Sống với Chúa Kitô sẽ thành công chuyện nhân bản (tiếp theo)
4. Cha Karl Golser: Kính thưa Đức Thánh Cha, tên con là Karl Golser, con là giáo sư thần học luân lý tại đây, tại Bressanone này, và cũng là giám đốc Viện Công Lý, Hòa Bình và Bảo Tồn Sáng Thế; con cũng là một kinh sĩ. Con rất vui nhớ lại thời kỳ được làm việc với Đức Thánh Cha tại Thánh Bộ Giáo Thuyết Đức Tin.
Như Đức Thánh Cha biết, Giáo Hội Công Giáo đã một cách sâu sắc tạo ra lịch sử và nền văn hóa của xứ sở chúng con. Tuy nhiên, ngày nay, đôi khi chúng con có cảm tưởng là trong tư cách Giáo Hội, hình như chúng ta đang lui dần vào phòng mặc áo lễ (sacristy). Các tuyên bố của huấn quyền giáo hoàng về các vấn đề xã hội quan trọng không tìm được đáp ứng đúng đắn nơi các giáo xứ và cộng đoàn giáo hội.
Ở đây, ở tại Alto Adige này, chẳng hạn, các thẩm quyền và nhiều hiệp hội đã mạnh mẽ kêu gọi người ta chú ý tới các vấn đề môi sinh, nhất là việc thay đổi khí hậu. Các luận điểm chính yếu là: các đá băng hóa nước, núi non lở đất, các vấn đề chi phí về điện năng, lưu thông, và việc bầu khí quyển ô nhiễm. Hiện có khá nhiều sáng kiến để bảo vệ môi sinh.
Tuy nhiên, trong ý thức trung bình của người Kitô hữu chúng ta, tất cả các vấn đề ấy rất ít liên quan tới đức tin. Ta có thể làm gì để gia tăng cảm thức trách nhiệm đối với sáng thế trong đời sống các cộng đồng Kitô giáo? Ta có thể làm gì để nhìn ra Sáng Thế và Cứu Thế kết hợp gần gũi với nhau hơn? Ta có thể sống lối sống Kitô giáo cách gương mẫu ra sao để nó sống còn lâu dài? Và làm thế nào ta có thể kết hợp lối sống ấy với phẩm tính sự sống khiến nó trở thành hấp dẫn đối với mọi người trên thế giới?
Đức Benedict XVI: Cám ơn cha nhiều, thưa Giáo sư Golser thân mến. Chắc chắn cha có khả năng hơn tôi trong việc giải đáp các câu hỏi này, nhưng tôi cũng xin cố gắng nói đôi điều. Như thế là cha đã đụng tới chủ đề Sáng Thế và Cứu Thế và tôi nghĩ ta nên dành cho mối liên kết không thể hủy tiêu này một chỗ đứng nổi bật mới.
Trong mấy thập niên gần đây, giáo thuyết về Sáng Thế gần như đã biến mất khỏi thần học, nó gần như không còn được ai nhận ra nữa. Ngày nay, ta biết rõ các tác hại do việc biến mất ấy tạo ra. Đấng Cứu Thế cũng là Đấng Sáng Thế và nếu ta không tuyên xưng Thiên Chúa trong vẻ cao cả đầy đủ của Người, vừa là Đấng Sáng Thế vừa là Đấng Cứu Thế, ta cũng sẽ giảm thiểu giá trị của Cứu Thế.
Thực vậy, nếu Thiên Chúa không có vai trò gì trong Sáng Thế, nếu Người bị hạ xuống hàng đồng văn lịch sử, thì làm sao Người thực sự hiểu được toàn bộ cuộc sống ta? Thì làm sao Người có khả năng đem ơn cứu độ lại cho con người trong cái toàn diện của họ và cho thế giới trong cái toàn bộ của nó?
Đối với tôi, đó là lý do tại sao việc canh tân học thuyết về Sáng Thế và việc hiểu biết mới về tính bất phân giữa Sáng Thế và Cứu Thế có tầm hết sức quan trọng. Ta phải nhìn nhận một lần nữa rằng Người là Thần Trí Sáng Thế, là Lý Trí hiện hữu từ nguyên thủy, nhờ Lý Trí ấy muôn vật được sinh ra và lý trí ta chỉ là tia nhỏ phát sinh từ Lý Trí ấy.
Và chính Người, chính Đấng Sáng Thế, đã bước vào và có thể bước vào lịch sử và hành động trong đó, (sở dĩ như thế) chính là bởi vì Người là Thiên Chúa của toàn bộ chứ không phải chỉ của từng phần. Nếu ta nhìn nhận điều ấy, hệ luận hiển nhiên sẽ là Cứu Thế, làm Kitô hữu, (mang) niềm tin Kitô giáo, cũng có nghĩa là nhận trách nhiệm bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào đối với sáng thế.
Hai mươi ba năm trước đây, Kitô hữu bị tố cáo, một tố cáo tôi không rõ hiện còn được duy trì hay không, là phải chịu trách nhiệm đối với việc hủy diệt sáng thế chỉ vì mấy chữ trong sách Sáng Thế: “hãy thống trị mặt đất”, những lời mà người ta cho là đã dẫn tới thái độ ngạo mạn đối với sáng thế mà ngày nay ta đang phải lãnh các hậu quả của thái độ ấy.
Tôi nghĩ ta cần phải học một lần nữa để hiểu lời tố cáo kia trong mọi nét sai lầm của nó: Bao lâu trái đất được quan niệm như sáng thế của Chúa, thì nhiệm vụ “thống trị” nó không bao giờ có nghĩa như một lệnh truyền phải nô lệ hóa nó, nhưng đúng hơn phải là nhiệm vụ làm người trông coi sáng thế và khai triển các quà phúc của nó; nhiệm vụ tích cực cộng tác vào công trình của Chúa, vào sự biến hóa Người vốn xếp đặt trong thế giới, ngõ hầu các quà phúc của sáng thế được trân qúy chứ không bị chà đạp và hủy diệt.
Nếu ta chịu quan sát những điều xẩy ra quanh các đan viện, ở những nơi ấy biết bao tiểu địa đàng, ốc đảo của sáng thế đã và còn đang tiếp tục được sinh hạ, thì điều hiển nhiên là những thực tại ấy đâu phải chỉ là lời lẽ xuông. Đúng hơn, bất kể ở đâu, nếu lời Đấng Sáng Thế được hiểu đúng đắn, thì ở đấy sự sống được sống với Đấng Sáng Thế cứu thế, và con người tìm cách cứu vớt sáng thế chứ không hủy diệt nó.
Chương 8 Thư gửi tín hữu Rôma cũng rất thích hợp trong bối cảnh này. Chương này nói rằng toàn bộ sáng thế đang rên la trong cơn đau đẻ vì cảnh nô lệ nó đang gánh chịu, trong lúc mong chờ ơn mạc khải của con cái Chúa: Nó sẽ thấy mình được giải thoát khi các tạo vật, đàn ông lẫn đàn bà vốn là con cái Thiên Chúa, đối xử với nó theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tôi tin rằng ngày nay ta có thể thiết dựng chính điều đó làm thực tại. Sáng Thế đang rên la, ta nhận ra nó, ta gần như nghe được tiếng nó, và đang mong chờ các hữu thể nhân bản duy trì nó theo kế hoạch Thiên Chúa. Việc tàn nhẫn tiêu thụ sáng thế bắt đầu tại nơi nào Thiên Chúa không hiện diện, nơi chỉ có vật thể [matter] là vật liệu duy nhất đối với chúng ta, nơi chính chúng ta trở thành đòi hỏi tối hậu, nơi cái toàn bộ chỉ còn là sở hữu của ta và ta tiêu thụ nó cho một mình ta mà thôi.
Và việc phí phạm sáng thế bắt đầu khi ta không còn nhìn nhận bất cứ nhu cầu nào cao hơn nhu cầu của ta, mà chỉ thấy chính chúng ta mà thôi. Nó bắt đầu khi không còn quan niệm nào về sự sống sau khi chết nữa, khi ở đời này ta phải nắm được mọi sự và sở hữu được cuộc sống cao độ bao nhiêu có thể, khi ta phải sở hữu được bất cứ điều gì có thể sở hữu được.
