Sống với Chúa Kitô sẽ thành công chuyện nhân bản

Dịp nghỉ hè tại Đại chủng viện Bressanone, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI có dành cho các linh mục, phó tế, đại chủng sinh của Giáo Phận một buổi hỏi thưa với nội dung sau đây:

1. Michael Horrer, chủng sinh: Kính thưa Đức Thánh Cha, tên con là Michael Horrer và con là một đại chủng sinh. Dịp Ngày Thế Giới XIX tại Sydney, Úc Châu, trong đó con có tham dự với các người trẻ khác của giáo phận chúng con, Đức Thánh Cha luôn tái khẳng định với 400,000 người trẻ hiện diện ở đó tầm quan trọng của công trình Chúa Thánh Thần nơi người trẻ chúng con và nơi Giáo Hội. Chủ đề của Ngày ấy là “Chúng con sẽ nhận được sức mạnh khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng con và chúng con sẽ là nhân chứng của Ta” (Cv 1:8).

Giới trẻ chúng con nay đã về nhà, về giáo phận và về với cuộc sống hàng ngày, sau khi được Chúa Thánh Thần và lời Người tăng sức mạnh.

Kính thưa Đức Thánh Cha, làm thế nào chúng con sống được các ơn phúc của Chúa Thánh Thần trong thực hành, tại đây ngay trong lòng xứ sở của chúng con và trong cuộc sống hàng ngày của chúng con, cách nào đó để thân nhân, bạn hữu và người quen thuộc cảm nhận được sức mạnh của Người, và làm thế nào chúng con thi hành được sứ mệnh làm nhân chứng cho Chúa Kitô? Đức Thánh Cha sẽ khuyên dạy chúng con điều gì để bảo đảm rằng giáo phận chúng con tươi trẻ mãi, bất chấp hàng giáo sĩ đang ra già nua, ngõ hầu giáo phận chúng con luôn mở lòng cho Chúa Thánh Thần, Đấng hằng hướng dẫn Giáo Hội?


Benedict XVI: Cám ơn con về câu hỏi của con. Cha vui mừng được gặp một đại chủng sinh, một ứng viên linh mục của giáo phận này mà theo một nghĩa nào đó trên khuôn mặt con, cha có thể khám phá ra khuôn mặt trẻ trung của giáo phận. Và Cha cũng vui mừng được nghe việc con đã cùng nhiều người khác có mặt tại Sydney nơi có cử hành lớn mà trong đó chúng ta cùng cảm nghiệm được sự kiện này là Giáo Hội vẫn trẻ trung.

Đối với người Úc cũng thế, đó là một kinh nghiệm quan trọng. Thoạt đầu, họ nhìn Ngày Giới Trẻ Thế Giới với thật nhiều hoài nghi vì hiển nhiên nó có thể gây ra nhiều phiền hà và bất tiện cho cuộc sống hàng ngày, như nạn kẹt xe chẳng hạn v.v…

Tuy nhiên, kết cục, như chúng ta đã thấy trên truyền thông, các thiên kiến của họ dần dần bị đánh tan, mọi người đều cảm thấy mình tham dự vào bầu không khí đầy hân hoan và đức tin đó; họ thấy giới trẻ đến nhưng không gây ra vấn đề an ninh nào hay bất cứ vấn đề nào khác, trái lại chỉ tụ tập hân hoan lại với nhau mà thôi.

Họ thấy rằng đức tin ngày nay là một sức mạnh đang hiện diện, một sức mạnh có thể đem lại cho con người định hướng đúng đắn. Đó là lý do có những lúc chúng ta thực sự cảm nhận được ngọn gió Chúa Thánh Thần, Đấng đã quét sạch hết thiên kiến, Đấng làm con người hiểu ra rằng vâng, ở đây chúng tôi khám phá ra điều ảnh hưởng tới chúng tôi một cách gần gũi, đó là hướng chúng tôi phải đi; và chúng tôi có thể sống cách đó, tương lai có thể triển nở cách đó.

