ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Quyết định số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006
Quyết Định số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 của UBND huyện Long Thành


Kính gởi:
Chánh án Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai

Người khởi kiện:
HỒ VĂN TÂM, Cộng đoàn trưởng và Tập thể Tu sĩ Cộng Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế, Long Thành
Địa chỉ: số 17 tổ 22, ấp Tân Mai 2, xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Người bị kiện:
-Phó chủ tịch UBND huyện Long Thành Nguyễn Minh Hoàng, đã ký Quyết định số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết Định số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006, Địa chỉ: UBND huyện Long Thành Khu, Phước Hải, Thị trấn Long Thành
- Chủ tịch UBND xã Phước Tân Huỳnh Xuân Quang, đã ký Biên bản vi phạm hành chính trái pháp luật ngày 01/03/2006, Địa chỉ: UBND xã Phước Tân.
- Phó chủ tịch UBND huyện Long Thành Huỳnh văn Sơn, đã ký Quyết định số 232/QĐ-UBND/17/01/2007, Địa chỉ: UBND huyện Long Thành Khu, Phước Hải, Thị trấn Long Thành.
- Phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Huỳnh thị Nga, người ký Quyết định số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007, Địa chỉ: 02 Nguyễn văn Trị, F. Thanh Bình, Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Phó phòng tư pháp huyện Long Thành Nguyễn Năm, người áp dụng biện pháp cưỡng chế tịch thu tài sản trái pháp luật, Địa chỉ: UBND huyện Long Thành Khu, Phước Hải, Thị trấn Long Thành.

Nội dung vụ kiện:
1. Thủ tục thu hồi đất và bồi thường không đúng quy định của Pháp luật.
2. Việc cưỡng chế ủi sập nhà ở, nhà nguyện, chuồng trại, ao hồ, vườn cây và các công trình Tượng đài tôn giáo của Cộng đoàn tu trì thuộc cơ sở tôn giáo là hành vi xâm phạm quyền tự do tôn giáo.
3. Việc tịch thu tài sản, đồ dùng, quần áo, sách vở, bằng cấp, giấy tờ tùy thân, tiền bạc, gạo cơm, bắt bán heo, gà, vịt, cá của chúng tôi là xâm phạm tài sản của người khác trái pháp luật.
4. Các Quyết định giải quyết khiếu nai số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của bà Huỳnh thị Nga, phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai, và số 232/QĐ-UBND/17/01/2007 của ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành, không hề giải quyết các nội dung: 1,2,3 nói trên.

I. Thủ tục thu hồi đất và bồi thường không đúng quy định của Pháp luật:

Ngày 27/03/1999, Thủ tướng chính phủ ký Quyết Định số 341/QĐ-CP.
Nội dung: “ Thu hồi 2,040.999,5m2 đất thuộc xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cho Cty Cổ phần May Huy Hoàng thuê đất để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước ngoài xây dựng CLB Golf Long Thành” (Điều 1).

1. UBND huyện Long Thành ra Quyết định xử phạt hành chính

UBND huyện Long Thành ra Quyết định xử phạt hành chính số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 thu hồi nhà-đất của Cộng đoàn chúng tôi đang ở sử dụng ổn định, để cho Công ty Huy Hoàng xây dựng CLB Golf Long Thành mà không có Quyết định thu hồi đất của Cộng đoàn và không có Quyết định đền bù thiệt hại, không thỏa thuận giá cả đền bù là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật:

Căn cứ Nghị Định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 tại Điều 36: “Các dự án thuộc nhóm khuyến khích đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA, vốn nước ngoài. Trong trường hợp này Nhà nước không đứng ra thực hiện việc thu hồi đất, nhưng Nhà đầu tư phải thương lượng giá cả sòng phẳng với người đang sử dụng đất trên cơ sở “Thuận mua vừa bán”, không được dùng quyền lực hành chính Nhà nước để ép buộc, cưỡng chế dân” (khoản 6).

Căn cứ Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998, tại:
Điều 34 quy định: “Trình tự thực hiện đền bù thiệt hại, trước tiên phải có Quyết định thu đất. Trường hợp cần thiết phải sớm giải phóng mặt bằng, thì có thể thành lập hội đồng đền bù trước khi có Quyết định thu hồi đất.” (khoản 1).
Điều 38 quy định: “Người bị thu hồi đất nếu thấy Quyết định đền bù thiệt hại không đúng với quy định thì được quyền khiếu nại và được giải quyết theo quy định của Pháp luật. Người khiếu nại phải gửi đơn đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải quyết trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định đền bù thiệt hại…”

Căn cứ Luật đất đai năm 2003 tại điều 32 quy định: “Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó.”
Từ trước tới nay, Cộng đoàn chúng tôi chưa hề nhận được Quyết định thu hồi đất và Quyết định đền bù thiệt hại bao giờ.