Cho nên, tôi nghĩ, các sáng kiến chân thực và hữu hiệu nhằm ngăn ngừa việc phí phạm và hủy diệt sáng thế chỉ có thể được thi hành và khai triển, được hiểu và sống khi nào sáng thế được coi như do Chúa mà có; khi sự sống được coi như bắt đầu với Chúa và có những chiều kích lớn lao hơn, trong trách nhiệm đối với Chúa, và một ngày kia sẽ được Chúa ban cho viên mãn và không bị lấy mất khỏi chúng ta: ta tiếp nhận được sự sống bằng cách trao ban nó đi.
Như thế, tôi tin rằng bằng mọi cách ta phải trình bày đức tin nơi công cộng, nhất là ở những chỗ vốn nhậy cảm đối với nó.
Và tôi nghĩ rằng cái cảm giác cho rằng thế giới đang tuột dốc, vì chính chúng ta đang xua đuổi nó, và cái cảm tưởng bị các vấn đề sáng thế đè nén, thực ra đem lại cho chúng ta cơ hội thích hợp để đức tin của ta có thể lên tiếng công khai và làm cho người ta cảm thấy nó như một sáng kiến đề nghị.
Thực thế, đây không phải chỉ là vấn đề khám phá ra các kỹ thuật học nhằm ngăn ngừa các tác hại, mặc dù, trong nhiều điều cần làm, điều quan trọng vẫn là phải tìm ra các nguồn năng lượng thay thế.
Ấy thế nhưng, không một điều nào như thế đã đủ, ngoại trừ phải tìm cho được lối sống mới, một kỷ luật biết hy sinh, một kỷ luật biết nhìn nhận người khác, những người mà sáng thế vốn thuộc về chẳng kém gì thuộc về ta, những người rất có thể biết cách sử dụng nó cách dễ dàng hơn nhiều; một kỷ luật biết nhận trách nhiệm liên quan đến tương lai người khác và tương lai của chính chúng ta, vì nó là trách nhiệm dưới con mắt của Đấng vốn là Quan Tòa của ta và trong tư cách ấy cũng là Đấng Cứu Thế, nhưng quả Người cũng là Quan Tòa của ta.
Thành thử ra, tôi nghĩ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hai chiều kích kia, chiều kích Sáng Thế và chiều kích Cứu Thế, cuộc sống trần thế và cuộc sống đời đời, trách nhiệm đối với sáng thế và trách nhiệm đối với người khác và đối với tương lai, nên được đặt kề nhau. Tôi cũng nghĩ: nhiệm vụ của chúng ta là phải can thiệp rõ ràng và một cách đầy quyết tâm vào ý kiến công chúng. Để họ lắng nghe, ta phải cùng một lúc dùng gương sáng và lối sống của mình mà chứng tỏ rằng chúng ta đang nói về một sứ điệp mà chính chúng ta tin tưởng và người ta có thể sống theo được.
Và chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta biết sống thực đức tin và trách nhiệm đức tin của mình một cách thế nào đấy cho lối sống của ta trở nên chứng tá; và sau đó biết nói sao đó để việc làm của chúng ta có thể chuyên chở được đức tin làm phương hướng cho thời đại mình.
5. Cha Franz Pixner, quản hạt Kastelruth: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là Franz Pixner và con là mục tử của hai giáo xứ lớn. Con cũng như nhiều đồng nghiệp và giáo dân rất quan tâm đến gánh nặng ngày một gia tăng phải chăm sóc mục vụ do các đơn vị mục vụ đang được tạo ra gây nên: áp lực nặng nề của công việc, thiếu được thừa nhận, nhiều khó khăn liên quan đến Huấn Quyền, cô đơn lẻ loi, con số linh mục giảm đi và cả con số các cộng đoàn tín hữu nữa. Nhiều người thắc mắc Chúa đang đòi hỏi gì nơi chúng con trong hoàn cảnh này và Chúa Thánh Thần muốn khích lệ chúng con ra sao?
Trong bối cảnh ấy, nẩy sinh các vấn nạn liên quan tới các việc như độc thân của linh mục, việc phong chức linh mục những người đã có gia đình (viri probati), việc can dự của các đặc sủng, nhất là các đặc sủng của nữ giới, vào việc chăm sóc mục vụ, biến những người đàn ông và đàn bà thành các cộng tác viên được huấn luyện về thần học đủ để chịu trách nhiệm cử hành Phép Rửa và giảng lời Chúa.
Câu hỏi cũng được đặt ra là linh mục chúng con, khi đối đầu với các thách đố mới, có thể giúp đỡ nhau ra sao trong một cộng đồng huynh đệ, ở nhiều bình diện khác nhau của giáo phận, trong hàng ngũ phó tế và đơn vị mục vụ và giáo xứ.
Kính thưa Đức Thánh Cha, chúng con xin Đức Thánh Cha cho chúng con ý kiến tốt đẹp về tất cả các vấn đề ấy. Chúng con cám ơn Đức Thánh Cha!
Đức Benedict XVI: Thưa cha quản hạt, cha đã mở ra một loạt các câu hỏi hiện đang làm các mục tử và mọi người chúng ta bận tâm và quan tâm, và chắc cha biết là ở đây, tôi không thể trả lời mọi câu hỏi ấy được. Tôi tưởng tượng rằng cha sẽ có nhiều dịp để cùng với đức giám mục của cha xem sét chúng và chúng tôi, chúng tôi sẽ đề cập đến chúng trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều cần cuộc đối thoại này với nhau, cuộc đối thoại về đức tin và trách nhiệm, để tìm thấy nẻo đường hẹp thẳng tắp trong thời đại này, đầy những viễn ảnh khó khăn của đức tin và trách nhiệm đối với linh mục. Không một ai có được thứ thực đơn ăn liền, tất cả chúng ta phải cùng nhau tìm ra. Với sự dè dặt ấy, tôi thấy mình đang cùng tất cả qúy vị đứng giữa diễn trình lao nhọc và chiến đấu lao đao nội tâm này, tôi sẽ cố gắng nói ít điều, chỉ như một phần của cuộc đối thoại rộng lớn hơn mà thôi.
Để trả lời, tôi muốn khảo sát hai khía cạnh căn bản: một đàng, là việc không thể thay thế các linh mục, ý nghĩa và phương cách của thừa tác vụ linh mục ngày nay; đàng khác, và điều này nay càng hiển nhiên hơn bao giờ hết, đó là tính đa dạng của các đặc sủng và sự kiện này nữa tất cả các đặc sủng ấy cùng nhau đều là Giáo Hội cả, chúng xây đắp nên Giáo Hội và vì thế, ta phải ráng làm sống dậy các đặc sủng. Ta phải cổ vũ cái toàn bộ sống động này là cái toàn bộ đến lượt nó cũng sẽ hỗ trợ vị linh mục. Ngài hỗ trợ người khác, người khác hỗ trợ ngài và chỉ trong cái toàn bộ phức tạp và đa dạng này, Giáo Hội mới có thể phát triển trong lúc này và hướng về tương lai.
Đàng khác, ta luôn luôn cần có linh mục, một người hiến toàn thân cho Chúa và do đó hiến toàn thân cho nhân loại. Trong Cựu Ước, có lời kêu gọi ‘thánh hóa’, một lời kêu gọi tương ứng với điều nay ta gọi là ‘tận hiến’ (consecration) hay ngay cả ‘thụ phong linh mục’: một điều gì đó được dành riêng ra cho Thiên Chúa và do đó được tách ra khỏi lãnh vực thông thường, một điều gì đó được dâng cho Chúa. Ấy thế nhưng, điều ấy ngày nay lại có nghĩa: nó sẵn sàng có đó cho mọi người.