Con nói đúng: việc trên quả là giây phút mạnh mẽ mà ta có thể đem về nhà một chút tia sáng nào đó.Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, nghĩa là trong thực hành, khó khăn hơn nhiều mới nhận thức được hành động của Chúa Thánh Thần hay cả việc để bản thân mình thành một phương thế làm cho Người hiện diện, bảo đảm cho sự hiện diện của ngọn gió ấy có thể quét sạch hết các thiên kiến của thời đại, sự hiện diện tạo ra ánh sáng cho đêm tối và làm chúng ta không những cảm nhận được sự kiện đức tin có tương lai mà đức tin còn là chính tương lai nữa

Chúng ta làm sao làm được điều đó? Dĩ nhiên, tự sức mình, chúng ta không thể làm được điều đó.Tựu chung, chính Chúa giúp chúng ta nhưng ta phải sẵn sàng làm khí cụ của Người. Cha chỉ muốn nói: không ai có thể cho điều chính bản thân họ không có; nói cách khác, chúng ta không thể chuyển giao Chúa Thánh Thần cách hữu hiệu hay làm người khác nhận thức được Người trừ khi chính chúng ta phải gần gũi với Người.

Đó là lý do tại sao Cha nghĩ: điều quan trọng nhất, có thể nói, là chính chúng ta phải ở lại trong đường kính cơn gió của Chúa Thánh Thần, phải tiếp xúc với Người. Chỉ khi nào nội tâm chúng ta được Chúa Thánh Thần đụng chạm tới, nghĩa là Người ngụ cư trong chúng ta, chúng ta mới có thể chuyển giao Người cho người khác.

Lúc ấy, Người sẽ ban cho ta óc tưởng tượng và các ý tưởng sáng tạo phải hành động ra sao, các ý tưởng không thể do ta đặt kế sách trước mà phải được phát sinh từ chính hoàn cảnh, vì chính ở đó, Chúa Thánh Thần ra tay hành động. Như thế, điểm đầu tiên là: chúng ta phải ở lại trong đường kính cơn gió của Chúa Thánh Thần.

Phúc âm Thánh Gioan cho ta hay rằng sau Phục Sinh, Chúa đi gặp các môn đệ, thổi hơi vào họ mà nói: “Các con hãy nhận Chúa Thánh Thần”. Điều này có thể so sánh với Sách Sáng Thế, trong đó, Thiên Chúa cũng hà hơi vào hợp chất Người đã nặn bằng bụi đất và nó trở nên có sự sống và thành người.

Rồi con người, vốn đen tối từ bên trong và nửa sống nửa chết, lại nhận được hơi thở của Chúa Kitô và đó là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở đem lại cho cuộc sống họ một chiều kích mới mẻ, chiều kích ban cho họ sự sống với Chúa Thánh Thần.

Cho nên chúng ta có thể nói: Chúa Thánh Thần chính là hơi thở của Chúa Giêsu Kitô và theo một nghĩa nào đó, chúng ta nên xin Chúa Kitô luôn thổi hơi thở của Người vào chúng ta, để hơi thở ấy trở nên sống động và mạnh mẽ và tác động trên thế giới. Điều ấy có nghĩa: chúng ta phải tiếp xúc gần gũi với Chúa Kitô.

Chúng ta làm việc trên nhờ suy niệm Lời Người. Ta biết rằng tác giả chính của Sách Thánh là Chúa Thánh Thần. Khi, nhờ Lời Người, ta nói với Thiên Chúa, khi ta không những đi tìm quá khứ mà thực sự đi tìm Chúa hiện diện trong đó và đang nói với ta, thì, như Cha từng nói ở Úc Châu, những khi ấy như thể ta đang đi dạo trong vườn Chúa Thánh Thần; truyện trò với Người và Người truyện trò với ta.