2. Chứng minh:
Ngày 21/06/2004, lần đầu tiên ông Huỳnh văn Sơn ký Thông Báo lần I số 60/TB-UBH đề nghị chúng tôi nhận tiền bồi thường, (nhưng chưa có quyết định thu hồi đất của Cộng đoàn chúng tôi và Quyết định đền bù thiệt hại).

Ngày 12/11/2004, ông Huỳnh văn Sơn ra Quyết Định xử phạt hành chính trái pháp luật số 5247/QĐ-XPHC (vì không có biên bản vi phạm hành chính).
Ngày 22/11/2004, chúng tôi gửi đơn khiếu nại Quyết Định xử phạt hành chính số 5247/QĐ-XPHC nói trên, nhưng không được xem xét giải quyết.

Ngày 19/12/2005, tức hơn một năm sau, ông Huỳnh văn Sơn mới ký Quyết định cưỡng chế số 8744/QĐ-UBH, Căn cứ trên Quyết định xử phạt hành chính trái pháp luật trên.
Ngày 29/11/2005, 29/12/2005 chúng tôi gửi đơn khiếu nại Quyết Định cưỡng chế số 8744/QĐ-UBH ngày 12/11/2004 nói trên.

Ngày 21/03/2006, ông Lê văn Ý chủ tịch huyện Long Thành ký Quyết định thu hồi Quyết định cưỡng chế trái pháp luật của ông Huỳnh văn Sơn số 8744/QĐ-UBH nói trên.

Ngày 01/03/2006, ông Huỳnh Xuân Quang chủ tịch Xã Phước Tân ký một Biên Bản vi phạm hành chính, căn cứ trên một khoản điều không có thật (Khoản 18, Điều 19 Nghị Định 182/NĐ-CP/ ngày 29/10/2004). Một biên bản vi phạm hành chính mà căn cứ trên một khoản điều không có trong luật, tức là Biên Bản trái pháp luật.

Sau này bà Huỳnh thị Nga, ông Huỳnh văn sơn tự ý sửa từ khoản 18, Điều 19 thành Điều 18,19 Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, mà không ra quyết định sửa sai bằng văn bản. Như vậy, chữ ký và con dấu đỏ của UBND xã Phước Tân còn giá trị gì không ?

Ngày 05/03/2006 chúng tôi gửi đơn đến ông Huỳnh Xuân Quang chủ tịch xã Phước Tân và ông Nguyễn Minh Khánh tổ bồi thường huyện, đề nghị sửa đổi hoăc hủy bỏ Biên bản trái pháp luật trên. Nhưng không được xem xét giải quyết.

Ngày 21/03/2006, ông Nguyễn Minh Hoàng phó chủ tịch huyện Long Thành ký Quyết Định xử phạt hành chính số 918/QĐ-XPHC, căn cứ trên Biên Bản trái pháp luật của ông Huỳnh Xuân Quang nói trên.

Ngày 27/03/2006, ngày 15/04/2006, ngày 03/05/2006 chúng tôi gửi đơn khiếu nại Quyết định số 918/QĐ-XPHC trực tiếp Thanh tra và Văn phòng UBND huyện Long Thành, Phòng tiếp dân tỉnh Đồng Nai, nhưng không được xem xét giải quyết.

Ngày 02/06/2006, ông Nguyễn Minh Hoàng phó chủ tịch huyện Long Thành lại ký tiếp Quyết Định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND cũng căn cứ trên Biên Bản trái pháp luật của ông Huỳnh Xuân Quang chủ tịch xã Phước Tân nói trên.

Ngày 08/06/2006, ngày 15/06/2006, ngày 26/06/2006 chúng tôi gửi đơn khiếu nại Quyết Định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND trực tiếp Thanh tra và Văn phòng UBND huyện Long Thành, Phòng tiếp dân tỉnh Đồng Nai, và nhiều cơ quan khác nhưng cũng không được xem xét giải quyết.