Vì nó được tách ra và dâng lên cho Chúa, nên chính vì lẽ đó, nay nó không còn bị cô lập vì đã được nâng từ “cho” lên “cho mọi người”. Tôi nghĩ ta có thể nói cùng một điều ấy về chức linh mục của Giáo Hội. Một đàng chức linh mục ấy có nghĩa là chúng ta được ký thác cho Chúa, tách biệt khỏi cuộc sống tầm thường, nhưng mặt khác, ta được ký thác cho Người vì bằng cách đó ta có thể thuộc trọn về Người và thuộc trọn về người khác.
Tôi tin chúng ta phải liên tục tìm cách chứng tỏ điều ấy cho giới trẻ, cho những nhà lý tưởng nào muốn làm một cái gì đó cho toàn bộ, chứng tỏ cho họ thấy chính việc “được tách ra khỏi cái thông thường” có nghĩa là để “ký thác cho cái toàn bộ” và đó là cách quan trọng, cách quan trọng nhất, để phục vụ anh em mình.
Hơn nữa, một phần của việc ấy thực sự làm ta trở nên sẵn sàng có đó cho Chúa trong cái viên mãn của hữu thể mình và do đó, thấy mình hoàn toàn sẵn sàng có đó cho mọi người. Tôi nghĩ việc độc thân từ căn bản diễn tả chính tính toàn diện ấy và vì thế, là một quy chiếu quan trọng trên thế gian này vì nó chỉ có nghĩa nếu ta thực sự tin vào cuộc sống trường sinh và nếu ta tin thật rằng Thiên Chúa cần có ta và ta có thể thuộc về Người.
Cho nên, chức linh mục là tối cần thiết vì Giáo Hội đã được xây dựng trong chính Phép Thánh Thể, một phép từ Chúa phát sinh ra; trong Bí Tích Thống Hối, ta được trao ban sự thanh tẩy; trong Bí Tích, chức linh mục đúng là một can dự vào cái “cho” (for) của Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, tôi biết việc đó ngày nay rất khó, khi một linh mục thấy mình phải điều khiển không những một giáo xứ dễ quản trị mà là nhiều giáo xứ và đơn vị mục vụ; khi ngài phải sẵn sàng có đó để đưa ra ý kiến này hay ý kiến nọ, v.v…sống cuộc sống như thế khó khăn xiết bao. Tôi tin rằng trong hoàn cảnh như thế, điều quan trọng là phải có can đảm tự giới hạn mình và phải rõ rệt xác định ra các ưu tiên.
Ưu tiên nền tảng của đời sống linh mục là ở với Chúa và như thế phải có thì giờ để cầu nguyện. Thánh Charles Borromeo luôn hay nói: “Bạn sẽ không thể chăm sóc linh hồn người khác nếu bạn để cho chính linh hồn bạn phải hư đi.Cuối cùng, bạn cũng chả làm được bất cứ việc gì cho người khác. Bạn phải luôn dành thì giờ ở với Chúa”.
Cho nên, tôi muốn nhấn mạnh điều này: dù bất cứ yêu cầu nào xuất hiện, ưu tiên thực sự là mỗi ngày, tôi dám nói thế, phải tìm ra một giờ để im lặng dành cho Chúa và ở với Chúa, như Giáo Hội khuyên ta phải đọc sách nguyện, với kinh nguyện hàng ngày, ngõ hầu ta liên tục phong phú hóa chính ta từ bên trong, và, như tôi đã nói khi trả lời câu hỏi thứ nhất, có thể trở vào trong tầm tới của hơi thở Chúa Thánh Thần. Và để sắp xếp ưu tiên trên căn bản này: tôi phải học biết nhận ra điều gì thực sự chính yếu, nơi mà sự hiện diện trong tư cách linh mục của tôi là tối thiết không thể miễn chước được và là nơi tôi không thể ủy trách nhiệm cho bất cứ ai khác. Và đồng thời, tôi phải khiêm nhường chấp nhận có những lúc có nhiều việc tôi nên làm và đòi sự hiện diện của tôi nhưng tôi không làm sao xoay sở được vì tôi biết các giới hạn của mình. Tôi nghĩ ai cũng hiểu sự khiêm nhường này.
Và giờ đây, tôi phải liên kết một khía cạnh nữa vào đó: là phải biết cách ủy quyền, biết cách làm cho người khác hợp tác với mình. Tôi có cảm tưởng người ta sẵn sàng hiểu và biết lượng giá điều ấy khi một linh mục ở với Chúa, khi ngài quan tâm đến chức vụ mình là người cầu nguyện cho người khác: họ sẽ nói “chúng con không thể cầu nguyện nhiều như thế được, cha phải cầu nguyện cho chúng con: xét trong căn bản, đó là việc của cha, vì việc của cha là làm người cầu nguyện cho chúng con”.
Họ muốn có một vị linh mục thực tâm cố gắng sống với Chúa và rồi sẵn sàng có đó (available) cho mọi người, người đau khổ, người ốm đau, trẻ em, người trẻ (tôi dám nói họ là các ưu tiên của ta), và là người biết phân biệt được những việc người khác có thể làm tốt hơn ngài, cho nên ngài phải sẵn sàng dành chỗ cho những tài năng ấy.
Tôi nghĩ tới các Phong Trào và rất nhiều hình thức cộng tác trong giáo xứ. Ước chi tất cả những việc ấy đều được phản ảnh trên bình diện giáo phận, nên tạo ra các hình thức cộng tác mới và khích lệ các trao đổi hỗ tương.
Cha nói rất đúng rằng về điểm này, điều quan trọng là phải biết nhìn quá giáo xứ tới cộng đồng giáo phận, và thực ra, còn tới cả cộng đồng Giáo Hội phổ quát nữa. Đến lượt mình, Giáo hội phổ quát này phải hướng tầm nhìn của mình để nhận ra những gì đang xẩy ra cho giáo xứ và hậu quả nào xẩy tới cho cá nhân linh mục.
Rồi cha còn đề cập tới một điểm nữa, theo tôi rất quan trọng: các linh mục, ngay cả lúc sống cách biệt nhau vẫn là một cộng đoàn huynh đệ thực sự, một cộng đoàn yểm trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Để đừng rơi vào cô lập, vào cô đơn với những sầu buồn của nó, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thường xuyên gặp gỡ nhau.
Giáo phận phải có trách nhiệm lập ra phương cách tổ chức tốt nhất các buổi gặp gỡ của các linh mục, ngày nay chúng ta có xe hơi nên việc đi lại dễ dàng hơn nhiều, để cảm nghiệm có nhau mãi mãi được tươi mới, học hỏi lẫn nhau, sửa chữa cho nhau và giúp đỡ nhau, động viên nhau và khích lệ nhau ngõ hầu trong sự hiệp thông của hàng ngũ linh mục này, cùng với vị giám mục, chúng ta có thể tiến hành được việc phục vụ giáo hội địa phương. Chính là điểm này: không linh mục nào là linh mục một mình được; chúng ta là hàng ngũ linh mục và chỉ trong hiệp thông với giám mục này, mỗi người mới có thể tiến hành việc phục vụ của mình được.
Bây giờ, sự hiệp thông đẹp đẽ vốn được mọi người nhìn nhận trên bình diện thần học này, cũng phải được phát biểu ra bằng hành động theo cách thế được giáo hội địa phương nhận diện ra, và sự hiệp thông đó cần được mở rộng vì không một vị giám mục nào là giám mục một mình nhưng là một giám mục trong đoàn giám mục (college), trong hiệp thông vĩ đại các giám mục khắp nơi. Đó là sự hiệp thông ta luôn phải ráng đạt tới.
Và tôi nghĩ: đây là khía cạnh đẹp đẽ một cách đặc biệt của Đạo Công Giáo: nhờ tính Tối Thượng (Primacy), vốn không phải là một thứ quân quyền tuyệt đối mà là một phục vụ cho hiệp thông, chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hiệp nhất kia. Như thế, trong một cộng đồng rộng lớn có nhiều tiếng nói, tất cả chúng ta cùng nhau tạo nên bản nhạc đức tin vĩ đại vang vang khắp mặt địa cầu.