Ở đây, học hỏi để hiện hữu trong môi trường này, trong môi trường Lời Chúa, là điều hết sức quan trọng, một điều, theo một nghĩa nào đó, sẽ dẫn chúng ta vào hơi thở Thiên Chúa. Và rồi, một cách tự nhiên, ta phải biến đổi việc lắng nghe này, việc đi dạo trong môi trường Lời Chúa này thành một đáp ứng, một đáp ứng trong cầu nguyện, trong tiếp xúc với Chúa Kitô.

Lẽ dĩ nhiên, trước hết phải là đáp ứng đối với bí tích cực trọng Thánh Thể trong đó Người đến với chúng ta và bước vào trong ta và hiệp nhất với ta, như người ta thường nói. Tuy nhiên, còn là với bí tích thống hối nữa, là bí tích thanh tẩy ta, rửa sạch mọi cáu bẩn mà cuộc sống hàng ngày đã tích tụ trong ta.

Nói tóm lại, đó là sống với Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, trong Lời Chúa và trong hiệp thông Giáo Hội, trong cộng đồng Giáo Hội. Thánh Augustinô viết: “Nếu các bạn ước muốn Chúa Thánh Thần, các bạn phải ở trong Thân Thể Chúa Kitô”. Thần Trí Chúa Kitô, vì thế, sống động trong Nhiệm Thể Người.

Tất cả các điều trên phải xác định ra khuôn hình cho ngày sống của ta để ngày sống ấy trở thành cơ cấu, ngày sống trong đó Thiên Chúa có thể lui tới với chúng ta bất cứ lúc nào, trong đó, ta luôn tiếp xúc với Chúa Kitô và trong đó, vì chính lý do ấy, ta liên tục nhận được hơi thở của Chúa Thánh Thần.

Nếu ta chịu làm thế, nếu ta không quá lười biếng, vô kỷ luật hay uể oải, thì việc này sẽ xẩy đến cho ta: ngày ấy sẽ nhận được hình dạng, và trong ngày ấy cuộc sống ta sẽ nhận được hình dạng và ánh sáng này sẽ từ ta tỏa chiếu ra mà không cần phải suy tư nhiều hay phải chủ trương lối hành động “duy tuyên truyền”, có thể nói được như thế. Nó tự động xẩy tới vì nó chỉ phản chiếu linh hồn ta mà thôi. Đối với điều trên Cha cũng xin thêm chiều kích thứ hai vốn liên hệ một cách hợp luận lý với chiều kích thứ nhất: nếu ta sống với Chúa Kitô, ta cũng sẽ thành công trong các chuyện nhân bản.

Thực vậy, đức tin không chỉ liên quan đến khía cạnh siêu nhiên mà thôi, nó cũng xây đắp con người, đem con người trở lại với nhân tính của họ, như hai đoạn song hành giữa Sách Sáng Thế và Chương 20 Phúc Âm Gioan đã chứng tỏ: Đức tin đặt căn bản trên các nhân đức nhân bản: trung thực, hân hoan, sẵn sàng lắng nghe người lân cận, khả năng biết tha thứ, lòng đại lượng, lòng tốt và tình thân hữu giữa mọi người.

Các nhân đức nhân bản này cho thấy: đức tin hiện hữu thực sự, ta thực sự hiện hữu với Chúa Kitô và Cha tin rằng ta nên chú ý nhiều đến cả việc này nữa, việc cũng liên quan đến chính chúng ta: là khai triển một nhân tính chân chính trong chính chúng ta vì đức tin hệ ở việc thể hiện trọn vẹn hữu thể nhân bản, nhân tính trọn vẹn.

Ta nên chú ý tới việc thực thi các trách vụ nhân bản một cách tốt đẹp và chính xác, trong nghề nghiệp, đối với người lân cận, tỏ lòng quan tâm đối với họ, cũng là cách tốt nhất quan tâm đến chính chúng ta: Thực vậy, “hiện hữu” vì người lân cận của ta là cách tốt nhất để ta “hiện hữu” vì chính bản thân mình.