Ngày 30/06/2006, UBND huyện Long Thành tiến hành thực hiện cưỡng chế trái quy định của pháp luật. Chưa một lần giải quyết đơn khiếu nại, chưa một lần gặp gỡ thỏa thuận giá đền bù, không tạo chỗ ở mới, căn cứ trên một Khoản Điều không có trong luật(Khoản 18, Điều 19 Nghị Định 182/NĐ-CP/ ngày 29/10/2004) để Quyết định xử phạt, Quyết định cưỡng chế thu hồi đất, tịch thu tài sản.
Từ sáng sớm, Đoàn cưỡng chế đuổi tất cả mọi người trong nhà ra khỏi khu vực, niêm phong nhà, chờ tới giờ đọc lệnh và cưỡng chế, tịch thu tất cả mọi thứ, ủi sập nhà cửa, chuồng trại, vườn cây và các công trình kiến trúc khác, bắt bán luôn cả trại heo, ao cá của Cộng đoàn. Mỗi thành viên Cộng đoàn chỉ còn bộ quần áo trong người, không còn nơi ăn chốn ở.

Muốn giao đất của Cộng đoàn chúng tôi cho Công ty Huy Hoàng thì UBND huyện Long Thành phải ban hành Quyết định thu hồi đất của Cộng đoàn và Quyết định bồi thường thiệt hại để Cộng đoàn chúng tôi căn cứ vào đó mà thực hiện. Nhưng UBND huyện Long Thành đã không làm.

Muốn buộc Cộng đoàn chúng tôi di dời, giao đất cho Cộng ty Huy Hoàng thì UBND huyện phải cấp tái định cư, nơi ở mới, không có chúng tôi di dời đi đâu?

Như vậy, ông Huỳnh văn Sơn và ông Nguyễn Minh Hoàng phó chủ tịch huyện Long Thành đã dùng quyền lực hành chính Nhà nước để ép buộc, cưỡng chế thu hồi đất trái với quy định của: Luật đất đai năm 2003, Nghị định 22/1998/NĐ-CP, Nghị Định 181/2004/NĐ-CP của thủ tướng Chính phủ.
Và các Quyết định xử phạt hành chính số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 của ông Nguyễn Minh Hoàng là không căn cứ pháp luật, cần phải huỷ bỏ.

II. Việc cưỡng chế

Việc cưỡng chế ủi sập nhà ở, phòng nguyện, chuồng trại, ao hồ, vườn cây và các công trình Tượng đài tôn giáo của Cộng đoàn tu trì thuộc cơ sở tôn giáo là hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo của ông Nguyễn Năm phó phòng tư pháp huyện Long Thành, trưởng đoàn cưỡng chế.

Căn cứ Pháp Lệnh Tín Ngưỡng, Tôn Giáo số 21/2004/PL-UBTVQH 11, tại Điều 26: “Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm việc xâm phạm tài sản đó.”

1. Biên Bản Cưỡng Chế mà ông Nguyễn Năm là trưởng đoàn, được thành lập bao giờ ở đâu tôi không biết, nhưng 51 ngày sau ngày cưỡng chế (21/08/2006) mới gởi bưu điện cho tôi, có ghi:

Hôm nay, hồi 08 giờ 30 ngày 30/06/2006, tại địa điểm ấp Tân Mai, xã Phước Tân, Long Thành, Đoàn cưỡng chế thi hành Quyết định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 của UBND huyện Long Thành V/v cưỡng chế thi hành QĐXPHC trong lĩnh vực đất đai đối với ông Hồ văn Tâm.

Nội dung Quyết định cưỡng chế: “Cưỡng chế tháo dỡ các công trình nhà cửa hoa màu trên đất, buộc ông Hồ văn Tâm giao lại diện tích 20.182,2m2 đất tại ấp Tân Mai 2, xã Phước Tân cho Cty Cổ Phần May Huy Hoàng đầu tư xây dựng đường vào CLB Golf Long Thành theo Quyết Định số 341/QĐ-TTg ngày 27/03/1999 của Thủ tướng chính phủ.
Thủ tướng chính phủ đâu có ký Quyết định cho Công ty Huy Hoàng thu hồi đất xây dựng đường vào CLB Golf Long Thành bao giờ ???

Như vậy, ông Nguyễn Năm phó phòng tư pháp huyện Long Thành đã mượn danh Thủ tướng chính phủ, để tạo ra một “Quyết Định Ma” để chiếm đoạt đất đai và tài sản của một cơ sở tôn giáo, gây dư luận trầm trọng cho quần chúng về đàn áp tôn giáo, gây thiệt hại quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể Tu Đoàn chúng tôi.
2. ông Nguyễn Năm phó phòng tư pháp huyện Long Thành đã áp dụng biện pháp cưỡng chế tịch thu và thu giữ tài sản của Cộng đoàn chúng tôi, trái với quy định của Pháp luật:

Chứng minh 2:

Căn cứ Nghị Định 37/2005/NĐ-CP:

Tại Điều 2, khoản 3: “Những trường hợp phải dùng đến biện pháp cưỡng chế để thực hiện tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; buộc khôi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra; buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh; buộc thiêu hủy những vật phẩm gây hại sức khỏe con người, vật nuôi cây trồng và văn hóa độc hại. Như vậy, trường hợp Cộng đoàn Bến Đống không thuộc diện được phép dùng biện pháp cưỡng chế tịch thu đất và tài sản.

