Robert Lazu Kmita trên tạp chí The Catholic Thing, Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11 năm 2025, viết: Trong những tháng gần đây, chúng ta đã nghe rất nhiều về việc các nghi lễ phụng vụ truyền thống bị hủy bỏ tại một số giáo phận. Tất nhiên, điều này không có gì mới. Tuy nhiên, sự ngoan cố của một số giám mục trong việc xóa bỏ không chỉ các nghi lễ phụng vụ này mà còn cả các nhóm tận tụy bảo tồn và truyền tải kho tàng phụng vụ Công Giáo chắc chắn khiến chúng ta lo lắng.
Trước hết, cần phải nói rằng cốt lõi của cuộc tranh luận gay gắt xung quanh quyền tồn tại của Thánh lễ La-tinh Truyền thống không mang tính chất phụng vụ. Một quan điểm nhất định về sự tiến hóa và tình hình thế giới trong những thế kỷ qua – được đánh dấu rõ nét bởi sự sụp đổ của các chế độ quân chủ Công Giáo và các cuộc cách mạng, chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa Quốc xã, và hai cuộc Chiến tranh Thế giới – đã nảy sinh ý tưởng về một sự “điều chỉnh” hoàn toàn (tức là aggiornamento) các phạm trù truyền thống của thần học và luân lý Kitô giáo, cũng như việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tiền đề của quan điểm này là sự nhạy cảm và thấu hiểu con người hiện đại, những người được cho là không còn khả năng tiếp nhận Tin Mừnf được truyền tải thông qua các phương tiện truyền thống mà Giáo hội đã sử dụng trong gần hai thiên niên kỷ. Do đó, việc “cập nhật” toàn bộ Kitô giáo sẽ là một điều cần thiết do những điều kiện lịch sử mới đặt ra. Bất kể được diễn đạt như thế nào, đây chính là lập luận chính của những “nhà cải cách” – thường đi kèm với tuyên bố rằng “Chúng ta không còn sống ở thời Trung cổ nữa!”
Lý do thứ hai cho những thay đổi này, bị lên án một cách có hệ thống bởi những người yêu mến Truyền thống và những người bảo vệ tính liên tục và bất biến trong việc thờ phượng Thiên Chúa, liên quan đến cốt lõi thần học được phát biểu trong các hình thức phụng vụ và bí tích, vốn được Công đồng Trent (1545–1563) nhắm vào làn sóng Thệ phản.
Các nhà phê bình kiên quyết cho rằng những hình thức này không còn đáp ứng được những nhu cầu mới. Những khái niệm cơ bản như “hy tế”, “biểu tượng”, “sám hối”, “đền bù”, v.v. đã bị gạt sang một bên dưới ảnh hưởng của một giáo hội học mơ hồ. Do đó, không còn rõ liệu Giáo Hội Công Giáo có còn là Giáo hội đích thực duy nhất do Chúa Giêsu Kitô sáng lập – cộng đồng duy nhất mà ơn cứu độ có thể đạt được hay không.
Tất nhiên, điều này dẫn chúng ta đến lý do thứ ba cho các cuộc cải cách phụng vụ: đại kết, đại diện cho một sự thay đổi đáng kể so với các giáo huấn và phong cách giáo hội học đã tồn tại trước Công đồng Vatican II. Trong trường hợp này, mục tiêu không phải là thích nghi với sự nhạy cảm và hiểu biết của con người hiện đại mà là thích nghi với những yêu cầu của cuộc đối thoại với các giáo phái Kitô giáo khác – một cuộc đối thoại mà trong đó sự cởi mở và mong muốn giảm thiểu sự khác biệt (thật không may, phải trả giá bằng việc làm loãng đi những giáo lý truyền thống) là chủ đạo.
Vì vậy, mặc dù trước Công đồng, bất cứ hình thức communicatio in Sacris [hiệp thông trong các sự kiện thánh thiêng] với các thành viên của các giáo phái khác đều bị nghiêm cấm đối với người Công Giáo, nhưng ngày nay, những buổi cầu nguyện chung và các cuộc họp như ở Assisi và Abu Dhabi đã trở thành chuẩn mực, trong khi tiếng nói của một số ít Hồng Y và giám mục nêu lên mối quan ngại nhanh chóng bị dập tắt.

