NGƯỜI VIỆT NAM CÔNG GIÁO:

CHƯƠNG X: DÂN CHÚA VIỆT NAM


I.- VĂN BẢN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Để mở đầu Chương nầy, chúng tôi xin đề nghị về những điều căn bản sau đây với ước mong được chúng ta cùng chia sẻ:

1. Tin Mừng Đức Kitô cần được chấp nhận như là ĐẠI HIẾN CHƯƠNG của những Kitô-hữu hợp thành Giáo Hội Công giáo.

Bốn sách đầu tiên của Tân Ước là những sách Tin Mừng (hay Phúc Âm) theo các Thánh Sử Matthêu, Máccô, Luca và Gioan. Tin Mừng có tính ưu việt trên hết, vì những sách đó là những chứng từ tuyệt vời về cuộc đời và lời giáo huấn của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Độ chúng ta.

Công đồng Vaticanô II đã coi các sách Tin Mừng như những chứng từ thành văn của các Tông Đồ hay của những vị đã sống bên các Tông Đồ ghi chép lại do ơn linh hứng của Thánh Thần. Những chứng từ Đức Tin này mang hai đặc điểm:

a.- được viết lại sau những biến cố nền tảng của Kitô giáo: phục sinh, thăng thiên và hiện xuống. Các biến cố này như những luồng sáng chiếu dọi vào toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu, khiến cho các Tông Đồ có một hiểu biết thâm trầm hơn về các việc làm và lời nói của Người;

b.- đậm nét đặc thù của từng tác giả: khi viết sách Phúc Âm, từng tác giả đã phải chọn lựa những yếu tố đã được truyền khẩu hay được ghi lại thành văn, cộng thêm những hiểu biết riêng của mình mà ghi chép một tác phẩm Tin Mừng.

Công đồng Vaticanô II đã long trọng khẳng định lịch sử tính của các sách Tin Mừng vì trung thành truyền lại những gì Đức Giêsu thực sự đã làm và đã dạy, luôn được truyền đạt cho chúng ta những điều chân thật về Đức Giêsu. Phúc Âm vừa là chứng từ về Đức Giêsu lịch sử, vừa là chứng từ về niềm tin của các Tông Đồ sau phục sinh, và cũng là công trình soạn thảo của các tác giả thánh.

2. Tất cả các VĂN KIỆN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO đều phải căn cứ vào Tin Mừng vì các Phúc Âm trung thành truyền lại những gì Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh, thực sự đã làm và đã dạy. Thí dụ:

a. Công Đồng Chung Vatican II đã công bố 4 Hiến chế:

Về phụng vụ, về cơ cấu và bản chất của Giáo Hội, về Giáo Hội trong thế giới ngày nay và về mặc khải của Thiên Chúa. Công đồng đã đưa ra 9 Sắc lệnh: về phương tiện truyền thông xã hội, Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, hiệp nhất, nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục, canh tân thích nghi đời sống dòng tu, đào tạo linh mục, tông đồ giáo dân, hoạt động truyền giáo, chức vụ và đời sống linh mục. 3 bản Tuyên Ngôn: liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, giáo dục Kitô giáo và tự do tôn giáo. Trong đó, có:

- Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium Et Spes):

Hy vọng và lo âu. Để chu toàn phận vụ ấy, lúc nào Giáo Hội cũng có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại và giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm; như vậy mới có thể giải đáp một cách thích ứng với từng thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy… (Số 4)

- Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội (Lumen Gentium)

Giáo Hội, bí tích trong Đức Kitô. Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật (x. Mc 16,15). Vì Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại, nên, dựa trên giáo huấn của các Công Đồng trước, Giáo Hội muốn làm sáng tỏ bản tính và sứ mệnh phổ quát của mình cho tín hữu và toàn thế giới. Những hoàn cảnh hiện tại làm cho nhiệm vụ của Giáo Hội thêm khẩn thiết hơn, để ngày nay mọi người liên hệ chặt chẽ hơn bởi nhiều ràng buộc xã hội, kỹ thuật, văn hóa, cũng được hiệp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô. (Số 1)