Ta hãy cầu xin Chúa khích lệ chúng ta khi chúng ta nghĩ mình không thể xoay sở hơn nữa: chúng ta hãy nâng đỡ nhau, rồi Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau tìm ra nẻo đường đi đúng đắn.
6. Cha Paolo Rizzi, cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo. Chúng con muốn được nghe ý kiến mục vụ của Đức Thánh Cha về hoàn cảnh liên quan đến các Bí Tích Rước Lễ Lần Đầu và Thêm Sức. Luôn có hiện tượng ngày càng có nhiều trẻ em, cả trai lẫn gái, lúc dọn mình lãnh nhận hai Bí Tích này thì cam kết dự các buổi giáo lý nhưng không chịu tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, nên có người đã thắc mắc: làm thế có ích lợi gì? Đôi lúc chúng con muốn bảo họ: “Thà cứ ở nhà còn hơn”.
Tuy nhiên, chúng con vẫn tiếp tục tiếp nhận họ như bao giờ hết, vì tin rằng dù sao cũng tốt hơn là dập tắt cái bấc vẫn còn đang leo lét kia. Nghĩa là chúng con tin rằng dù sao ơn Chúa Thánh Thần vẫn có thể gây hiệu quả quá điều chúng con có thể thấy và trong một thời đại có tính chuyển tiếp như thế này, khôn ngoan nhất là đừng đưa ra những quyết định có tính quyết liệt.
Nói tổng quát hơn, cách nay 35 năm, con nghĩ rằng chúng ta đang bắt đầu trở thành một đoàn chiên nhỏ, một cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở khắp nơi tại Âu Châu; bởi thế, chúng ta chỉ nên ban các bí tích cho những ai thực sự cam kết sống cuộc sống Kitô hữu mà thôi. Nhưng rồi, một phần nhờ phong cách của Triều Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, con lại đã có suy nghĩ khác. Nếu có thể tiên đoán được tương lai, Đức Thánh Cha sẽ nghĩ sao? Đức Thánh Cha sẽ gợi ý cho chúng con các phương thức mục vụ nào? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.
Đức Benedict XVI: Đồng ý, (nhưng) ở đây tôi không thể đưa ra được câu trả lời hoàn toàn đúng, tôi chỉ ráng trả lời theo cái nhìn của tôi thôi. Tôi phải nói ngay: tôi cũng theo một lối tương tự như của cha.
Khi còn trẻ, tôi khá nghiêm khắc. Tôi bảo: bí tích là bí tích đức tin, nên ở đâu không có đức tin, không có việc thực hành đức tin, thì không thể ban Bí Tích được.
Và rồi, khi đã làm tổng giám mục Munich, tôi thường nói với cha xứ của tôi: cả ở đây nữa vẫn có hai phe, một phe nghiêm khắc và một phe cởi mở. Rồi với thời gian, tôi mới hiểu ra rằng đúng hơn ta phải theo gương Chúa chúng ta, Đấng luôn luôn cởi mở cả với những người ở bên lề xã hội Israel lúc ấy. Người là Chúa của cảm thương, và, theo nhận định của nhiều thẩm quyền chính thức, Người cũng cởi mở cả với người tội lỗi nữa, chào đón họ và để họ mời mình dùng bữa, lôi kéo họ vào hiệp thông với mình.
Cho nên, tôi muốn nói một cách chắc chắn rằng các bí tích đương nhiên là các bí tích đức tin: khi không có tí yếu tố đức tin nào, khi Rước Lễ Lần Đầu chỉ là bữa ăn trưa thịnh soạn không hơn không kém, với quần áo đẹp và quà tặng hậu hĩnh, thì nó không còn là bí tích đức tin nữa.
Ấy thế nhưng, mặt khác, nếu ta vẫn còn nhận ra một đốm lửa nhỏ nào đó, muốn được rước lễ trong đức tin, một ý muốn ngay nơi trẻ em, muốn được bước vào hiệp thông với Chúa Giêsu, thì với tôi, xem ra ta phải có thái độ cởi mở mới đúng.
Lẽ dĩ nhiên, một mục đích trong giáo lý của ta là giúp trẻ em hiểu rằng Rước Lễ, Rước Lễ Lần Đầu không phải là một biến cố “cố định”, nhưng đòi có sự liên tục trong tình bạn với Chúa Giêsu, đòi phải cùng đồng hành với Chúa Giêsu. Tôi biết: trẻ em thường có ý định và ước muốn được đi Lễ Chúa Nhật nhưng chính cha mẹ các em đã không giúp làm cho ước muốn ấy có thể thực hiện được.
Nếu ta thấy trẻ em muốn điều ấy, muốn đi lễ, thì với tôi điều ấy gần như đã là bí tích bằng ước muốn rồi, là “ý chí” muốn tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Theo nghĩa này, lẽ đương nhiên, trong bối cảnh chuẩn bị lãnh nhận bí tích, ta phải làm hết cách để bắt tay với cả cha mẹ các em nữa, và như thế, có thể nói, ta đã đánh thức trong họ sự nhậy cảm đối với diễn trình mà con em họ đang can dự vào.
Họ nên giúp con cái họ để chúng tuân theo ý muốn riêng của chúng mà bước vào tình bạn với Chúa Giêsu. Tình bạn này vốn là một hình thức sống, một dạng thái tương lai. Nếu cha mẹ muốn con cái mình có khả năng Rước Lễ Lần Đầu, thì ý muốn nặng tính xã hội này có thể phát triển thành ý muốn có tính tôn giáo, giúp cho cuộc đồng hành với Chúa Giêsu trở nên có thể thực hiện được.
Cho nên, tôi muốn nói rằng trong bối cảnh dạy giáo lý cho trẻ em, công tác với cha mẹ các em là điều hết sức quan trọng. Và chính đây là một trong các dịp may để tiếp xúc với các cha mẹ, làm cho đời sống đức cũng hiện hữu đối với người trưởng thành, vì, theo tôi, cả họ nữa, họ cũng có thể nhờ con cái mà học tập lại đức tin và hiểu được rằng dịp long trọng này chỉ có nghĩa, chỉ đúng đắn và xác thực nếu được cử hành trong bối cảnh đồng hành với Chúa Giêsu, trong bối cảnh đời sống đức tin mà thôi.
Như thế, ta nên ráng, qua các trẻ em, mà thuyết phục các cha mẹ xác tín được nhu cầu phải có cuộc hành trình chuẩn bị, một cuộc hành trình được diễn tả qua việc tham dự vào các mầu nhiệm, một hành trình bắt đầu bằng việc làm cho các mầu nhiệm này được yêu mến.
Tôi muốn nói: chắc chắn đây không phải là lời giải đáp hoàn toàn thỏa đáng, nhưng sư phạm đức tin luôn là một hành trình và ta phải chấp nhận hoàn cảnh thời nay. Ấy thế nhưng, ta cũng phải mở rộng những hoàn cảnh ấy tới từng con người nhiều hơn, để kết quả lâu dài không phải chỉ là ký ức bề ngoài về sự vật mà lòng các em được thực sự đánh động.
Giây phút ta xác tín được là trái tim đã được đánh động, lúc nó cảm nhận được chút ít tình yêu Chúa Giêsu, cảm nhận được chút ít ý muốn được tiến bước trên các ngả đường của hướng đi này, thì đó là giây phút, theo tôi, ta có thể nói được rằng ta đã thực hiện được bài giáo lý đúng nghĩa. Thực vậy, ý nghĩa đúng đắn của giáo lý phải như thế này: đem ngọn lửa tình yêu của Chúa Giêsu, dù hết sức leo lét, đến với tâm hồn trẻ em, và qua các em tới cha mẹ chúng, nhờ thế mà mở lại được nhiều ngả đức tin cho thời đại ta.
