Giáo Hội Công Giáo Từ Từ Nhưng Khẩn Trương Tại Tajikistan

I. Tình Hình Tổng Quát

Địa Lý

Chín mươi ba phần trăm lãnh thổ là núi non, với các băng tuyết làm nơi phát nguồn các song rạch. Tajikistan là khu vực dễ có xu hướng động đất. Nước này giáp biên với Trung Hoa ở phía Đông, A Phú Hãn ở phía Nam và Uzbekistan và Kysgystan ở phía Tây và Bắc. Nước cộng hòa Trung Á này còn gồm miền Tự Trị Gorno- Badakh Shan. Tajikistan sấp xỉ lớn hơn bang Illinois.

Tổ Chức Chính Quyền Theo Chế Độ Cộng Hòa

Cộng hòa Tajikistan có tên chính thức là Jumhurii Tojikiston. Tổng thống là: Imomali Rakhmonov (1992). Thủ tướng là: Akil Akilov (1999). Diện tích đất là 142.700 km2; diện tích toàn thể là 143.100 km2. Dân số ước lương theo kiểm tra năm 2006 là: 7.320.815 (tỷ lệ tăng trưởng: 2,2%); sinh suất: 32,6/1000; tử suất trẻ sơ sinh : 106,5/1000; tuổi thọ: 64.9; mật độ trên dậm vuông: 133,

Thủ đô và thành phố lớn nhất ước lượng năm 2003 là Dushanbe, 817.100 (khu trung tâm ), 590.300 (riêng thành phố). Thành phố lớn khác: Khodzhent (Leninabad), 156.500. Đơn vị tiền tệ: somoni.

Ngôn ngữ: Tajik (chính thức), tiếng Nga xử dụng rộng rãi trong chính quyền và buôn bán. Dân tộc: Tajik 79%, Uzbek 15.3%, Nga 1.1%, Kyrgyz 1.1%, khác 2.6% (2000). Tôn giáo: Đạo Hồi: Sunni 85%, Shiite 5%; khác 10% (ước lương 2003). Tỷ lệ biết chữ: 99% (2003)

Sinh Hoạt Kinh Tế Nhìn Nhanh

Đất trồng: 7%. Nông nghiệp: bông, hạt, trái cây, nho, rau cỏ, súc vật, cừu, dê. Lực lượng lao động: 3,7 triệu (2003); nông nghiệp 67.2%; công nghiệp 7.5%; dịch vụ 25.3% (2000).

Kỹ nghệ : nhôm, kẽm, chì, hóa chất, phân bón xi măng,dầu thực vật, máy công cụ cắt kim loại, máy lạnh và tủ đông lạnh. Tài nguyên thiên nhiên; thủy lực, một ít dầu khí, uranium, thủy ngân, than nâu, chì, kẽm, antimony, tungsten, bạc, vàng, antimony, tungsten.

Xuất: $950 triệu f.o.b. (2005): nhôm, điện, bông, trái cây, dầu thưc vật, vải sợi. Nhập: $1,25 tỉ f.o.b. (2005): điện khí, sản phẩm dầu lửa, ốcxýt nhôm, máy móc và trang thiết bị, thực thẩm thô. Các bạn hàng lớn: Hoà Lan, Thổ,Uzbekistan, Latvia, Thụy sĩ, Nga, Kazakhstan, Azerbaijan, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ukraine (2004).

Trạm Truyền hình: 13 (2001). Máy truyền hình: 820.000 (1997). Nhà cung ứng dịch vu mạng toàn cầu (ISPs): 4 (2002). Người sử dụng mạng toàn cầu: 5.000 (2002).

Chuyên chở: Đường xe lửa: tổng cộng: 482 km (2002). Xa lộ: tổng cộng: 27.767 km (2000). Hải Cảng: không. Sân bay: 66 (2002).