Điều trên, do đó, đã phát sinh ra nhiều sáng kiến không thể nào lên chương trình trước được: các cộng đoàn cầu nguyện, các cộng đoàn đọc Thánh Kinh với nhau hay các cộng đoàn cung cấp các trợ giúp hữu hiệu cho người túng thiếu, những người cần đến nó, những người đang nằm ngoài lề cuộc sống, cho người bệnh, cho người khuyết tật và nhiều người khác nữa. Đó là lúc mắt ta mở ra để nhận ra các kỹ năng bản thân của mình, để đảm nhiệm các sáng kiến tương xứng và để giúp người khác có can đảm làm cùng một điều như thế. Và chính vì những vấn đề nhân bản này tăng sức mạnh cho ta, nên nó cũng đồng thời giúp ta tiếp xúc như mới với Thánh Thần Thiên Chúa.

Vị đứng đầu Dòng Hiệp Sĩ Malta tại Rôma cho Cha hay: dịp Lễ Giáng Sinh, ngài cùng một số thanh thiếu niên tới một nhà ga kia để đem ít quà Giáng Sinh tặng người vô gia cư. Vừa quay đi, ngài nghe một thanh niên nói với đồng bạn: “Việc này chì hơn buổi disco nhiều. Ở đây thật tuyệt diệu vì tôi có thể làm được điều gì đó cho người khác!”. Đó chính là những sáng kiến được Chúa Thánh Thần đánh động nơi ta. Chỉ bằng những lời ít ỏi như thế, chúng cũng giúp ta cảm nhận được sức mạnh Chúa Thánh Thần, khiến chúng ta biết chăm chú đối với Chúa Kitô.

Hình như lúc này, Cha chưa nói được nhiều điều thực tiễn, nhưng Cha tin rằng điều quan trọng nhất là: cuộc sống ta, trước hết, phải quy hướng về Chúa Thánh Thần, vì chúng ta sống trong môi trường Thần Khí, trong thân thể Chúa Kitô, và nhờ thế, ta cảm nhận được diễn trình nhân bản hóa, ta nuôi dưỡng được các nhân đức hoàn toàn có tính nhân bản và như thế học tập để trở nên tốt theo nghĩa rộng rãi nhất của từ ngữ. Nhờ thế, ta thủ đắc được sự nhậy cảm đối với các sáng kiến tốt, là các sáng kiến dĩ nhiên sẽ khai triển được sức mạnh truyền giáo sau này và theo một nghĩa nào đó, sẽ chuẩn bị cơ sở cho giây phút trong đó việc nói về Chúa Giêsu và về đức tin được người ta coi là hợp lý và dễ hiểu.

2. Cha Willibald Hopfgartner, OFM: Kính thưa Đức Thánh Cha, con thuộc Dòng Phanxicô và làm việc tại một trường học và tại nhiều khu vực dưới sự hướng dẫn của Dòng con. Trong bài diễn văn tại Regensburg, Đức Thánh Cha có nhấn mạnh tới sợi dây nối kết chủ yếu giữa Thần Trí Thiên Chúa và lý trí nhân bản.

Đàng khác, Đức Thánh Cha cũng luôn nhấn mạnh đến sự quan trọng của nghệ thuật và cái đẹp, của thẩm mỹ. Vậy há không nên không ngừng tái khẳng định kinh nghiệm thẩm mỹ của đức tin trong bối cảnh Giáo Hội, đối với việc công bố (Lời Chúa) và phụng vụ, song song với việc đối thoại bằng ý niệm về Thiên Chúa (tức thần học) hay sao?