Ông Nguyễn Năm phó phòng tư pháp huyện Long Thành chỉ cần một khoản luật đơn giản(khoản 5, Điều 34 Nghị Định 37/2005/NĐ-CP) là có thể cưỡng chế, chiếm đoạt đất đai, nhà cửa, tài sản của một cơ sở tôn giáo và cũng dùng khoản 5 này để trốn tránh trách nhiệm cách dễ dàng, mà Thủ trưởng cơ quan lớn nhất của huyện Long Thành cũng giả điếc làm ngơ.

Điều 21. Những tài sản sau đây không được phép kê biên (tức không được thu giữ):

1. Thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cần thiết cho cá nhân bị cưỡng chế và gia đình họ sử dụng.
2. Công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho cá nhân bị cưỡng chế và gia đình họ sử dụng.
3. Đồ thờ cúng thông thường; di vật, huân chương, huy chương, bằng khen vv….

Ông Nguyễn Năm đã không ngần ngại tịch thu và thu giữ những tài sản mà pháp luật cấm không được thu giữ của một Cộng Đoàn tu trì chúng tôi.

Điều 24 khoản 3: “Biên bản kê biên phải lập thành 02 bản, cơ quan ra quyết định cưỡng chế 01 bản, 01 bản được giao cho cá nhân bị kê biên hoặc tổ chức bị cưỡng chế kê biên ngay sau khi hoàn thành việc lập biên bản kê biên tài sản. Việc kê biên tài sản phải hoàn thành trước khi tiến hành cưỡng chế và phải có mặt của người bị kê biên”. Nhưng trên thực tế, UBND huyện Long Thành thực hiện việc kê biên lúc nào ở đâu chúng tôi không biết, chỉ 51 ngày sau khi cưỡng chế, tôi mới nhận được biên bản kê biên qua bưu điện.

Từ những cơ sở trên, Chúng tôi đề nghị Quý tòa xem xét ông Nguyễn Năm phó phòng tư pháp huyện Long Thành, ông Nguyễn Minh Hoàng phó chủ tịch huyện Long Thành, căn cứ Điều 45 khoản 1: “Người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế mà ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác thì căn cứ vào tính chất mức độ vi phạm mà bị xủ lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bồi thường thiệt hại do quyết định trái pháp luật của mình gây ra”

3. Công trình nhà cửa, tài sản, đất đai Cộng đoàn tu trì chúng tôi là công trình hợp pháp, không nằm trong trường hợp Khoản 5 Điều 34 Nghị Định 37/2005/NĐ-CP mà ông Nguyễn Năm dùng để cưỡng chế và tịch thu tài sản.

Chứng minh 3:

Ngày 23/10/1992, ông Nguyễn văn Hải chủ tịch UBND xã Phước Tân, cấp cho chúng tôi SỔ KÊ KHAI DIỆN TÍCH VÀ THU NỘP THUẾ NÔNG NGHIỆP số 17/TNN tập đoàn Tân Mai 2 (tu sĩ Trần văn Tảo đứng tên), tôi đã đóng thuế hàng năm đầy đủ (biên lai nộp thuế phôtô đính kèm).

Ngày 12/10/2001, ông Ngô Minh Tiến cán bộ địa chính và ông Nguyễn Văn Mỹ phó chủ tịch xã Phước Tân đã ký GIẤY XÁC NHẬN NGUỒN GỐC ĐẤT, rằng: “số diện tích 21705,7m2 ông Nguyễn văn Chinh khai phá trước năm 1975 sứ dụng đến năm 1992 ông Chinh chuyển nhượng lại cho ông Hồ văn Tâm sử dụng liên tục cho đến nay, không tranh chấp”.

Ngày 24/11/2001, ông Nguyễn văn Mỹ phó chủ tịch xã Phước Tân và ông Nguyễn Quốc hội đồng đền bù huyện đã ký GIẤY XÁC NHẬN NGUỒN GỐC ĐẤT ĐAI, NHÀ CỬA, VẬT KIẾN TRÚC, rằng: “Đã có giấy tờ hợp lệ, Diện tích đất nông nghiệp:21705,7m2, và đất thổ cư: 300m2 ông Tâm mua lại của ông Nguyễn văn Chinh năm 1992 sử dụng cho đến nay”.
Đất có 300m2 thổ cư, có nhà ở, chuồng trại, công trình kiến trúc, có ao cá, vườn cây ăn trái, có người đang ở sử dụng liên tục hàng chục năm nay, không tranh chấp, có giấy tờ hơp lệ mà ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành cho là hộ giải tỏa trắng không thuộc diện cấp tái định cư là thiếu cơ sở pháp lý.