Trong bối cảnh như vậy, Phụng vụ các Thời đại – được đặc trưng bởi nguyên tắc quân chủ và phẩm trật, cùng với sự thánh thiêng và tôn kính được hàng giáo sĩ và tín hữu trung thành gìn giữ – vẫn là mục tiêu của những người tin rằng nó đại diện cho một hình thức lỗi thời, cứng ngắc, không có khả năng vượt qua cuộc khủng hoảng hiện tại.
Trong tập sách xuất sắc do Joseph Shaw biên tập, The Latin Mass and the Intellectuals, ngay cả các giáo phẩm được giao nhiệm vụ giám sát hoạt động của Ủy ban Ecclesia Dei (đã bị Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải tán vào năm 2019, với trách nhiệm được chuyển giao cho Bộ Giáo lý Đức tin) cũng tin rằng mục đích của nó là “loại bỏ dần Thánh lễ cũ”. Ví dụ, Đức Hồng Y Antonio Innocenti đã tuyên bố tại một cuộc họp của các giám mục rằng “đây là một Ủy ban tạm thời, sẽ tự giải thể”. Và Đức Hồng Y Dario Castrillón Hoyos đã cố gắng xuất bản, dưới sự cho phép của ủy ban, một văn kiện áp đặt những đổi mới như việc rước lễ bằng tay, việc dùng nữ giúp lễ, việc sử dụng sách phụng vụ cải cách và lịch các thánh được sửa đổi.
Thái độ của tất cả những người chỉ trích này đều dựa trên cùng một tiền đề: rằng với sự tiến hóa không ngừng của lịch sử, những cải cách phụng vụ được áp đặt từ trên xuống là giải pháp duy nhất cho cuộc khủng hoảng lớn mà con người hiện đại đang phải đối diện. Chỉ có phụng vụ Novus Ordo mới giải quyết được cuộc khủng hoảng này; do đó, những người phản đối việc cải cách cùng lắm chỉ có thể là “những người chăm nom viện bảo tàng đầy luyến nhớ” hay tệ hơn, là những “kẻ lạc hậu” cản trở sự tiến bộ.
Dù thế nào đi nữa, họ cũng phải biến mất. Suy cho cùng, ai có thể chống lại những giá trị mới được Chúa Thánh Thần soi sáng: đại kết, đối thoại liên tôn, nữ quyền, sinh thái, quản trị hoàn cầu, khuyến khích nhập cư, v.v.?
Vì vậy, chúng ta có thể tự hỏi: giải pháp mục vụ thực sự cho tình hình hiện tại sẽ là gì? Trước hết, liệu các giáo phẩm Công Giáo có nên thể hiện sự khoan dung đối với những “kẻ lạc hậu” này hay không? Tại sao không trao quyền tồn tại cho tất cả các huynh đoàn linh mục và các hiệp hội giáo dân, những tổ chức chỉ mong muốn duy trì sự phong phú của việc thờ phượng mà tất cả các thánh của Giáo hội chúng ta đã sống trong hàng ngàn năm?
Còn bằng chứng nào tốt hơn về tình yêu thương đích thực của những người chăn chiên dành cho những con chiên “lạc hậu” hơn trong đàn chiên? Nếu việc đối thoại với các tôn giáo khác và các giáo phái Kitô giáo khác là điều đáng mong muốn, thì tại sao việc đối thoại với các nhà thần học và tư tưởng truyền thống lại không được như vậy?
Tôi tin rằng những người Công Giáo chân thành nhận ra tính chính đáng của những câu hỏi như vậy và những câu trả lời từ chúng. Tuy nhiên, nếu tầm nhìn mục vụ này còn thiếu sót, thì những người chỉ trích có thể đúng: vấn đề không chỉ đơn thuần là thay đổi Phụng vụ. Mà còn là thay đổi nền tảng thần học của nó.
Và cuộc khủng hoảng, trước hết và trên hết, không phải là cuộc khủng hoảng của con người hiện đại, mà là của đức tin của những người tin rằng Chân lý vĩnh cửu mà Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã mặc khải cho chúng ta, có thể được điều chỉnh theo xu hướng của thời đại.