… Thực thế, Giáo Hội là chuồng chiên mà Chúa Kitô là cửa vào duy nhất và cần thiết (x. Ga 10,1-10). Giáo Hội cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Ngài là mục tử (x. Is 40,11; Ez 34,11 tt). Tuy được các mục tử phàm nhân chăn dắt, những chiên ấy luôn được chính Chúa Kitô, Mục Tử nhân lành và Thủ Lãnh các mục tử, dẫn dắt và nuôi dưỡng (x. Ga 10,11; 1P 5,4). Người đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (x. Ga 10,11-15). (Số 6)

… Giáo Hội được thiết lập không phải để tìm kiếm vinh quang trần thế, nhưng để truyền bá khiêm nhường và từ bỏ, bằng gương lành của chính mình. Chúa Kitô được Chúa Cha phái đến "rao truyền Phúc Âm cho kẻ bần cùng... cứu chữa các tâm hồn đau khổ" (Lc 4,18), "tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất" (Số 8)

b. Tông Hiến "Sacrae Disciplinae Leges",

Đức Gioan Phaolô, Giám Mục, Tôi tớ của các Tôi tớ Chúa, đã ký ngày 25.01.1983, vào năm thứ năm của chức nhiệm Giáo Hoàng, để ban hành Bộ Giáo Luật hiện hành. Bộ Giáo Luật ngày 25.01.1983 ghi hai nhiệm vụ của Giáo Hội Công Giáo:

- Nhiệm Vụ Giáo Huấn (Quyển III);

- Nhiệm Vụ Thánh Hóa (Quyển IV).

… Thực vậy, Chúa Kitô không muốn phá hủy gia sản kỳ cựu của lề luật và các tiên tri đã được thành hình dần dần qua giòng lịch sử và kinh nghiệm của dân Chúa trong Cựu Ước. Đúng ra, Ngài đã kiện toàn nó (xem Mt 5,17), để cho gia sản ấy trở thành, dưới một hình thức mới mẻ và cao thượng hơn, một phần của gia sản Tân Ước…

… Bộ Giáo Luật này hoàn toàn phù hợp với bản chất của Giáo Hội, cách riêng đã được trình bày do giáo huấn chính thức của Công Đồng Vatican II xét trong toàn bộ và nhất là trong học thuyết về Giáo Hội. Thực vậy, phần nào Bộ Giáo Luật mới có thể được coi như một cố gắng phi thường để diễn dịch đạo lý của Công Đồng về Giáo Hội ra ngôn từ pháp lý…

c. Thông điệp của Đức Thánh Cha.

c1. - Ngày 25.12.2005, Lễ trọng Sinh nhật của Chúa ngày Lễ Kính Thánh Anrê Tông Đồ, tại Đền Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã ban hành thông điệp đầu tiên có tên ‘Deus Caritas Est’ (Thiên Chúa là Tình Yêu).

… Chúng ta đã tin vào tình yêu Thiên Chúa: người Kitô hữu có thể diễn tả quyết định căn bản của đời mình như thế. Là Kitô hữu không phải là hệ quả của một lựa chọn luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi có tính chất quyết định. Phúc Âm Thánh Gioan mô tả biến cố này trong những từ sau: « Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì... được sống muôn đời. » (Ga 3:16). Khi nhìn nhận vị thế trung tâm của tình yêu, đức tin Kitô giữ lại phần nòng cốt của niềm tin Do Thái, đồng thời cho đức tin này một chiều sâu và một chiều rộng mới. Những tín hữu Do Thái Giáo nhiệt thành thường cầu nguyện hàng ngày với những lời trong sách Đệ Nhị Luật diễn tả trọng tâm cuộc sống của họ: « Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. » Chúa Giêsu đã kết hiệp vào một giáo huấn duy nhất lề luật mến Chúa và yêu người được tìm thấy trong sách Lê Vi « Ngươi phải yêu tha nhân như chính mình » (Lv 19:18; x. Mc 12:29-31). Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x Ga 4:10), tình yêu giờ đây không chỉ là một ‘giới răn’; nhưng là lời đáp trả cho hồng ân tình yêu qua đó Thiên Chúa gần gũi với chúng ta. (Số 1)