Benecdict XVI: Cám ơn cha. Vâng tôi nghĩ: hai điều này luôn tay trong tay với nhau: lý lẽ, sự chính xác, sự trung thực trong suy tư chân lý, và cái đẹp. Lý lẽ nào tự ý vứt bỏ cái đẹp cũng chỉ là lý lẽ nửa vời, có thể chỉ là lý lẽ mù quáng. Chỉ khi nào chúng kết hợp với nhau, hai điều trên mới tạo thành một toàn bộ, và sự kết hợp đó hết sức quan trọng đối với chính đức tin. Trong thời đại này, đức tin phải không ngừng đối diện với các thách đố của tư tưởng, để nó hết còn bị coi là một truyện dã sử phi lý mà chúng ta duy trì cho sống động nhưng thực sự là một giải đáp cho nhiều câu hỏi vĩ đại, không phải chỉ là một thói quen nhưng là chân lý, như Tertullian từng nói.

Trong thứ thứ nhất của mình, Thánh Phêrô viết câu sau đây được các thần học gia thời Trung Cổ, vì muốn hợp thức hóa nó, đã nhận làm trách nhiệm cho trách vụ thần học của mình: “Anh chị em phải luôn sẵn sàng để tự bênh vực mình chống bất cứ ai đòi anh chị em phải trả lẽ cho niềm hy vọng của anh chị em”, tức phải hộ giáo, bênh vực cho lời hy vọng, nghĩa là phải biến đổi lời lẽ, lý lẽ hy vọng thành khoa hộ giáo, để trả lời cho người đời.

Hiển nhiên là ngài xác tín được sự kiện này: đức tin là lời lẽ (logos), là lý lẽ, là ánh sáng phát xuất từ Lý Trí sáng tạo chứ không phải chỉ là một pha chế kỳ diệu, một hoa trái của tư tưởng ta. Và đó là lý do tại sao nó phổ quát và vì vậy được thông truyền cho mọi người.

Ấy thế nhưng, chính vì lời lẽ sáng tạo này không phải chỉ là lời lẽ kỹ thuật (ta sẽ trở lại khía cạnh này với câu trả lời khác nữa), nên nó rất rộng, nó là lời lẽ của yêu thương, nên phải được diễn tả như thế trong sự mỹ và trong sự thiện.

Lại nữa, tôi cũng đã có lần nói rằng đối với tôi, nghệ thuật và các thánh là hai nhà hộ giáo vĩ đại nhất cho đức tin của ta. Các luận chứng do lý lẽ đóng góp hiển nhiên rất quan trọng và không thể thiếu được, nhưng ta thấy luôn có bất đồng ở nhiều nơi.

Đàng khác, nếu ta nhìn lên các thánh, tức con đường sáng láng vĩ đại mà Thiên Chúa hằng bước qua khắp trong lịch sử, ta sẽ thấy rằng thực sự có một sức mạnh của sự thiện từng chống chọi suốt mấy ngàn năm qua; thực sự có thứ ánh sáng trên các ánh sáng. Cũng thế, nếu ta ngắm nhìn các vẻ đẹp do đức tin tạo ra, tôi dám nói, ta thấy chúng quả là các bằng chứng sống động của đức tin.

Khi tôi nhìn vào ngôi nhà thờ chính tòa đẹp đẽ này, (tôi thấy) nó quả là một công bố sống động! Nó tự nói về chính nó với ta, và trên căn bản cái đẹp của ngôi nhà thờ chính tòa này, ta sẽ thành công trong việc công bố Thiên Chúa, công bố Chúa Kitô và mọi mầu nhiệm của Người một cách hữu hình: Ở đây, chúng đã thủ đắc được một hình dạng và nhìn vào chúng ta.

