HAI HOÀNG TỬ TRIỀU LÍ VIỆT NAM ĐÃ VƯỢT BIÊN TỚI ĐẠI HÀN TỪ THẾ KỈ 12 VÀ 13 (bài 1)



Vị trí nước ta khá xa nước Cao Li (Triều Tiên và Đại Hàn ngày nay), nhưng cùng chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa rất sâu sắc, nhất là về văn tự và nền đạo đức Khổng Mạnh. Cũng vì ‘thiên triều’ Trung Hoa là trung tâm các phiên quốc phải quy về, cho nên sứ giả nước Việt đã từng gặp gỡ sứ giả Cao Li. Chuyện kể học giả kiệt xuất Lê quý Đôn thi đậu tiến sĩ, làm quan đời vua Lê Hiển Tông; năm 1760-1762, ông đi sứ Tầu, đã cùng các danh sĩ Tầu và sứ thần các nước Nhật Bản, Cao Li xướng họa và được họ khâm phục. Riêng vị sứ thần Cao Li là trạng nguyên Hồng Khải Hi đã tặng quan sứ nước Việt một chiếc quạt và một bài thơ. Trạng nguyên Lê Quý Đôn làm thơ tặng lại:

Tản Viên khái tự Tùng sơn tú

Áp Lục ưng đồng Nội thủy trường…

(Núi Tùng của Cao li và núi Tản Viên nước Việt cùng khoe sắc. Sông Áp Lục của Cao li và sông Nhị Hà nước Việt cùng nối dài..). Trạng nguyên Hồng Khải Hi còn đề tựa cho bộ sách Quần Thư Khảo Biện của Lê Quý Đôn như sau: ‘Chọn lấy trong thư tịch các đời mà khảo đính, biện luận trên dưới vài nghìn năm, cái được cái mất, ai được ai thua, như thế này thì an, không như thế này thì nguy, không điều nào là không soi xét và tính đến; lật đổ những xét đoán đã định trước đây cũng có, phê phán những kẻ thừa tiếp sai lầm cũng có, cách lí giải tinh diệu tràn đầy trên giấy mực…’

Đến sau này, vào những năm cao điểm của cuộc chiến Việt Nam 1966-1970, có 2 sư đoàn của Nam Hàn sang tham chiến ở miền Trung Việt Nam. Đó là sư đoàn Mãnh Hổ và sư đoàn Bạch Mã. (Danh hiệu sư đoàn Bạch Mã có liên quan tới một nhân vật trong lịch sử Việt Nam và Cao Li, như sẽ thấy trong bài này). Đương nhiên đã xẩy ra hàng trăm cuộc hôn nhân giữa những chiến binh Đại Hàn và những cô gái Việt. Do đó ngay từ hồi thập niên 1970, nhiều cô gái Việt đã theo chồng về làm dâu bên Đại Hàn rồi.

Ngày nay, từ thập niên 1980, khi kinh tế bắt đầu ‘mở cửa’, con rồng Nam Hàn đã tràn vào làm ăn lớn ở Việt Nam. Họ đến làm ăn nhưng cũng đã mang theo cả những sản phẩm văn hóa, nhất là phim ảnh. Người Việt bây giờ chẳng còn xa lạ gì với con ngưòi và đất nước Đại Hàn nữa.

Với những chuyện kể trên, chỉ là những diễn biến bình thường xẩy ra giữa hai quốc gia, không có điều chi mới lạ!

Sự thực không phải thế. Ẩn nấp dưới dòng lịch sử lạnh lùng, đã phát hiện câu chuyện kì thú về hai vị hoàng tử triều nhà Lí Việt Nam là ‘thuyền nhân’ tị nạn, phiêu bạt tới nước Cao li mãi hồi thế kỉ 12, 13!