Đó là một phần trong sự vươn lên đến những cấp độ cao hơn của tình yêu, và trong sự thanh luyện bên trong mà tình yêu giờ đây đang tìm kiếm hầu trở nên một chọn lựa dứt khoát, trong một ý thức gồm hai mặt: cả tính độc quyền (chỉ một người cụ thể mà thôi) lẫn sự ‘vĩnh viễn’. Tình yêu bao gồm toàn bộ hiện thực của cuộc sống trong mỗi chiều kích của nó, kể cả thời gian. Khó mà khác đi được, vì hứa hẹn của tình yêu hướng đến một mục tiêu chung cuộc: tình yêu nhắm đến sự vĩnh viễn. Tình yêu thật sự là ‘một trạng thái ngây ngất’, không phải trong ý nghĩa của một thoáng mê say, nhưng hơn thế nó như là một cuộc hành trình, một cuộc xuất hành ra khỏi cái tôi đóng kín hướng vào bên trong để vươn tới sự tự do qua việc cho đi chính mình, và như thế hướng đến sự khám phá đích thật chính mình và chung cuộc là sự khám phá về Thiên Chúa: « Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống » (Lc 17:33), như Chúa Giêsu đã nói trong suốt các sách Tin Mừng (x. Mt 10:39; 16:25; Mc 8:35; Lc 9:24; Ga 12:25). Trong những lời này, Chúa Giêsu vẽ ra con đường của chính Ngài, qua Thập Giá dẫn đến Phục Sinh: con đường của hạt lúa rơi xuống đất và chết đi, để sinh nhiều hoa trái. Bắt đầu từ những chiều kích thâm sâu trong lễ hy sinh của Ngài và trong tình yêu đạt đến mức viên mãn sau đó, Ngài vẽ ra cho chúng ta thấy qua những lời này đâu là yếu tính của tình yêu và thực sự đâu là yếu tính của chính cuộc sống. (Số 6)

... Nguyên tắc này là điểm khởi hành để hiểu những dụ ngôn lớn của Chúa Giêsu. Người nhà giàu (x Lc 16:19-31) van xin từ chốn ngục hình của mình để anh em ông được biết về những gì xảy đến cho những ai bỏ mặc người nghèo trong cùng bách. Chúa Giêsu xem lời kêu cầu này như một lời cảnh cáo để giúp chúng ta quay về chính lộ. Dụ ngôn người Samaritanô Nhân Lành (x Lc 10:25-37) đưa ra hai điều minh bạch hóa hết sức quan trọng. Cho đến lúc đó, khái niệm ‘anh em’ được hiểu là ám chỉ đặc biệt đến những người đồng hương và những khách ngoại kiều cư trú trên đất Israel; nói cách khác, đến một cộng đoàn khép kín của một đất nước hay một dân tộc chuyên biệt. Giới hạn này giờ đây bị hủy bỏ. Bất cứ ai cần đến tôi và bất cứ ai tôi có thể giúp đều là anh em tôi. Khái niệm ‘anh em’ giờ đây được hoàn vũ hóa, tuy thế nó vẫn giữ nguyên tính cụ thể. Dù được nới rộng ra tới toàn nhân loại, nó không bị giản lược thành một biểu thị tình yêu khái quát, trừu tượng và không đòi hỏi, nhưng là những lời mời gọi cho dấn thân thực tiễn của tôi ở đây và ngay bây giờ. Giáo Hội có nghĩa vụ diễn dịch luôn mới mẻ quan hệ này trong mối tương quan với đời sống của các tín hữu ở mọi nơi mọi lúc. Cuối cùng, chúng ta phải đặc biệt nhắc đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Sau Cùng (Mt 25:31-46), trong đó tình yêu trở thành tiêu chuẩn cho quyết định chung cuộc xem cuộc sống của một con người là xứng đáng hay không. Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25:40) Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa. (Số 15)