Mọi công trình nghệ thuật vĩ đại, các nhà thờ chính tòa, những ngôi nhà thờ chính toà kiểu Gô-tích và những ngôi thánh đường kiểu Ba-rốc lộng lẫy, thẩy đều là các dấu chỉ sáng láng của Thiên Chúa và do đó thực là các biểu hiện hay hiển linh của Chúa. Và trong Kitô giáo, đây chính là thực chất của sự hiển linh này: trước đây, Thiên Chúa trở nên Hiển Linh dấu ẩn, nhưng nay Người xuất hiện rực rỡ sáng láng.

Chúng ta vừa được nghe tiếng đàn organ hết sức thánh thót. Tôi nghĩ nền âm nhạc vĩ đại phát sinh trong Giáo Hội đã làm cho chân lý đức tin của ta trở thành nghe được và nhận thức được: từ nhạc bình ca tới nhạc nhà thờ chính tòa, từ Palestrina và thời đại ông, tới Bach và từ đó tới Mozart và Bruckner và vân vân. Nghe tất cả các công trình ấy: Cuộc Khổ Nạn của Bach, Thánh Lễ giọng Si giáng của ông, và các sáng tác thiêng liêng của đa âm thế kỷ 16, của trường phái Vienna, của mọi loại âm nhạc, ngay cả các sáng tác của các nhà soạn nhạc ít nổi danh, ta đều bỗng hiểu được: nó quả đúng!

Bất cứ nơi nào phát sinh ra chúng, Chân lý cũng đều có mặt ở đấy. Nếu không có thứ trực giác từng khám phá ra tâm điểm sáng tạo thực sự của thế giới này, vẻ đẹp như thế không tài nào phát sinh được.

Chính vì thế, tôi nghĩ ta nên luôn luôn bảo đảm để hai điều trên đi đôi với nhau, ta nên đem chúng lại với nhau.

Trong thời đại ta, khi thảo luận tính hợp lý của đức tin, chính là lúc ta thảo luận sự kiện này: lý lẽ không ngừng ở chỗ ngừng của các khám phá thực nghiệm, nó không chấm dứt ở chủ nghĩa duy nghiệm; thuyết biến hóa nhìn ra sự thật nhưng chỉ nhìn ra một nửa sự thật: Nó không thấy rằng đàng sau nó là Thần Trí sáng tạo. Chúng ta tranh đấu để mở rộng lý lẽ, và do đó, tranh đấu vì một lý lẽ, lý lẽ ấy chính là mở cửa cho cái đẹp và không gạt cái đẹp ấy ra một bên giống như một điều gì khác hẳn và vô lý.

Nghệ thuật Kitô giáo là một nghệ thuật hữu lý, ta hãy nghĩ tới nghệ thuật Gô-tích hay âm nhạc vĩ đại hay ngay cả nghệ thuật Ba-rốc của chính chúng ta, nhưng nó chính là việc phát biểu bằng nghệ thuật các lý lẽ đã được mở rộng một cách lớn lao, trong đó trái tim và lý trí gặp nhau. Đó mới là trọng điểm. tôi tin rằng, theo một cách thế nào đó, đây mới chính là minh chứng cho đức tin Kitô giáo: trái tim và lý trí gặp nhau, cái mỹ và cái chân hội tụ về một nơi, và ta càng thành công trong việc sống bằng cái đẹp của chân lý thì đức tin càng có khả năng trở thành sáng tạo một lần nữa cả trong thời đại chúng ta, và sẽ tự phát biểu mình ra dưới một hình thức nghệ thuật đầy thuyết phục.

Cho nên, thưa cha Hopfgartner, cám ơn cha về câu hỏi của cha; ta hãy tìm cách bảo đảm rằng hai phạm trù thẩm mỹ và nhận thức (noetic) được kết hợp với nhau và chính trong cái rộng dài này, tính toàn diện và tính sâu sắc trong đức tin của ta được tỏ hiện.