Ngày 28/11/2002, ông Trần Đình Tân, ban thuế nông nghiệp Phước Tân đã ký GIẤY TƯỜNG TRÌNH NGUỒN GỐC NHÀ VÀ ĐẤT, rằng: “Xác nhận diện tích đất khai trong giấy là đất của Nhà dòng đã đóng thuế đầy đủ”. Cùng ngày, ông Trần Đình Tán trưởng ban hành giáo xứ cùng ký xác nhận: “Đại diện Ban hành giáo xứ Thiên Phước, xác nhận Cộng Đoàn các thầy Tu Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế đã ở đây lâu theo như đơn”; đại diện chính quyền địa phương, ông Ngô văn Viễn phó trưởng tổ 22 đã ký và 40 người ký đại diện bà con lối xóm và bà con ấp Tân Mai 2 cùng ký xác nhận nội dung Giấy Tường Trình Nguồn Gốc Đất-Nhà là đúng sự thật.

Ngày 09/11/2005, ông Ân văn Liêm phó chủ tịch HĐBT huyện Long Thành đã ký tờ BÁO CÁO số 283/BC-HĐBT, qua thẩm định xác minh rằng: “Hộ ông Hồ văn Tâm: trước đây thuộc hộ giải tỏa trắng, nhưng khi thẩm định lại thì là cơ sở tôn giáo tự lập, không được cấp phép hoạt động, không được cấp hộ khẩu”.

Ngày 28/12/2005, tòa giám mục Xuân Lộc đã ký xác nhận GIẤY TƯỜNG TRÌNH NGUỒN GỐC NHÀ VÀ ĐẤT, rằng: “Xác nhận phần đất ghi trong giấy là đất tôn giáo mà Tu sĩ Tâm đứng đại diện Tu Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế”.

Ngày 10/01/2006, Tòa Giám Mục Xuân Lộc cấp GIẤY CHỨNG NHẬN “Cộng đoàn Bến Đống là một cơ sở tôn giáo trong lãnh thổ Giáo Phận Xuân Lộc, được giao trách nhiệm cho tu sĩ Phêrô Hồ văn Tâm -Tu Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế đại diện đứng tên, cùng với một số tu sĩ, tu sinh quản lý, canh tác và điều hành thuộc thẩm quyền của Giáo Hội Công giáo Việt Nam.” Đức giam mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh đã ký.

Một cơ sở tôn giáo, đã được Giáo hội cấp Giấy Chứng Nhận, cơ quan Nhà nước cấp huyện, cấp xã, cấp thôn ấp và toàn thể bà con làng xóm công nhận; nhưng chỉ vì lý do chưa được cấp phép hoạt động tôn giáo mà không được chính quyền địa phương cho đăng ký hộ khẩu, khi bị thu hồi đất lại không có quyết định thu hồi đất, không được bố trí tái định cư, không được bồi thường thiệt hại là thiếu căn cứ pháp luật.

III. Việc tịch thu tài sản:

Việc tịch thu tài sản đồ dùng, quần áo, sách vở, bằng cấp, giấy tờ tùy thân, tiền bạc, gạo cơm, bắt bán heo, gà, vịt, cá, mà không có mặt và sự chấp thuận của chủ sở hữu là xâm phạm tài sản của người khác trái pháp luật.

Một cơ sở tôn giáo đã ổn định, hợp pháp như vậy mà UBND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai đã ký quyết định cho Công ty Huy Hoàng đem người và máy móc đến cưỡng chế ủi sập nhà ở, phòng nguyện, tượng đài Chúa -Mẹ, Thần thánh nơi thờ phượng của Cộng đoàn, chuồng trại, ao cá, vườn cây v.v…; hai trại heo đang nuôi hàng trăm con cũng bị Công ty Huy Hoàng bắt bán hết không đem tiền cho chúng tôi, khoảng 3 tấn cá thịt đang nuôi dưới ao, trung bình 20 ngàn đồng/kg (tương đương 400.000.000đ/năm), Công ty Huy Hoàng cũng phá bờ cạn nước cho người của Công ty bắt hết; vườn cây gỗ: dầu, sao, mít, tràm lâu năm, trước đó có người đến hỏi mua 250 triệu đồng mà chúng tôi không bán cũng bị Công ty Huy Hoàng cưa đổ chở về xé ván, chở luôn cả hơn 3 khối gỗ vuông: 10x20, 6x12, 5x10 dài 5m toàn gỗ quý hiếm lâu đời mua từ các nhà thờ ở Sài gòn, trị giá khoảng 0,5 tỷ đồng; toàn bộ nhà cửa, chuồng trại, công trình kiến trúc bị ủi sập trị giá hơn 2 tỷ đồng.