Theo bản tiếng Anh của tờ L’Osservatore Romano 13-20 tháng Tám 2008
4. Cha Karl Golser: Kính thưa Đức Thánh Cha, tên con là Karl Golser, con là giáo sư thần học luân lý tại đây, tại Bressanone này, và cũng là giám đốc Viện Công Lý, Hòa Bình và Bảo Tồn Sáng Thế; con cũng là một kinh sĩ. Con rất vui nhớ lại thời kỳ được làm việc với Đức Thánh Cha tại Thánh Bộ Giáo Thuyết Đức Tin.
Như Đức Thánh Cha biết, Giáo Hội Công Giáo đã một cách sâu sắc tạo ra lịch sử và nền văn hóa của xứ sở chúng con. Tuy nhiên, ngày nay, đôi khi chúng con có cảm tưởng là trong tư cách Giáo Hội, hình như chúng ta đang lui dần vào phòng mặc áo lễ (sacristy). Các tuyên bố của huấn quyền giáo hoàng về các vấn đề xã hội quan trọng không tìm được đáp ứng đúng đắn nơi các giáo xứ và cộng đoàn giáo hội.
Ở đây, ở tại Alto Adige này, chẳng hạn, các thẩm quyền và nhiều hiệp hội đã mạnh mẽ kêu gọi người ta chú ý tới các vấn đề môi sinh, nhất là việc thay đổi khí hậu. Các luận điểm chính yếu là: các đá băng hóa nước, núi non lở đất, các vấn đề chi phí về điện năng, lưu thông, và việc bầu khí quyển ô nhiễm. Hiện có khá nhiều sáng kiến để bảo vệ môi sinh.
Tuy nhiên, trong ý thức trung bình của người Kitô hữu chúng ta, tất cả các vấn đề ấy rất ít liên quan tới đức tin. Ta có thể làm gì để gia tăng cảm thức trách nhiệm đối với sáng thế trong đời sống các cộng đồng Kitô giáo? Ta có thể làm gì để nhìn ra Sáng Thế và Cứu Thế kết hợp gần gũi với nhau hơn? Ta có thể sống lối sống Kitô giáo cách gương mẫu ra sao để nó sống còn lâu dài? Và làm thế nào ta có thể kết hợp lối sống ấy với phẩm tính sự sống khiến nó trở thành hấp dẫn đối với mọi người trên thế giới?
Đức Benedict XVI: Cám ơn cha nhiều, thưa Giáo sư Golser thân mến. Chắc chắn cha có khả năng hơn tôi trong việc giải đáp các câu hỏi này, nhưng tôi cũng xin cố gắng nói đôi điều. Như thế là cha đã đụng tới chủ đề Sáng Thế và Cứu Thế và tôi nghĩ ta nên dành cho mối liên kết không thể hủy tiêu này một chỗ đứng nổi bật mới.
Trong mấy thập niên gần đây, giáo thuyết về Sáng Thế gần như đã biến mất khỏi thần học, nó gần như không còn được ai nhận ra nữa. Ngày nay, ta biết rõ các tác hại do việc biến mất ấy tạo ra. Đấng Cứu Thế cũng là Đấng Sáng Thế và nếu ta không tuyên xưng Thiên Chúa trong vẻ cao cả đầy đủ của Người, vừa là Đấng Sáng Thế vừa là Đấng Cứu Thế, ta cũng sẽ giảm thiểu giá trị của Cứu Thế.
Thực vậy, nếu Thiên Chúa không có vai trò gì trong Sáng Thế, nếu Người bị hạ xuống hàng đồng văn lịch sử, thì làm sao Người thực sự hiểu được toàn bộ cuộc sống ta? Thì làm sao Người có khả năng đem ơn cứu độ lại cho con người trong cái toàn diện của họ và cho thế giới trong cái toàn bộ của nó?
Đối với tôi, đó là lý do tại sao việc canh tân học thuyết về Sáng Thế và việc hiểu biết mới về tính bất phân giữa Sáng Thế và Cứu Thế có tầm hết sức quan trọng. Ta phải nhìn nhận một lần nữa rằng Người là Thần Trí Sáng Thế, là Lý Trí hiện hữu từ nguyên thủy, nhờ Lý Trí ấy muôn vật được sinh ra và lý trí ta chỉ là tia nhỏ phát sinh từ Lý Trí ấy.
Và chính Người, chính Đấng Sáng Thế, đã bước vào và có thể bước vào lịch sử và hành động trong đó, (sở dĩ như thế) chính là bởi vì Người là Thiên Chúa của toàn bộ chứ không phải chỉ của từng phần. Nếu ta nhìn nhận điều ấy, hệ luận hiển nhiên sẽ là Cứu Thế, làm Kitô hữu, (mang) niềm tin Kitô giáo, cũng có nghĩa là nhận trách nhiệm bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào đối với sáng thế.
Hai mươi ba năm trước đây, Kitô hữu bị tố cáo, một tố cáo tôi không rõ hiện còn được duy trì hay không, là phải chịu trách nhiệm đối với việc hủy diệt sáng thế chỉ vì mấy chữ trong sách Sáng Thế: “hãy thống trị mặt đất”, những lời mà người ta cho là đã dẫn tới thái độ ngạo mạn đối với sáng thế mà ngày nay ta đang phải lãnh các hậu quả của thái độ ấy.
Tôi nghĩ ta cần phải học một lần nữa để hiểu lời tố cáo kia trong mọi nét sai lầm của nó: Bao lâu trái đất được quan niệm như sáng thế của Chúa, thì nhiệm vụ “thống trị” nó không bao giờ có nghĩa như một lệnh truyền phải nô lệ hóa nó, nhưng đúng hơn phải là nhiệm vụ làm người trông coi sáng thế và khai triển các quà phúc của nó; nhiệm vụ tích cực cộng tác vào công trình của Chúa, vào sự biến hóa Người vốn xếp đặt trong thế giới, ngõ hầu các quà phúc của sáng thế được trân qúy chứ không bị chà đạp và hủy diệt.
Nếu ta chịu quan sát những điều xẩy ra quanh các đan viện, ở những nơi ấy biết bao tiểu địa đàng, ốc đảo của sáng thế đã và còn đang tiếp tục được sinh hạ, thì điều hiển nhiên là những thực tại ấy đâu phải chỉ là lời lẽ xuông. Đúng hơn, bất kể ở đâu, nếu lời Đấng Sáng Thế được hiểu đúng đắn, thì ở đấy sự sống được sống với Đấng Sáng Thế cứu thế, và con người tìm cách cứu vớt sáng thế chứ không hủy diệt nó.
Chương 8 Thư gửi tín hữu Rôma cũng rất thích hợp trong bối cảnh này. Chương này nói rằng toàn bộ sáng thế đang rên la trong cơn đau đẻ vì cảnh nô lệ nó đang gánh chịu, trong lúc mong chờ ơn mạc khải của con cái Chúa: Nó sẽ thấy mình được giải thoát khi các tạo vật, đàn ông lẫn đàn bà vốn là con cái Thiên Chúa, đối xử với nó theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tôi tin rằng ngày nay ta có thể thiết dựng chính điều đó làm thực tại. Sáng Thế đang rên la, ta nhận ra nó, ta gần như nghe được tiếng nó, và đang mong chờ các hữu thể nhân bản duy trì nó theo kế hoạch Thiên Chúa. Việc tàn nhẫn tiêu thụ sáng thế bắt đầu tại nơi nào Thiên Chúa không hiện diện, nơi chỉ có vật thể [matter] là vật liệu duy nhất đối với chúng ta, nơi chính chúng ta trở thành đòi hỏi tối hậu, nơi cái toàn bộ chỉ còn là sở hữu của ta và ta tiêu thụ nó cho một mình ta mà thôi.
Và việc phí phạm sáng thế bắt đầu khi ta không còn nhìn nhận bất cứ nhu cầu nào cao hơn nhu cầu của ta, mà chỉ thấy chính chúng ta mà thôi. Nó bắt đầu khi không còn quan niệm nào về sự sống sau khi chết nữa, khi ở đời này ta phải nắm được mọi sự và sở hữu được cuộc sống cao độ bao nhiêu có thể, khi ta phải sở hữu được bất cứ điều gì có thể sở hữu được.