Thánh Augustinô đã viết: « Nếu bạn thấy tình bác ái thì bạn nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi ». Trong những giòng suy tư trên, chúng ta đã hướng về Đấng bị đâm thâu (x. Ga 19,37; Dcr 12,10), để nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa Cha, Đấng do tình yêu thôi thúc (x. Ga 3,16), đã sai Con yêu dấu duy nhất của mình đi vào thế giới để cứu chuộc con người. Khi chết trên Thập giá - như thánh Gioan kể lại - Đức Giêsu đã ‘trao Thần Khí’ (x. Ga 19,30), báo trước quà tặng là Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh (Ga 20,22). Như thế đã ứng nghiệm lời hứa về ‘những dòng sông mang nước hằng sống’ sẽ tuôn chảy từ tâm hồn các tín hữu, qua việc đổ tràn của Chúa Thánh Thần (Ga 7,33-38). Quả thế, Chúa Thánh Thần là nguồn sức mạnh bên trong làm hoà nhập trái tim của họ với trái tim của Đức Giêsu và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như Đức Giêsu đã yêu thương họ, khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1; 15,13) và nhất là, khi Người trao ban mạng sống Người cho chúng ta (Ga 13,1; 15,13). (Số 19)

c2. Ngày 30.11.2007, ngày Lễ Kính Thánh Anrê Tông Đồ, tại Đền Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã ban hành thông điệp thứ hai mang tên ‘Spe Salvi’ (Được cứu rỗi nhờ Đức Tin).

… Thật vậy, “Đời đời” gợi cho chúng ta ý tưởng về điều gì đó không chấm dứt, và điều đó làm chúng ta lo sợ; “sự sống” khiến chúng ta nghĩ đến cuộc sống mà chúng ta biết và yêu mến nó, cũng như không muốn đánh mất đi, dù rằng thường khi nó mang lại nhiều phiền nhiễu hơn là thỏa mãn, đến mức một mặt chúng ta muốn, một mặt chúng ta lại không muốn cuộc sống đó. Hãy tưởng tượng chúng ta đang được đứng bên ngoài cõi tạm đang giam cầm chúng ta và ở một mức nào đó cảm thấy được rằng đời đời không phải là một chuỗi vô hạn những ngày tháng kế tiếp nhau của thời gian, nhưng là điều gì đó giống giây phút tột cùng của thỏa mãn hơn, trong đó tổng thể ôm lấy chúng ta và chúng ta ôm lấy tổng thể - chúng ta chỉ có thể thử nghĩ như vậy. Nó giống như là nhào vào đại dương của tình yêu vô hạn, một thời khắc trong đó thời gian – trước và sau - không còn hiện hữu nữa. Chúng ta chỉ có thể nắm bắt ý tưởng là một thời khắc như vậy là cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, một sự nhận chìm mới mẻ chưa từng có vào trong cõi bao la của nhân sinh, trong đó chúng ta ngập tràn niềm vui. Đó chính là cách Chúa Giêsu đã diễn tả trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16:22). Chúng ta cần suy tư theo những dòng này nếu chúng ta muốn hiểu đối tượng của niềm hy vọng Kitô Giáo, muốn hiểu về điều mà đức tin của chúng ta, chất Kitô hữu của chúng ta, khiến chúng ta trông mong. (Số 12)

Nhưng muốn đến được với Người, chúng ta cũng cần đến những ánh sáng gần bên - những người đang chiếu rõi ánh sáng của Chúa và dẫn đường cho chúng ta. Còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao của hy vọng cho chúng ta? Khi Mẹ “Xin Vâng” Mẹ đã mở cửa thế giới của chúng ta cho chính Thiên Chúa; Mẹ trở nên Hòm Bia Thiên Chúa sống động, trong đó Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta, và dựng lều ở giữa chúng ta (xem Ga 1:14)