Các Thứ Gia Dụng Trong Nhà bị thu giữ trái Pháp luật tại UBND xã Phước Tân:

1. Các loại tủ đựng đồ:

Tủ đứng: 04 cái bằng gỗ, 02 cái bằng sắt;
Tủ nằm: 01 kệ gỗ dài bốn ngăn, 02 tủ loại 04 hộc gỗ,
Tủ búp-phê: 01 tủ thuốc gia đình, các dụng cụ khám chữa bệnh,
Tủ đựng ly, chén, bát và thức ăn đồ khô.
Thùng nhôm: đựng gạo còn hơn tạ gạo trong đó.
Gạc-măng-giê: 02 cái đựng thức ăn, nồi niêu xoong chảo, chén bát.

2. Các loại bàn ghế, mùng mền:

Bàn dài: 05 cái mặt ván gỗ, Ghế sắt xếp 20 chiếc
Bàn tròn: 02 cái, Ghế Salon: 06 cái
Bàn ghế học sinh 30 bộ, Giường sắt: 21 cái, 04 giường gỗ
Bàn quỳ và ghế tựa bằng gỗ 14 bộ, Mùng mền, chiếu, gối 42 bộ

3. Các loại máy móc và điện tử:

Đàn Yamaha 01 cái, Tivi 14 inh và 21 inh, Máy Laser CD 01 cái
Đàn Ghi ta 03 cái, Loa vi tính 02 cái Hephone 01cái
Dàn trống 01 bộ, Âm ly 02 cái,
Đầu băng 03 cái, Loa thùng 2 cái, Lò nướng 1 cái
Đèn để bàn 24 cái, Micro không dây 2 cái, Ổn áp điện 03 cái

Đồng hồ: 06 cái treo tường và 06 để bàn, Xe đạp 07 cái
Máy ảnh 07 cái: 01 kỹ thuật số và 06 mấy cơ, Xe lắc 01 cái
Đồng hồ điện 01, dây điện đóng bao, Xe máy 02 chiếc
Quạt đứng 06 cái, quạt trần 02 cái, Mũ bảo hiểm 03 cái

Máy Dinamo phát điện 04 kw 01cái, Máy hút bùn 01 cái
Máy bơm nước 02 cái, Máy khoan 01 cái
Máy nổ F10 01 cái, Bồn nhựa chứa nước 3 cái: 300L, 500L, 1000L
Bàn may máy 01 cái, Kệ sách lớn 06 tầng 02 cái,
Kệ sách nhỏ 06 cái, 01 con rắn gỗ.

Số tài sản bị thu giữ tại UBND xã Phước Tân thiệt hại khoảng hơn 1 tỷ đồng.


Tổng thiệt hại toàn bộ lên đến khoảng trên 5 tỷ đồng, chưa tính đến số tiền mặt 2.000 USD và 14 chỉ vàng trong tủ sắt; gần 80 bộ quần áo đi học, đi lễ của các anh em, nhét chung với giày dép, sách vở đầy 26 bao (bản kê khai); chưa tính đến thiệt hại do sự ngưng trễ việc tu học của các tu sĩ, tu sinh và các em học sinh, sinh viên; hơn một năm qua đời sống Cộng đoàn mất ổn định do mất nhà mất đất; quần áo, lương thực, sách vở, giấy tờ, bằng cấp, sách kinh bổn, kinh sách phụng vụ giờ kinh v.v… bị UBND huyện thu giữ không chịu trả, không chịu giải quyết.

IV. Quyết định giải quyết khiếu nại

Quyết định giải quyết khiếu nại số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của bà Huỳnh thị Nga, phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai không hề giải quyết các nội dung: I,II,III nói trên.

Các Quyết định giải quyết khiếu nại số 232/QĐ-UBND/17/01/2007 của ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành và Quyết định giải quyết khiếu nại số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của bà Huỳnh thị Nga, phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai không căn cứ pháp luật, không giải quyết các nội dung đơn khiếu nại, không xác minh các giấy tờ hợp pháp của chúng tôi liên quan các đơn khiếu nại, mà chỉ căn cứ các báo cáo và thông báo thiếu căn cứ pháp luật.