Cho nên, tôi nghĩ, các sáng kiến chân thực và hữu hiệu nhằm ngăn ngừa việc phí phạm và hủy diệt sáng thế chỉ có thể được thi hành và khai triển, được hiểu và sống khi nào sáng thế được coi như do Chúa mà có; khi sự sống được coi như bắt đầu với Chúa và có những chiều kích lớn lao hơn, trong trách nhiệm đối với Chúa, và một ngày kia sẽ được Chúa ban cho viên mãn và không bị lấy mất khỏi chúng ta: ta tiếp nhận được sự sống bằng cách trao ban nó đi.
Như thế, tôi tin rằng bằng mọi cách ta phải trình bày đức tin nơi công cộng, nhất là ở những chỗ vốn nhậy cảm đối với nó.
Và tôi nghĩ rằng cái cảm giác cho rằng thế giới đang tuột dốc, vì chính chúng ta đang xua đuổi nó, và cái cảm tưởng bị các vấn đề sáng thế đè nén, thực ra đem lại cho chúng ta cơ hội thích hợp để đức tin của ta có thể lên tiếng công khai và làm cho người ta cảm thấy nó như một sáng kiến đề nghị.
Thực thế, đây không phải chỉ là vấn đề khám phá ra các kỹ thuật học nhằm ngăn ngừa các tác hại, mặc dù, trong nhiều điều cần làm, điều quan trọng vẫn là phải tìm ra các nguồn năng lượng thay thế.
Ấy thế nhưng, không một điều nào như thế đã đủ, ngoại trừ phải tìm cho được lối sống mới, một kỷ luật biết hy sinh, một kỷ luật biết nhìn nhận người khác, những người mà sáng thế vốn thuộc về chẳng kém gì thuộc về ta, những người rất có thể biết cách sử dụng nó cách dễ dàng hơn nhiều; một kỷ luật biết nhận trách nhiệm liên quan đến tương lai người khác và tương lai của chính chúng ta, vì nó là trách nhiệm dưới con mắt của Đấng vốn là Quan Tòa của ta và trong tư cách ấy cũng là Đấng Cứu Thế, nhưng quả Người cũng là Quan Tòa của ta.
Thành thử ra, tôi nghĩ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hai chiều kích kia, chiều kích Sáng Thế và chiều kích Cứu Thế, cuộc sống trần thế và cuộc sống đời đời, trách nhiệm đối với sáng thế và trách nhiệm đối với người khác và đối với tương lai, nên được đặt kề nhau. Tôi cũng nghĩ: nhiệm vụ của chúng ta là phải can thiệp rõ ràng và một cách đầy quyết tâm vào ý kiến công chúng. Để họ lắng nghe, ta phải cùng một lúc dùng gương sáng và lối sống của mình mà chứng tỏ rằng chúng ta đang nói về một sứ điệp mà chính chúng ta tin tưởng và người ta có thể sống theo được.
Và chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp tất cả chúng ta biết sống thực đức tin và trách nhiệm đức tin của mình một cách thế nào đấy cho lối sống của ta trở nên chứng tá; và sau đó biết nói sao đó để việc làm của chúng ta có thể chuyên chở được đức tin làm phương hướng cho thời đại mình.
5. Cha Franz Pixner, quản hạt Kastelruth: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là Franz Pixner và con là mục tử của hai giáo xứ lớn. Con cũng như nhiều đồng nghiệp và giáo dân rất quan tâm đến gánh nặng ngày một gia tăng phải chăm sóc mục vụ do các đơn vị mục vụ đang được tạo ra gây nên: áp lực nặng nề của công việc, thiếu được thừa nhận, nhiều khó khăn liên quan đến Huấn Quyền, cô đơn lẻ loi, con số linh mục giảm đi và cả con số các cộng đoàn tín hữu nữa. Nhiều người thắc mắc Chúa đang đòi hỏi gì nơi chúng con trong hoàn cảnh này và Chúa Thánh Thần muốn khích lệ chúng con ra sao?
Trong bối cảnh ấy, nẩy sinh các vấn nạn liên quan tới các việc như độc thân của linh mục, việc phong chức linh mục những người đã có gia đình (viri probati), việc can dự của các đặc sủng, nhất là các đặc sủng của nữ giới, vào việc chăm sóc mục vụ, biến những người đàn ông và đàn bà thành các cộng tác viên được huấn luyện về thần học đủ để chịu trách nhiệm cử hành Phép Rửa và giảng lời Chúa.
Câu hỏi cũng được đặt ra là linh mục chúng con, khi đối đầu với các thách đố mới, có thể giúp đỡ nhau ra sao trong một cộng đồng huynh đệ, ở nhiều bình diện khác nhau của giáo phận, trong hàng ngũ phó tế và đơn vị mục vụ và giáo xứ.
Kính thưa Đức Thánh Cha, chúng con xin Đức Thánh Cha cho chúng con ý kiến tốt đẹp về tất cả các vấn đề ấy. Chúng con cám ơn Đức Thánh Cha!
Đức Benedict XVI: Thưa cha quản hạt, cha đã mở ra một loạt các câu hỏi hiện đang làm các mục tử và mọi người chúng ta bận tâm và quan tâm, và chắc cha biết là ở đây, tôi không thể trả lời mọi câu hỏi ấy được. Tôi tưởng tượng rằng cha sẽ có nhiều dịp để cùng với đức giám mục của cha xem sét chúng và chúng tôi, chúng tôi sẽ đề cập đến chúng trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều cần cuộc đối thoại này với nhau, cuộc đối thoại về đức tin và trách nhiệm, để tìm thấy nẻo đường hẹp thẳng tắp trong thời đại này, đầy những viễn ảnh khó khăn của đức tin và trách nhiệm đối với linh mục. Không một ai có được thứ thực đơn ăn liền, tất cả chúng ta phải cùng nhau tìm ra. Với sự dè dặt ấy, tôi thấy mình đang cùng tất cả qúy vị đứng giữa diễn trình lao nhọc và chiến đấu lao đao nội tâm này, tôi sẽ cố gắng nói ít điều, chỉ như một phần của cuộc đối thoại rộng lớn hơn mà thôi.
Để trả lời, tôi muốn khảo sát hai khía cạnh căn bản: một đàng, là việc không thể thay thế các linh mục, ý nghĩa và phương cách của thừa tác vụ linh mục ngày nay; đàng khác, và điều này nay càng hiển nhiên hơn bao giờ hết, đó là tính đa dạng của các đặc sủng và sự kiện này nữa tất cả các đặc sủng ấy cùng nhau đều là Giáo Hội cả, chúng xây đắp nên Giáo Hội và vì thế, ta phải ráng làm sống dậy các đặc sủng. Ta phải cổ vũ cái toàn bộ sống động này là cái toàn bộ đến lượt nó cũng sẽ hỗ trợ vị linh mục. Ngài hỗ trợ người khác, người khác hỗ trợ ngài và chỉ trong cái toàn bộ phức tạp và đa dạng này, Giáo Hội mới có thể phát triển trong lúc này và hướng về tương lai.
Đàng khác, ta luôn luôn cần có linh mục, một người hiến toàn thân cho Chúa và do đó hiến toàn thân cho nhân loại. Trong Cựu Ước, có lời kêu gọi ‘thánh hóa’, một lời kêu gọi tương ứng với điều nay ta gọi là ‘tận hiến’ (consecration) hay ngay cả ‘thụ phong linh mục’: một điều gì đó được dành riêng ra cho Thiên Chúa và do đó được tách ra khỏi lãnh vực thông thường, một điều gì đó được dâng cho Chúa. Ấy thế nhưng, điều ấy ngày nay lại có nghĩa: nó sẵn sàng có đó cho mọi người.