3. Cha Willi Fusaro: Kính thưa Đức Thánh Cha, con năm nay 42 tuổi và mắc bệnh từ ngày mới chịu chức linh mục. Con chịu chức năm 1991; rồi tháng 9 cùng năm, con bị khám nghiệm mắc chứng đa xơ cứng (multiple sclerosis). Con cùng trông coi Giáo xứ Corpus Domini tại Bolzano. Con hết sức ngưỡng phục Đức Gioan Phaolô II, nhất là trong phần cuối triều đại giáo hoàng của ngài, lúc ngài chịu đựng sự yếu đuối nhân bản một cách can đảm và khiêm nhu trước mặt toàn thế giới.

Vì sự gần gũi của Đức Thánh Cha với vị tiền nhiệm qúy yêu và dựa trên kinh nghiệm bản thân của Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha sẽ nói gì với con và với mọi người chúng ta làm sao thực sự giúp đỡ cách hữu hiệu các linh mục già nua và ốm đau để các ngài sống ơn gọi linh mục của mình cách tốt đẹp và có hiệu quả trong hàng ngũ linh mục và trong cộng đồng Giáo Hội? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.


Benedict XVI: Cám ơn cha, thưa cha đáng kính. Tôi dám nói rằng, đối với tôi, cả hai phần trong triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II đều quan trọng cả. Trong phần đầu, ta thấy Ngài như vị khổng lồ của đức tin: với một lòng can đảm phi thường, một sức mạnh ngoại hạng, một niềm vui thực sự trong đức tin và một óc sáng suốt cao độ, Ngài đã mang sứ điệp Phúc Âm đến tận cùng trái đất.

Ngài nói với mọi người, Ngài thăm dò các nẻo đường mới với các phong trào, với đối thoại liên tôn, với các cuộc gặp gỡ đại kết,với việc sâu sắc hóa phương cách lắng nghe Lời Chúa, với mọi sự…với tình yêu của Ngài dành cho phụng vụ thánh. Ta có thể nói, Ngài đã hạ các bức tường Giêricô xuống, nhưng là các bức tường phân chia hai thế giới, bằng sức mạnh đức tin riêng của Ngài. Chứng tá của Ngài tiếp tục sống, không thể nào quên được, và tiếp tục là ánh sáng cho thiên niên kỷ này.

Tuy nhiên, tôi phải nói rằng nhờ chứng tá khiêm nhu trong cuộc “khổ nạn” của Ngài, đối với tâm trí tôi, các năm cuối cùng trong triều giáo hoàng của Ngài cũng không kém phần quan trọng; như việc Ngài vác thánh giá của Chúa trước mặt chúng ta và đem vào thực hành lời của chính Chúa: “Hãy theo Ta, hãy vác thánh giá với Ta và bước theo bước chân Ta!”.

Với đức khiêm nhu và lòng nhẫn nại như thế, Ngài đã chấp nhận một điều mà trên thực tế quả đang hủy diệt thân xác Ngài và đang đưa Ngài dần vào chỗ không còn nói năng được nữa, trong khi Ngài là bậc thầy của khoa ăn nói. Đối với tôi, điều ấy đủ cho thấy chân lý sâu sắc này là Chúa cứu vớt ta bằng thánh giá của Người, bằng cuộc khổ nạn của Người, như một hành vi tận cùng của tình yêu. Ngài cho ta thấy: đau khổ không phải chỉ là lời nói “không”, một cái gì tiêu cực, việc thiếu một cái gì đó, mà là một thực tại tích cực. Ngài cho ta thấy: đau khổ khi được chấp nhận vì tình yêu Chúa Kitô, vì tình yêu Chúa và yêu tha nhân chính là một sức mạnh cứu rỗi, sức mạnh yêu thương, không kém mạnh mẽ hơn các công trình vĩ đại Ngài từng hoàn thành ở phần đầu triều đại giáo hoàng của Ngài.

Ngài dạy chúng ta thứ tình yêu mới đối với những ai đang chịu đau khổ và làm ta hiểu được ý nghĩa của “thánh giá và nhờ thánh giá mà ta được cứu rỗi”.

