. Tự do mà tách khỏi liên đới thì nó đưa tới sự hiểu sai trái về các quyền như mục đích, thay vì là những phương thế thiết yếu để bảo đảm cho sự triển nở của con người. Nó dẫn tới lối cư xử tự tham chiếu, phân hóa đời sống cộng đoàn và sự liên đới giữa các thế hệ với nhau.”

“Các nhân quyền phải được hiểu như không thể phân chia và có liên hệ với nhau, cũng như để phục vụ công ích. Những toan tính cổ võ các ý niệm mới, gây tranh luận, như những nhân quyền không được sự thỏa thuận, và như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhận xét, nó bao gồm các những vấn đề, tự bản chất chúng không thuộc về mục đích của Tổ chức Liên Hiệp Quốc này, thì cần phải tránh. Những cố gắng ấy, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nói, đó là sự thực dân ý thức hệ.”

Đức Tổng Giám Mục Caccia ám chỉ tới những nước cổ võ phá thai, hôn nhân đồng tính như nhân quyền, và muốn du nhập vào Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.

3. Tiến Sĩ George Weigel: Tại sao Vatican II lại cần thiết

Biến cố lớn trong tuần qua là Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô, nhân lễ kính thánh Giáo Hoàng Gioan 23 và kỷ niệm 60 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II.

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhân dịp này, trên Denver Catholic, George Weigel đặt câu hỏi: Tại sao Vatican II lại cần thiết” và sau đó, ông trình bầy khá nhiều lý do nhưng lý do chính vẫn là sự thánh thiện lấy Chúa Kitô làm tâm điểm để hoán cải thế giới.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Ánh Tuyết.

Viết cuốn sách mới của tôi, To Sanctify the World: The Vital Legacy of Vatican II do Basic Books xuất bản, mang lại cho tôi cơ hội đáng hoan nghênh để tìm hiểu 16 bản văn của Công đồng và nhiều bài bình luận hay về chúng. Nó cũng giúp tôi suy gẫm tại sao Công đồng lại cần thiết. Câu hỏi đó ngày nay thường được đặt ra bởi những người Công Giáo trẻ tuổi, những người vì bất an bởi không khí hỗn loạn quá mức của Giáo hội trong thập niên qua và nói chung là thiếu thông tin về Giáo hội trước Công đồng, đã tưởng tượng rằng mọi thứ trong đạo Công Giáo đều làm cho người ta hết sức hài lòng cho đến khi Đức Gioan 23 mắc sai lầm chết người là triệu tập một công đồng chung. Tuy nhiên, đó không phải là quan điểm của một số nhà lãnh đạo Công Giáo khá chính thống trong thập niên trước Công đồng Vatican II.

Đức Cha Giuseppe De Luca là một giáo phẩm có uy tín, người đã soạn thảo sắc lệnh của Văn phòng Tòa thánh về việc xếp các cuốn sách của André Gide đoạt giải Nobel năm 1947 vào Danh mục Sách Cấm. Tuy nhiên, vào năm 1953, ngài nhận thấy bầu không khí trong Văn phòng Thánh, cơ quan Tối Cao giữa các văn phòng giáo triều, không thể chịu đựng được. Vì vậy, ngài đã trút sự bực bội của mình cho Đức Cha Giovanni Battista Montini, tức là Đức Giáo Hoàng tương lai Phaolô Đệ Lục, dùng những thuật ngữ không hề vô nghĩa này: “Trong bầu không khí ngột ngạt của sự ngu đần giả dối và kiêu căng này, có lẽ một tiếng la hét - hỗn loạn nhưng có tính Kitô giáo - sẽ có đôi chút ích lợi nào đó”.

Sau đó là nhà thần học thông thái người Thụy Sĩ Hans Urs von Balthasar. Năm 1952, ngài xuất bản một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Đức, Razing the Bastions: On the Church in This Age, trong đó ngài tỏ ý lo lắng rằng truyền thống Công Giáo vĩ đại đã hóa đá và “trượt ra khỏi trung tâm sống thánh thiện của Giáo hội.” Balthasar lập luận rằng “chiến dịch cứu vãn vĩ đại” của Phong trào Phản Cải Cách là điều cần thiết, nhưng nó đã qua đi, và Giáo hội phải thoát ra khỏi vòng vây phòng thủ của mình và tiếp tục cung cấp cho nhân loại chân lý của Thiên Chúa trong Chúa Kitô.