… chúng ta phải làm hết sức chúng ta để vượt thắng đau khổ, nhưng loại trừ hoàn toàn đau khổ khỏi thế giới này là việc vượt quá tầm tay chúng ta. Đơn giản là vì chúng ta không thể loại bỏ sự giới hạn của chúng ta và vì không ai trong chúng ta có khả năng loại trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi, như chúng ta thấy, vốn là nguồn mạch thường hằng của đau khổ. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể làm điều ấy: chỉ mình một Thiên Chúa đã tự ý đi vào lịch sử khi làm người và chịu đau khổ trong lịch sử. Chúng ta biết rằng vị Thiên Chúa ấy hiện hữu, và vì thế chúng ta biết rằng quyền năng “xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29) đang hiện hữu trong thế giới. Nhờ đức tin vào sự hiện diện của quyền năng ấy, hy vọng về một thế giới được chữa lành đã nổi lên trong lịch sử. Tuy nhiên, đó là hy vọng—chưa được hoàn thành; hy vọng đem lại cho chúng ta sự can đảm để đặt mình vào phía sự thiện dù sống trong những hoàn cảnh dường như vô vọng, với niềm xác tín rằng, bao lâu giòng lịch sử bên ngoài được đề cập đến, quyền lực tội lỗi vẫn tiếp tục hiện diện cách kinh hoàng. (Số 36)

d. Văn kiện của các Thánh Bộ, Hội Đồng Giáo Hoàng.

Ngày 01.05.2000, Lễ kính Thánh Giuse Thợ, với trách vụ Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ Công Lý và Hoà Bình, Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận, Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, đã ký ban hành ‘Sưu Tập những Bản Văn của Huấn Quyền về Học Thuyết Xã Hội Công Giáo’. Trong bản Sưu Tập nầy, Đức Cha đã thu nhặt từ các văn kiện đang có trong kho tàng Giáo huấn về xã hội và viết thành 11 chương về các đề tài: Bản chất Học thuyết Xã hội Công giáo, Con Người, Gia Đình, Trật tự Xã hội, Vai trò Nhà Nước, Kinh tế, Lao Động và Tiền Lương, Sự Nghèo đói và Đức Bác ái, Môi trường, Cộng Đồng Quốc tế và Chương Kết. Văn kiện này được dùng làm căn bản cho việc hoàn thành « Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo Hội ».

Qua ‘Lời Giới Thiệu’ của Đức Hồng Y Angelo Sodano, cựu Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, gởi Đức Hồng Y Renato Raffaele Martino, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ Công Lý và Hoà Bình, đã viết: « … 2. Tài liệu này cũng trình bày giá trị của Học thuyết Xã hội Công giáo như một phương tiện để rao giảng Tin Mừng (x. Centesimus Annus, số 54), vì tài liệu này đặt con người và xã hội trong mối tương quan với ánh sáng Tin Mừng. Những nguyên tắc của Học thuyết Xã hội Công giáo đặt nần tảng trên luật tự nhiên, vì thế được xác nhận và cũng cố trong niềm tin của Giáo Hội nhờ Tin Mừng của Đức Kitô… »

3. THƯ CHUNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC.

Hội đồng Giám Mục Việt-Nam đã họp Đại hội từ ngày 24.04 đến 01.05.1980 tại Hà nội. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ ‘Venerabilium Nostrorum’ thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt-Nam ngày 24.11.1960, các Đức Giám Mục Việt-Nam (thiếu Đức Cha P.X Nguyễn văn Thuận) mới có dịp họp chung. 33 Đức Giám Mục đã có thư gởi toàn thể Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân cả nước ngày 01.05.1980. Trong đó, Hội đồng Giám mục Việt-Nam xác định Đường Hướng Mục Vụ được xây dựng dựa trên căn bản:

A.- Một Hội Thánh vì Loài Người. Sứ mạng của Hội Thánh:

a) không những là đem Phúc Âm và ân sủng của Chúa Kitô đến cho nhân loại, mà còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế (Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân 1)

b) là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để phục vụ tất cả loài người. Đúng như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã giải thích trong thông điệp ‘Đấng Cứu chuộc con ngườĩ’ (Redemptor Hominis) rằng: ề Con người là con đường của Hội Thánh Ừ, nghĩa là tất cả mọi con đường của Hội Thánh đều dẫn tới con người (Đấng Cứu chuộc con người, 14). Đây cũng là điểm gặp gỡ giữa Hội Thánh và xã hội trần thế, giữa sứ mạng của Hội Thánh và xã hội trần thế, vì ‘dù có tin hay không tin, mọi người đều phải góp phần xây dựỉng thế giới cho hợp lý, vì họ cần chung sống trong thế giới này (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Vui Mừng và Hy Vọng, 21, 6).

B.- Hội Thánh trong Lòng Dân Tộc.

a)- Để sống trung thành với bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, chúng ta phải là Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt-Nam nghĩa là:

- Gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh toàn cầu;

- Gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị đại diện của Chúa Kitô, người được Chúa giao trách nhiệm ‘chăn dắt đoàn chiên của Nguời’ (Gioan 21,15-18), và ‘làm cho anh em vững mạnh’ (Luc 22,32).

- Gắn bó với nhau trong tình huynh đệ theo kiểu mẫu Hội Thánh thời sơ khai: « Chỉ có một tấm lòng, một linh hồn, không một người nào nói là mình có của riêng nhưng đối với họ, mọi sự là của chung» (Cv. 4,32, 2,42).

- Trung thành với tinh thẩn của Công đồng Vatican II là tinh thần cởi mở, đối thoại và hòa mìnhvới cộng đồng xã hội mình đang sống.

Để đạt được mục đích ấy, trước hết chúng ta phải không ngừng hoán cải lương tâm và thay đổi cách sống của mọi cá nhân cũng như của mỗi cộng đoàn Dân Chúa trong Hội thánh ở Việt-Nam sao cho phù hợp với Phúc Âm hơn.

b)- Sự gắn bó và hòa mình với Dân Tộc và Đất Nước đưa tới những nhiệm vụ cụ thể mà chúng ta có thể tóm lại trong hai điểm chính:

- Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc;

- Xây dựng trong Hội thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp với truyền thống Dân Tộc.

C.- Các Giám Mục cũng đã loan báo việc thông qua ‘Qui chế Hội đồng Giám mục Việt-Nam’

Trong Chương này, chúng ta sẽ có dịp nhắc đến Thư Chung Hội đồng Giám mục Việt-Nam năm 2007 về ‘Giáo Dục Kitô Giáo’

Chúa Con và Tin Mừng Cứu Độ.

Đường lối sư phạm của Chúa Cha cốt là để chuẩn bị cho Chúa Con đến “dạy dỗ loài người mong chờ và đón nhận ơn cứu độ”. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định mình “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 6, 14). Muốn nắm bí quyết sự sống đích thật, con người phải đến thụ huấn tại trường học của Chúa Giêsu. Nhưng học nơi trường Chúa Giêsu không chỉ là học làm người theo nghĩa nhân bản mà còn là học “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

4. THƯ MỤC VỤ GIÁM MỤC.

Trong Chương này, chúng ta sẽ có dịp nhắc đến bài ‘Hiệp Nhất để Xây Dựng Hiệp Nhất và Loan Báo Tin Mừng’ của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Sài-gòn, đăng trong ‘Hội Đồng Mục Vụ’, phát hành nhân dịp ‘Hội Ngộ Niềm Tin Rôma 2003’ và Thư Mục vụ 2002-2003 của Đức Cha Emile Marcus, Tổng Giám mục Toulouse (Pháp quốc), về đề tài: ‘Linh mục và Giáo dân trong Giáo phận’.

- Ghi Chú: Các đoạn được trích trong các văn bản để chứng minh căn bản Tin Mừng mà các tác giả đã dựa vào khi viết các văn bản này.

(Còn tiếp)