Ta cũng thấy hai khía cạnh đó trong cuộc đời của Chúa. Ở phần đầu, Chúa dạy ta niềm vui của Nước Thiên Chúa, đem ơn phúc đến cho mọi người; ở phần hai, Người dìm mình vào cuộc Khổ Nạn cho đến hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Chính bằng cách đó, Người đã dạy cho ta biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa chính là tình yêu và qua việc đồng hóa với các đau đớn của con người nhân bản chúng ta, Người đã ôm chúng ta vào lòng và dìm chúng ta vào tình yêu của Người và một mình tình yêu này đã tắm gội chúng ta bằng ơn cứu chuộc, ơn thanh tẩy và ơn tái sinh.

Bởi thế, tôi nghĩ: tất cả chúng ta phải học biết chân lý tình yêu, một tình yêu đã trở thành “khổ nạn” và nhờ thế đã cứu rỗi con người và kết hợp họ với Thiên Chúa, Đấng vốn là tình yêu. Điều ấy mỗi ngày ta càng phải học hỏi nhiều hơn, vì ta đang sống trong một thế giới hết sức phát đạt về tranh đấu, về tuổi trẻ, về việc phải trẻ trung, phải mạnh phải đẹp, phải thành công trong những công trình lớn lao.

Cho nên, tôi muốn cám ơn tất cả những ai biết chấp nhận đau khổ, những ai đang đau khổ vì Chúa, và xin khuyến khích tất cả chúng ta nên có một trái tim biết mở rộng đối với người đau khổ và người già cả; biết hiểu rằng cuộc “khổ nạn” của họ tự nó là một nguồn suối canh tân cho nhân loại, một tình yêu sáng tạo trong ta và kết hợp ta với Chúa. Ấy thế nhưng, tựu chung, đau khổ luôn luôn vẫn là điều khó khăn. Tôi nhớ đến người chị của Đức Hồng Y Mayer. Bà bệnh rất nặng và khi bà mất kiên nhẫn, Đức Hồng Y nói với bà: “Chị thấy đó, giờ đây chị đang ở cùng Chúa”. Bà thưa lại: “Đối với em, nói như thế thì quá dễ vì em là người khỏe mạnh, còn chị, chị đang phải chịu ‘khổ nạn’ đấy em ơi”. Qủa thực, trong cuộc “khổ nạn” thực sự, người ta trở nên càng khó kết hợp đúng nghĩa với Chúa và duy trì được thiên hướng kết hợp với Chúa đau khổ.

Bởi thế, ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người đang đau khổ và làm hết sức để giúp đỡ họ, để tỏ lòng biết ơn của ta đối với các đau khổ của họ và hiện diện bên họ bao nhiêu có thể, cho đến giây phút cuối cùng. Đó là sứ điệp nền tảng của Kitô giáo, một sứ điệp vốn phát sinh từ nền thần học Thánh Giá: sự kiện đau khổ và khổ nạn hiện diện trong tình yêu của Chúa Kitô là một thách đố để chúng ta kết hiệp với cuộc khổ nạn của Người.

Ta phải yêu thương những ai đang đau khổ, yêu thương không những bằng lời mà còn bằng mọi hành động và cam kết của ta. Tôi nghĩ: chỉ bằng cách đó, ta mới thực sự là Kitô hữu. Trong thông điệp “Spe Salvi” (Được cứu rỗi nhờ Đức Cậy), tôi có viết rằng: khả năng chấp nhận đau khổ và những ai đang đau khổ chính là thước đo nhân tính ta có được. Khi thiếu khả năng này, con người bị thu nhỏ và và bị định nghĩa cách khác rồi. Cho nên, ta hãy cầu xin để Chúa giúp ta trong cơn đau đớn và dẫn ta tới gần gũi với mọi người đang đau khổ trên thế giới này.

Theo bản tiếng Anh của tờ L'Osservatore Romano