Trong những năm ngay sau Công đồng, Joseph Ratzinger, tức là Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 tương lai, một trong ba nhà thần học có ảnh hưởng nhất tại Vatican II, biết rằng sự tiếp nhận của Công đồng là không hoàn hảo và việc thực hiện nó thậm chí còn thiếu hoàn hảo hơn. Tuy nhiên, ngài xác định thêm các lý do tại sao Công đồng Vatican II lại cần thiết và tại sao giáo huấn của Công đồng này lại cần thiết cho bước tiến của Giáo hội từ nay về sau:

“Công Đồng đưa trở lại Giáo hội toàn bộ một học thuyết về quyền tối cao của Đức Giáo Hoàng vốn bị cô lập một cách nguy hiểm; nó hội nhập vào mầu nhiệm duy nhất của Thân thể Chúa Kitô, một quan niệm quá bị tách biệt về phẩm trật; nó khôi phục lại sự thống nhất có trật tự của đức tin một Thánh mẫu học biệt lập; nó đã đem lại cho lời Kinh thánh giá trị đầy đủ của nó; nó làm cho phụng vụ một lần nữa dễ tiếp cận hơn; và, ngoài ra, nó đã thực hiện một bước tiến can đảm hướng tới sự hợp nhất của tất cả các Kitô hữu”.

Vì vậy, Công đồng đã có nhiều thành tựu thần học và tín lý cho tính khả tín của nó. Những điều này rất quan trọng để khơi lại đức tin triệt để, lấy Chúa Kitô làm trung tâm, vốn sẽ là nguồn gốc của một sứ mệnh Công Giáo hồi sinh để hoán cải thế giới hiện đại. Tương tự, việc Công đồng từ chối chủ nghĩa đắc thắng của Công Giáo tự nó là điều tốt và cần thiết cho sứ mệnh của nó: “Công đồng vừa cần thiết vừa tốt đẹp để chấm dứt những hình thức sai lầm về việc Giáo hội tự tôn vinh mình trên thế gian, và loại bỏ sự biện minh sai lầm về mình, bằng cách dẹp bỏ xu hướng cưỡng bách trong việc bảo vệ lịch sử quá khứ của mình”.

Tuy nhiên, sau khi thực hiện điều đó, Ratzinger tin rằng việc tự đánh mình một cách liên tục, ám ảnh, sẽ gây ra một trở ngại khác trên con đường truyền giảng Tin Mừng và truyền giáo. Mở khóa hứa hẹn của Công đồng Vaticanô II có nghĩa là làm mới lại đức tin của chúng ta vào lời cam kết của Chúa “luôn ở cùng anh em” (Mt 28:20). Vì vậy, vị giáo hoàng tương lai kết luận, “đã đến lúc… đánh thức lại niềm vui của chúng ta trong thực tại của một cộng đồng đức tin không bị gián đoạn vào Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta phải khám phá lại tia sáng đó vốn là lịch sử của các thánh và của cái đẹp - một lịch sử trong đó niềm vui Tin Mừng đã được thể hiện một cách không thể chối cãi trong suốt nhiều thế kỷ.”

Việc đề cập đến “các thánh và cái đẹp” giúp chúng ta hiểu một lý do khác tại sao Công đồng Vatican II lại cần thiết. Việc công bố và nền hộ giáo trước Công đồng của Giáo hội rất mạnh về luận lý. Nhưng một thế giới trở nên phi tôn giáo - không phải ngoại giáo, vì chủ nghĩa ngoại giáo có ý thức về việc bao hàm thế giới này vào một thực tại lớn hơn, nhưng phi tôn giáo, không nghe lời đồn đại về các thiên thần – trong căn bản, sẽ không chịu hoán cải bằng các chứng minh hợp luận lý. Nó sẽ chịu hoán cải bởi sự thánh thiện, tỏ hiện trong cuộc sống của những người đã trở thành bạn của Chúa Giêsu Kitô và tham gia vào chính nghĩa của Người. Nó sẽ chịu hoán cải bởi một Giáo Hội biết cung cấp nhiều vẻ đẹp hơn là thế giới có thể tạo ra.

Nơi mà Đạo Công Giáo sống động ngày nay, và Công đồng Vatican II được đón nhận và thực hiện một cách tốt đẹp, đó là vì các Giáo hội địa phương đã coi sự thánh thiện và vẻ đẹp như những con đường truyền giảng Tin Mừng và dạy Giáo lý hướng tới một tương lai lấy Chúa Kitô làm trung tâm.