Vì nó được tách ra và dâng lên cho Chúa, nên chính vì lẽ đó, nay nó không còn bị cô lập vì đã được nâng từ “cho” lên “cho mọi người”. Tôi nghĩ ta có thể nói cùng một điều ấy về chức linh mục của Giáo Hội. Một đàng chức linh mục ấy có nghĩa là chúng ta được ký thác cho Chúa, tách biệt khỏi cuộc sống tầm thường, nhưng mặt khác, ta được ký thác cho Người vì bằng cách đó ta có thể thuộc trọn về Người và thuộc trọn về người khác.
Tôi tin chúng ta phải liên tục tìm cách chứng tỏ điều ấy cho giới trẻ, cho những nhà lý tưởng nào muốn làm một cái gì đó cho toàn bộ, chứng tỏ cho họ thấy chính việc “được tách ra khỏi cái thông thường” có nghĩa là để “ký thác cho cái toàn bộ” và đó là cách quan trọng, cách quan trọng nhất, để phục vụ anh em mình.
Hơn nữa, một phần của việc ấy thực sự làm ta trở nên sẵn sàng có đó cho Chúa trong cái viên mãn của hữu thể mình và do đó, thấy mình hoàn toàn sẵn sàng có đó cho mọi người. Tôi nghĩ việc độc thân từ căn bản diễn tả chính tính toàn diện ấy và vì thế, là một quy chiếu quan trọng trên thế gian này vì nó chỉ có nghĩa nếu ta thực sự tin vào cuộc sống trường sinh và nếu ta tin thật rằng Thiên Chúa cần có ta và ta có thể thuộc về Người.
Cho nên, chức linh mục là tối cần thiết vì Giáo Hội đã được xây dựng trong chính Phép Thánh Thể, một phép từ Chúa phát sinh ra; trong Bí Tích Thống Hối, ta được trao ban sự thanh tẩy; trong Bí Tích, chức linh mục đúng là một can dự vào cái “cho” (for) của Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, tôi biết việc đó ngày nay rất khó, khi một linh mục thấy mình phải điều khiển không những một giáo xứ dễ quản trị mà là nhiều giáo xứ và đơn vị mục vụ; khi ngài phải sẵn sàng có đó để đưa ra ý kiến này hay ý kiến nọ, v.v…sống cuộc sống như thế khó khăn xiết bao. Tôi tin rằng trong hoàn cảnh như thế, điều quan trọng là phải có can đảm tự giới hạn mình và phải rõ rệt xác định ra các ưu tiên.
Ưu tiên nền tảng của đời sống linh mục là ở với Chúa và như thế phải có thì giờ để cầu nguyện. Thánh Charles Borromeo luôn hay nói: “Bạn sẽ không thể chăm sóc linh hồn người khác nếu bạn để cho chính linh hồn bạn phải hư đi.Cuối cùng, bạn cũng chả làm được bất cứ việc gì cho người khác. Bạn phải luôn dành thì giờ ở với Chúa”.
Cho nên, tôi muốn nhấn mạnh điều này: dù bất cứ yêu cầu nào xuất hiện, ưu tiên thực sự là mỗi ngày, tôi dám nói thế, phải tìm ra một giờ để im lặng dành cho Chúa và ở với Chúa, như Giáo Hội khuyên ta phải đọc sách nguyện, với kinh nguyện hàng ngày, ngõ hầu ta liên tục phong phú hóa chính ta từ bên trong, và, như tôi đã nói khi trả lời câu hỏi thứ nhất, có thể trở vào trong tầm tới của hơi thở Chúa Thánh Thần. Và để sắp xếp ưu tiên trên căn bản này: tôi phải học biết nhận ra điều gì thực sự chính yếu, nơi mà sự hiện diện trong tư cách linh mục của tôi là tối thiết không thể miễn chước được và là nơi tôi không thể ủy trách nhiệm cho bất cứ ai khác. Và đồng thời, tôi phải khiêm nhường chấp nhận có những lúc có nhiều việc tôi nên làm và đòi sự hiện diện của tôi nhưng tôi không làm sao xoay sở được vì tôi biết các giới hạn của mình. Tôi nghĩ ai cũng hiểu sự khiêm nhường này.
Và giờ đây, tôi phải liên kết một khía cạnh nữa vào đó: là phải biết cách ủy quyền, biết cách làm cho người khác hợp tác với mình. Tôi có cảm tưởng người ta sẵn sàng hiểu và biết lượng giá điều ấy khi một linh mục ở với Chúa, khi ngài quan tâm đến chức vụ mình là người cầu nguyện cho người khác: họ sẽ nói “chúng con không thể cầu nguyện nhiều như thế được, cha phải cầu nguyện cho chúng con: xét trong căn bản, đó là việc của cha, vì việc của cha là làm người cầu nguyện cho chúng con”.
Họ muốn có một vị linh mục thực tâm cố gắng sống với Chúa và rồi sẵn sàng có đó (available) cho mọi người, người đau khổ, người ốm đau, trẻ em, người trẻ (tôi dám nói họ là các ưu tiên của ta), và là người biết phân biệt được những việc người khác có thể làm tốt hơn ngài, cho nên ngài phải sẵn sàng dành chỗ cho những tài năng ấy.
Tôi nghĩ tới các Phong Trào và rất nhiều hình thức cộng tác trong giáo xứ. Ước chi tất cả những việc ấy đều được phản ảnh trên bình diện giáo phận, nên tạo ra các hình thức cộng tác mới và khích lệ các trao đổi hỗ tương.
Cha nói rất đúng rằng về điểm này, điều quan trọng là phải biết nhìn quá giáo xứ tới cộng đồng giáo phận, và thực ra, còn tới cả cộng đồng Giáo Hội phổ quát nữa. Đến lượt mình, Giáo hội phổ quát này phải hướng tầm nhìn của mình để nhận ra những gì đang xẩy ra cho giáo xứ và hậu quả nào xẩy tới cho cá nhân linh mục.
Rồi cha còn đề cập tới một điểm nữa, theo tôi rất quan trọng: các linh mục, ngay cả lúc sống cách biệt nhau vẫn là một cộng đoàn huynh đệ thực sự, một cộng đoàn yểm trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Để đừng rơi vào cô lập, vào cô đơn với những sầu buồn của nó, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thường xuyên gặp gỡ nhau.
Giáo phận phải có trách nhiệm lập ra phương cách tổ chức tốt nhất các buổi gặp gỡ của các linh mục, ngày nay chúng ta có xe hơi nên việc đi lại dễ dàng hơn nhiều, để cảm nghiệm có nhau mãi mãi được tươi mới, học hỏi lẫn nhau, sửa chữa cho nhau và giúp đỡ nhau, động viên nhau và khích lệ nhau ngõ hầu trong sự hiệp thông của hàng ngũ linh mục này, cùng với vị giám mục, chúng ta có thể tiến hành được việc phục vụ giáo hội địa phương. Chính là điểm này: không linh mục nào là linh mục một mình được; chúng ta là hàng ngũ linh mục và chỉ trong hiệp thông với giám mục này, mỗi người mới có thể tiến hành việc phục vụ của mình được.
Bây giờ, sự hiệp thông đẹp đẽ vốn được mọi người nhìn nhận trên bình diện thần học này, cũng phải được phát biểu ra bằng hành động theo cách thế được giáo hội địa phương nhận diện ra, và sự hiệp thông đó cần được mở rộng vì không một vị giám mục nào là giám mục một mình nhưng là một giám mục trong đoàn giám mục (college), trong hiệp thông vĩ đại các giám mục khắp nơi. Đó là sự hiệp thông ta luôn phải ráng đạt tới.
Và tôi nghĩ: đây là khía cạnh đẹp đẽ một cách đặc biệt của Đạo Công Giáo: nhờ tính Tối Thượng (Primacy), vốn không phải là một thứ quân quyền tuyệt đối mà là một phục vụ cho hiệp thông, chúng ta chắc chắn sẽ có được sự hiệp nhất kia. Như thế, trong một cộng đồng rộng lớn có nhiều tiếng nói, tất cả chúng ta cùng nhau tạo nên bản nhạc đức tin vĩ đại vang vang khắp mặt địa cầu.