Các tranh chấp quốc tế

Nắng hạn miền kéo dài tạo ra khó khăn trong việc chia sẻ nước đối với các nước vùng sông Amu Darya. Các thỏa ước biên giới ký năm 2002 nhưọng 1.000 km2 dãy núi Pamir cho Trung Hoa, đổi lại Trung hoa bỏ việc đòi 28.000 km2 đất Takijistan. Thương thảo với Trung Hoa giải quyết tranh cấp biên giới có từ lâu. Bắt đầu đàm phán với Uzbekistan để chuyển nhượng và xác định biên giới. Tranh cãi trong Thung Lũng Isfara làm chậm trễ việc hoàn tất xác định biên giới với Kyrgyzstan.

Lịch Sử

Người Tajiks, có ngôn ngữ gần giống tiếng Ba Tư. Đó là một thành phần làm nên Đế quốc Ba Tư cổ đại. Tại đế quốc đó Darius I cai trị và về sau đế quốc này bị Alexander Đại Đế chinh phục (333 Trước Công Nguyên).

Vào thế kỷ VII và VIII, người Ả Rập chinh phục vùng này và đem Hồi Giáo tới. Người Tajiks liên tục bị người Uxbeks và người A Phú Hãn cai trị, cho đến khi người Nga đòi hỏi trong thập niên 1860.

Năm 1924 Tajikistan trở thành nước Cộng Hòa Xô Viết Tự Trị Tajik. Đây là thành phần thuộc về Nước Xô Viết Tự Trị cho đến khi Cộng Hòa Xô Viết Tự Trị dành đươc qui chế Nước Công Hòa Đôc Lập đầy đủ năm 1929.

Tajikistan tuyên bố chủ quyền tháng 8/1990. Năm 1991, ban lãnh đạo Cộng sản của nước công hòa này ủng hộ chính biến được mưu tính chống lài chủ tịch XôViết Mikhail Gorbachev. Tajikistan gia nhập với mười nước Cộng Hòa Xô Viết khác trong Khối Thịnh Vương các Quốc Gia Độc lập ngày 21/12/1991.
Một chế độ cộng hòa đại nghị được tuyên bố, bãi bố chế độ chủ tịch cai trị tháng 11/1992. Sau khi giành được độc lập,Tajikistan thỉnh thoảng trải qua kinh nghiệm tranh chấp, như chính quyền do Cộng sản thống trị chiến đấu chống lại các lực lưọng đối lập Hồi giáo và dân chủ nổi dậy. Mặc dù có nhiều cố gắng quốc tế liên tiếp nhằm chám dứt cuộc nội chiến, cuộc chiến đấu vẫn định kỳ tiếp diễn. Cuộc tranh chấp chấm dứt chính thức ngày 27/6/1997, với việc ký kết tại Moscow thỏa ước hòa bình giữa chính phủ của Tổng thống Imomali Rakhmonov và phe Đối lập Tajik Hợp Nhất (United Tajik Opposition - UTO), một liên minh các nhóm phần lớn là Hồi giáo. Tuy nhiên, từ đó, hòa bình thật tế nhị, bị thất bại đều đặn do nhiều nhóm đối lập khác nhau cứ chè chén giết hại lu bù.

Năm 2005 diễn ra các cuộc bầu cử nghị viện, đảng cầm quyến của tổng thống chiếm được 80% số phiếu bầu, các giám sát viên quốc tế tuyên bố những cuộc bầu cử đó là khác thường. Tổng thống Rakhmonov thắng một nhiệm kỳ thứ ba trong đợt bầu cử tháng 10/2006. Cuộc bầu cử đó bị các đảng đối lập tẩy chay. Từ khi lên nắm quyền được mười năm, ông đã khóa miệng giới truyền thông độc lập trong nước, và bỏ tù các lãnh tụ đối lập. Chính quyền của ông cũng đã bị cáo giác về nhiều việc làm vi phạm nhân quyền và nạn tham ô.

II. Giáo Hội Công Giáo Tajikistan Kiên Cường

Vài hoạt động ban đầu

Giáo Hội Công Giáo Rôma tại Tajikistan là một thành phần thuộc về Giáo Hội Công giáo Rôma toàn cầu, dưới quyền lãnh đạo tinh thần của Đức Giáo Hoàng và Giáo triều tại Rôma.