1) Các đơn khiếu nại lâu nay của chúng tôi vẫn mang nội dung:

* UBND huyện Long Thành muốn thu hồi đất của Cộng đoàn chúng tôi để giao cho Công ty Huy Hoàng xây dựng CLB Golf Long Thành, nhưng không muốn ra Quyết định thu hồi đất của Cộng đoàn, không muốn ra Quyết định bồi thường thiết hại, không muốn thỏa thuận giá cả với chúng tôi, đúng theo quy định của pháp luật.

* Nhiều lần chúng tôi gửi đơn khiếu nại các Quyết định xử phạt hành chính số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết định cưỡng chế số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 của ông Nguyễn Minh Hoàng, nhưng không được xem xét giải quyết.

* Yêu cầu bố trí tái định cư, hoán chuyển đất khác theo nguyện vọng chính đáng của chúng tôi, cũng không được xem xét giải quyết.

* Thuê nhà trọ và trả lại tài sản đã bị tịch thu: đồ dùng cá nhân và Cộng đoàn, tiền bạc, gạo cơm, giấy tờ tùy thân, quần áo, sách vở, bằng cấp, giầy dép, xe cọ v.v… của các em học sinh, sinh viên v.v… không lập biên bản kê biên, đang thu giữ tại UBND xã Phước Tân. nhưng không được giải quyết.

2) Các Quyết định số 232/QĐ-UBND/17/01/2007 của ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành và Quyết định số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của bà Huỳnh thị Nga phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai giải quyết theo xác minh có một phía, thiếu cơ ở pháp lý:

a) Có trích dẫn chung chung Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18/03/2005, Nghị Định 182/NĐ-CP/ ngày 29/10/2004, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, nhưng không giải quyết theo quy định của các Nghị định trên.

b) Chỉ căn cứ các Quyết định:
* ơ( Quyết Định số 341/QĐ-CP ngày 27/03/1999 của Thủ tướng chính phủ;
* Quyết định số 1280/QĐ-UBT ngày 10/04/1999, “V/v Hỗ trợ giải tỏa trắng có nhà và đất hợp pháp thì được giải quyết chính sách tái định cư”.
* Quyết định số 2963/QĐ-UBT ngày 16/08/2001, V/Vban hành giá các loại đất;
* Quyết định số 157/QĐ-CT-UBT ngày 14/01/2003 V/v bồi thường, hỗ trợ (đợt 3)
* Quyết định số 5760/ QĐ-CT-UBT ngày 26/11/2004 V/v phê chuẩn phương án hỗ trợ thu hồi đất (đột 5);
* Quyết định số 2599/QĐ-CT-UBT ngày 20/07/2005 V/v phê chuẩn phương án bồi thường(đột 7);
* Báo cáo số 37/BC-TT ngày 16/04/2007 và Công văn số 236/TT-XKT ngày 28/05/2007 của Chánh thanh tra tỉnh về kết quả xác minh. (hai số Báo cáo và Công văn này chúng tôi không được cung cấp).
* Công văn số 3140/UBND-NC ngày 16/05/2006, V/v ủy quyền cho Ủy ban nhân huyện Long Thành ban hành quyết định cưỡng chế đối với những hộ dân cố tình không di dời giải tỏa.
* Ba lần gửi thông báo nhận tiền bồi thường năm 2004 và 2005;
* Biên bản vi phạm hành chính ngày 23/08/2002 “V/v tự ý chuyển quyền sử dụng đất và xây dựng nhà trái phép” và đã phạt tiền qua Quyết định số 1744/QĐ-CT-UBH ngày 20/09/2002.
* Biên bản trái pháp luật ngày 01/03/2006 tại Ủy ban xã Phước Tân (chưa sửa đồi hoặc thu hồi lại):

Biên Bản vi phạm hành chính ngày 01/03/2006 mà ông Huỳnh Xuân Quang chủ tịch Xã Phước Tân ký, căn cứ trên một khoản điều không có thật (Khoản 18, Điều 19 Nghị Định 182/NĐ-CP/ ngày 29/10/2004). Một Biên bản vi phạm hành chính mà căn cứ trên một khoản điều không có trong luật, tức là Biên Bản trái pháp luật.