Ta hãy cầu xin Chúa khích lệ chúng ta khi chúng ta nghĩ mình không thể xoay sở hơn nữa: chúng ta hãy nâng đỡ nhau, rồi Chúa sẽ giúp chúng ta cùng nhau tìm ra nẻo đường đi đúng đắn.
6. Cha Paolo Rizzi, cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo: Kính thưa Đức Thánh Cha, con là cha xứ và giảng sư thần học tại Viện Cao Đẳng Khoa Học Tôn Giáo. Chúng con muốn được nghe ý kiến mục vụ của Đức Thánh Cha về hoàn cảnh liên quan đến các Bí Tích Rước Lễ Lần Đầu và Thêm Sức. Luôn có hiện tượng ngày càng có nhiều trẻ em, cả trai lẫn gái, lúc dọn mình lãnh nhận hai Bí Tích này thì cam kết dự các buổi giáo lý nhưng không chịu tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, nên có người đã thắc mắc: làm thế có ích lợi gì? Đôi lúc chúng con muốn bảo họ: “Thà cứ ở nhà còn hơn”.
Tuy nhiên, chúng con vẫn tiếp tục tiếp nhận họ như bao giờ hết, vì tin rằng dù sao cũng tốt hơn là dập tắt cái bấc vẫn còn đang leo lét kia. Nghĩa là chúng con tin rằng dù sao ơn Chúa Thánh Thần vẫn có thể gây hiệu quả quá điều chúng con có thể thấy và trong một thời đại có tính chuyển tiếp như thế này, khôn ngoan nhất là đừng đưa ra những quyết định có tính quyết liệt.
Nói tổng quát hơn, cách nay 35 năm, con nghĩ rằng chúng ta đang bắt đầu trở thành một đoàn chiên nhỏ, một cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở khắp nơi tại Âu Châu; bởi thế, chúng ta chỉ nên ban các bí tích cho những ai thực sự cam kết sống cuộc sống Kitô hữu mà thôi. Nhưng rồi, một phần nhờ phong cách của Triều Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, con lại đã có suy nghĩ khác. Nếu có thể tiên đoán được tương lai, Đức Thánh Cha sẽ nghĩ sao? Đức Thánh Cha sẽ gợi ý cho chúng con các phương thức mục vụ nào? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.
Đức Benedict XVI: Đồng ý, (nhưng) ở đây tôi không thể đưa ra được câu trả lời hoàn toàn đúng, tôi chỉ ráng trả lời theo cái nhìn của tôi thôi. Tôi phải nói ngay: tôi cũng theo một lối tương tự như của cha.
Khi còn trẻ, tôi khá nghiêm khắc. Tôi bảo: bí tích là bí tích đức tin, nên ở đâu không có đức tin, không có việc thực hành đức tin, thì không thể ban Bí Tích được.
Và rồi, khi đã làm tổng giám mục Munich, tôi thường nói với cha xứ của tôi: cả ở đây nữa vẫn có hai phe, một phe nghiêm khắc và một phe cởi mở. Rồi với thời gian, tôi mới hiểu ra rằng đúng hơn ta phải theo gương Chúa chúng ta, Đấng luôn luôn cởi mở cả với những người ở bên lề xã hội Israel lúc ấy. Người là Chúa của cảm thương, và, theo nhận định của nhiều thẩm quyền chính thức, Người cũng cởi mở cả với người tội lỗi nữa, chào đón họ và để họ mời mình dùng bữa, lôi kéo họ vào hiệp thông với mình.
Cho nên, tôi muốn nói một cách chắc chắn rằng các bí tích đương nhiên là các bí tích đức tin: khi không có tí yếu tố đức tin nào, khi Rước Lễ Lần Đầu chỉ là bữa ăn trưa thịnh soạn không hơn không kém, với quần áo đẹp và quà tặng hậu hĩnh, thì nó không còn là bí tích đức tin nữa.
Ấy thế nhưng, mặt khác, nếu ta vẫn còn nhận ra một đốm lửa nhỏ nào đó, muốn được rước lễ trong đức tin, một ý muốn ngay nơi trẻ em, muốn được bước vào hiệp thông với Chúa Giêsu, thì với tôi, xem ra ta phải có thái độ cởi mở mới đúng.
Lẽ dĩ nhiên, một mục đích trong giáo lý của ta là giúp trẻ em hiểu rằng Rước Lễ, Rước Lễ Lần Đầu không phải là một biến cố “cố định”, nhưng đòi có sự liên tục trong tình bạn với Chúa Giêsu, đòi phải cùng đồng hành với Chúa Giêsu. Tôi biết: trẻ em thường có ý định và ước muốn được đi Lễ Chúa Nhật nhưng chính cha mẹ các em đã không giúp làm cho ước muốn ấy có thể thực hiện được.
Nếu ta thấy trẻ em muốn điều ấy, muốn đi lễ, thì với tôi điều ấy gần như đã là bí tích bằng ước muốn rồi, là “ý chí” muốn tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Theo nghĩa này, lẽ đương nhiên, trong bối cảnh chuẩn bị lãnh nhận bí tích, ta phải làm hết cách để bắt tay với cả cha mẹ các em nữa, và như thế, có thể nói, ta đã đánh thức trong họ sự nhậy cảm đối với diễn trình mà con em họ đang can dự vào.
Họ nên giúp con cái họ để chúng tuân theo ý muốn riêng của chúng mà bước vào tình bạn với Chúa Giêsu. Tình bạn này vốn là một hình thức sống, một dạng thái tương lai. Nếu cha mẹ muốn con cái mình có khả năng Rước Lễ Lần Đầu, thì ý muốn nặng tính xã hội này có thể phát triển thành ý muốn có tính tôn giáo, giúp cho cuộc đồng hành với Chúa Giêsu trở nên có thể thực hiện được.
Cho nên, tôi muốn nói rằng trong bối cảnh dạy giáo lý cho trẻ em, công tác với cha mẹ các em là điều hết sức quan trọng. Và chính đây là một trong các dịp may để tiếp xúc với các cha mẹ, làm cho đời sống đức cũng hiện hữu đối với người trưởng thành, vì, theo tôi, cả họ nữa, họ cũng có thể nhờ con cái mà học tập lại đức tin và hiểu được rằng dịp long trọng này chỉ có nghĩa, chỉ đúng đắn và xác thực nếu được cử hành trong bối cảnh đồng hành với Chúa Giêsu, trong bối cảnh đời sống đức tin mà thôi.
Như thế, ta nên ráng, qua các trẻ em, mà thuyết phục các cha mẹ xác tín được nhu cầu phải có cuộc hành trình chuẩn bị, một cuộc hành trình được diễn tả qua việc tham dự vào các mầu nhiệm, một hành trình bắt đầu bằng việc làm cho các mầu nhiệm này được yêu mến.
Tôi muốn nói: chắc chắn đây không phải là lời giải đáp hoàn toàn thỏa đáng, nhưng sư phạm đức tin luôn là một hành trình và ta phải chấp nhận hoàn cảnh thời nay. Ấy thế nhưng, ta cũng phải mở rộng những hoàn cảnh ấy tới từng con người nhiều hơn, để kết quả lâu dài không phải chỉ là ký ức bề ngoài về sự vật mà lòng các em được thực sự đánh động.
Giây phút ta xác tín được là trái tim đã được đánh động, lúc nó cảm nhận được chút ít tình yêu Chúa Giêsu, cảm nhận được chút ít ý muốn được tiến bước trên các ngả đường của hướng đi này, thì đó là giây phút, theo tôi, ta có thể nói được rằng ta đã thực hiện được bài giáo lý đúng nghĩa. Thực vậy, ý nghĩa đúng đắn của giáo lý phải như thế này: đem ngọn lửa tình yêu của Chúa Giêsu, dù hết sức leo lét, đến với tâm hồn trẻ em, và qua các em tới cha mẹ chúng, nhờ thế mà mở lại được nhiều ngả đức tin cho thời đại ta.
Theo bản tiếng Anh của tờ L’Osservatore Romano 13-20 tháng Tám 2008