Có vào khoảng 2.500 tín đồ Công giáo Rôma tại Tajikistan tạo nên một phái bộ truyền giáo Sui Juris.

Caritas Tajikistan là tổ chức phúc lợị xã hội duy nhất. Tổ chức này giúp các trường học xây dựng các dịch vụ vệ sinh thích hợp cho trẻ em, sửa chữa các bệnh viện cho trẻ em, cung cấp cho nhà trường máy vi tinh (diện toán - PC Computers), xây dựng sân chơi cho trẻ em, điều hành các bếp cháo và thu xếp việc chăm sóc y tế cho những người thiếut thốn.

Ngoài cơ quan Caritas Tajikistan, hai cơ sở nữ tu cũng cung ứng cho nhu cầu của những người kém may mắn và thanh niên giáo hội.

Vào thời điểm 31/7/2005, có 250 tín đồ công giáo được rửa tội tại Tajikistan, trong đó 65% sống tại thủ đô và là thành phần thuộc vế giáo xứ Thánh Giuse. Toàn thể dân số Tajikistan là khoảng 6,5 triệu người. Người Công giáo chiếm t3 lệ 0.0003%, so với toàn thể dân số trong xứ. Tín đồ Hồi Giáo là nhóm chiếm tới 96% so với toàn dân số trong nước. Chính thống giáo Nga là nhóm Kitô giáo lớn nhất chỉ có 3,5%. Các tín đồ Công giáo và nhiều nhóm tôn giáo khác làm thành 0,5%. Có khoảng 7 đến 15 trong năm (10/2004). Vào thời điểm 31/7/2005 có 5 chầu nhưng.

Quản Nhiệm

Cha Carlos Avila, V.E. sinh tại Comodoro Rivadavia, Á Căn Đình này 12/8/1964. Năm 1984 ngài vào chủng viện Đức Maria, Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể tại San Rafael, Mendoza Á Căn Đình. Ngài được thụ phong linh mục ngày 8/12/1990. Sau khi đươc truyền chức, ngài phục vụ tai chủng viện Thánh Jerome, Arequipa Peru cho đến năm 1992. Cha Avila là cha chính xứ Thánh Antôn, giáo phận Civita Castellana tại Ý, từ năm 1992 đến năm 1994. Ngài cũng học thần học tín lý tại Viện Đại Học Thánh Tôma (Angelicum) tại Rôma. Giữa năm 1994 và 1996, ngài làm việc tại Giáo xứ Thăng Thượng Thánh Giá (Kazan, Tatarstan, Nga).
Cha Avila đến Tajikistan năm 1996. Ngày 29/9/1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giao phó cho Tajikistan Học Viện Ngôi Lời Nhập Thể và bổ nhiệm cha Avila làm Bề Trên Giáo Hội “Tự Quản” (Sui Juris) Phái Bộ Truyền giáo Tajikistan.

Địa Chỉ: St. Joseph Parish, Titov Street, Passage 21, House 10, Dushanbe, Tajikistan, 734006.
Đt: (992) 372-221-21-90
Fax: (992) 372-223-26-77
Email: carlosavila@ive.org

Cha Juan Carlos Sack, V.E., Giám Đốc Caritas Tajikistan
Địa chỉ: St. Joseph Parish, Titov Street, Passage 21, House 10, Dushanbe, Tajikistan, 734006
Đt:(992) 372-221-21-90
Fax: (992) 372-223-26-77
Email: juancarlossack@ive.org
Không chỉ mạng toàn cầu (Website): www.caritas.tj

Cha Pedro Ramiro López, V.E., Chính xứ Giáo xứ Thánh Giuse tại Dushanbe và giám quản giáo xứ Thánh Rôcô tại Kurgan Tube.
Địa chỉ: St. Joseph Parish, Titov Street., Passage 21, House 10, Dushanbe, Tajikistan, 734006
Đt: (992) 372-221-21-90
Fax: (992) 372-223-26-77

Tài Liệu http://www.infoplease.com/ipa/A0108024.html, http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholicism_in_Tajikistan