Nay ông Huỳnh văn Sơn và bà Huỳnh thị Nga tự ý sửa từ khoản 18, Điều 19 thành Điều 18,19 Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, để hợp thức cho Biên bản trái pháp luật nói trên, mà không ra quyết định sửa sai Biên bản đó.
Giả sử như là Điều 18, Điều 19 Nghị định số 182/2004/NĐ-CP thì cũng chẳng có nghĩa gì. Vì nội dung
Điều 18 khoản 1: “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000đ -200.000đ đối với hành vi không có mặt tại địa điểm để bàn giao đất theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không có lý do chính đáng.”
Khoản 2: “Phạt tiền từ 200.000đ -500.00đ đối với hành vi ngăn cản cán bộ, công chức của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành xác định mốc giới, bàn giao, cho thuê, thu hồi đất trên thực đia.”
Điều 19: “Phạt tiền từ 500.000đ – 3.000.000đ đối với hành vi cố ý trốn tránh, chây ỳ không trả lại đất đúng thời hạn trả lại đất theo Quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà phương án bồi thường đã được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Qua đó cho thấy, Điều 18 này chẳng liên quan gì đến Cộng đoàn chúng tôi.
Điều 19 cho thấy, Cộng đoàn chúng tôi chưa hề nhận được Quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, còn phương án bồi thường thì lại quá trái với quy định của pháp luật.

Như vậy, cái gốc là Biên Bản vi phạm hành chính ngày 01/03/2006 mà ông Huỳnh Xuân Quang chủ tịch Xã Phước Tân ký, hoàn toàn trái pháp luật, thì cái ngọn là Quyết Định số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết Định cưỡng chế số 1674/QĐ-UB ngày 02/06/2006, của ông Nguyễn Minh Hoàng phó chủ tịch huyện Long Thành cũng trái pháp luật.

c) Các Quyết định số 232/QĐ-UBND/17/01/2007 của ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành và Quyết định số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của bà Huỳnh thị Nga phó chủ tịch tỉnh Đồng Nai giải quyết theo xác minh có một phía, thiếu cơ ở pháp lý:
Các hồ sơ giấy tờ liên quan đến tính hợp pháp nhà-đất của Cộng đoàn chúng tôi đã được trình bày trong các đơn khiếu nại từ trước tới nay ( nay trình bày tại chứng minh 3, trang 7 trong đơn này), ông Huỳnh văn Sơn và bà Huỳnh thị Nga bỏ qua không đưa vào xác minh để giải quyết. Giải quyết như vậy có ý đồ gì ?

Từ những cơ sở trên cho thấy, ông Huỳnh văn Sơn phó chủ tịch huyện Long Thành và bà Huỳnh thị Nga phó chủ tịch tỉnh Đồng nai đã vi phạm nghiêm trọng tại Điều 6 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998: “Người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết hoặc cố tình giải quyết trái pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”

Kính thưa Quý Tòa.

Hiện nay mọi sinh hoạt tu trì của Cộng đoàn chúng tôi bị ngưng trễ hoàn toàn, các thành viên Cộng đoàn phải tá túc trong các hộ dân, vì thế đời sống gặp rất nhiều khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến việc tu học của chúng tôi.

Thu giữ quần áo, giầy dép, xe cọ, sách vở, giấy tờ, bằng cấp và cả tiền bạc của các em học sinh, sinh viên để làm gì mà không chịu trả cho họ đi học? Sách Thánh, sách kinh nguyện, sách phụng vụ, Tượng ảnh Chúa Mẹ thu giữ làm gì ?

Muốn giao đất của Cộng đoàn chúng tôi cho Công ty Huy Hoàng thì UBND huyện Long Thành phải ban hành Quyết định thu hồi đất của Cộng đoàn và Quyết định bồi thường thiệt hại để Cộng đoàn chúng tôi căn cứ vào đó mà thực hiện chứ.

Do đó, Cộng đoàn Bến Đống một lần nữa kính đề nghị Quý Tòa xem xét:

* Tuyên hủy các quyết định số 2067/QĐ-UBND ngày 09/07/2007 của UBND tỉnh Đồng Nai; Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 17/01/2007, Quyết định số 918/QĐ-XPHC ngày 21/03/2006 và Quyết định số 1674/QĐ-UBND ngày 02/06/2006 của UBND huyện Long Thành.

* Nếu UBND huyện Long Thành không còn quỹ đất thì chúng tôi đề nghị Quý Tòa xem xét trả lại đất cũ cho chúng tôi để Cộng đoàn sớm có nơi ở ổn định.

* Đồng thời bồi thường thiệt hại do các Quyết định nêu trên gây ra, để các tu sĩ, tu sinh, các em học sinh, sinh viên của Cộng đoàn chúng tôi có cuộc sống ổn định và điều kiện tu học bình thường.

Rất mong nhận được sự quan tâm giải quyết của Quý Tòa.

Ấp Tân Mai 2 ngày 10/09/2007
(Ký tên)
Cộng đoàn trưởng: Hồ văn Tâm