Trước 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi có dịp quen biết 2 sinh viên Đại Hàn sang học tại Đại học Sài Gòn với học bổng của Cơ quan Nghiên Cứu Văn Hóa Á Châu: một tên là Kim học văn học Việt Nam. Anh tâm sự học không hiểu mấy, nhất là môn chánh tả Việt ngữ của Giáo sư Lê Ngọc Trụ cho nên anh đang mua sách vở và chuẩn bị về nước. Người thứ hai là chị Lee. Chị nhận giáo sư Nghiêm Thẩm đỡ đầu luận văn cao học sử với đề tài So Sánh Hậu Quả Việc Cấm Đạo Giữa Đại Hàn Và Việt Nam. Chị Lee đọc đã lâu ở thư viện Hội Nghiên Cứu Đông Dương (trong khuôn viên Thảo Cầm Viên Sài Gòn) mà chưa viết gì. Chúng tôi làm quen và biết chị đang lúng túng về đề tài, cho nên đã thử đề nghị với chị xin Giáo sư Nghiêm Thẩm đổi đề tài thành So Sánh Việc Cấm Đạo Giữa Việt Nam Và Đại Hàn (không tự hạn chế quá chặt chẽ vào hậu quả của việc cấm đạo) để đề tài mở rộng hơn, dễ viết hơn. Chị đã làm như vậy và rất hài lòng. Từ đó chúng tôi trở nên thân hơn. Chị thành thật nói ở cư xá Thanh Quan các chị sinh viên Việt Nam ăn ít quá khiến chị mắc cở không dám ăn nhiều, nên cứ phải sang tiệm New Seoul ở đường Kì Đồng để ăn thêm! Rồi tình cờ một hôm chị nói chị là hậu duệ dòng họ Lí Việt Nam! Lúc đó chúng tôi rất ngạc nhiên nhưng phần vì đang chú tâm vào một công việc, phần vì ‘tối dạ’ nên đã không hỏi chị cho ra câu chuyện đàng hoàng mà chỉ kể lại với Giáo sư Nghiêm Thẩm. Giáo sư đã biết chuyện này cho nên ông thản nhiên bảo chính ông được Trung tướng Phạm Xuân Chiểu, hồi sang làm đại sứ bên Hàn quốc, nhờ làm cố vấn quay một cuốn phim tài liệu, nói về mối quan hệ Việt-Hàn từ thế kỉ 12, 13 tới ngày nay, nhưng vì tình hình chuyển biến luôn nên chưa thực hiện được.

Không ngờ trong lịch sử nước ta lại có những chuyện li kì đến thế! Quả đây là câu chuyện lịch sử lí thú, ít ai biết tới.

Thế rồi tình hình miền Nam sang đầu năm 1975 biến chuyển mau lẹ và sụp đổ tất cả… Mãi tới thập niên 1990, chúng tôi mừng rỡ được đọc vài bài có nhắc tới họ Lí Việt Nam tại Đại Hàn.

Truớc hết, trong bài Niềm Hãnh Diện Chung viết tháng 9 năm 1988, nhà văn Trà Lũ kể sơ qua chuyện hoàng tử Lí Long Tường cùng những người trong hoàng tộc nhà Lí đã vượt biên sang Cao Li năm 1226 để trốn thoát bàn tay của thái sư Trần Thủ Độ. Nhưng nhà văn Trà Lũ cho rằng hoàng tử Lí Long Tường đã đổ bộ lên tỉnh Phu San miền cực Nam của Cao Li. Rồi vì sau có công chống quân Mông Cổ cho nên hoàng tử được vua Cao Li trọng đãi. Khi mất, vua cho dựng tượng đồng, đề là Bạch Mã Tướng Công, anh hùng dân tộc đuổi giặc Mông Cổ. (Trà Lũ. Miền Đất Hạnh Phúc. Việt Pub.. 1989, trang 170).

Sau đó, trong cuốn Việt Nam Huyết Lệ Sử, do Đồng Hướng xuất bản năm 1996, các trang 866-869, tác giả Cao Thế Dung cũng kể chuyện hoàng tử Lí Long Tường vượt biển ‘đến một miền ven biển giá lạnh sau này là Lý Hoa Trang hay Lý Hoa Sơn, vua Triều Tiên cho định cư tại đây’. Tác giả chưa biết là có tới 2 đoàn người Việt họ Lí vượt biển sang tị nạn tại Cao Li với nguyên do khác nhau, một giạt vào bờ biển phía Nam, một giạt vào bờ biển phía Bắc nước này và cách nhau tới 76 năm. Cả hai tác giả Trà Lũ và Cao Thế Dung kể chuyện mà không cho biết đã căn cứ vào đâu.

Còn bài Trang Sử Bị Bỏ Quên của Trần Đình Sơn đăng trên báo Người Việt số ra ngày 02 tháng 02 năm 2002, kể chuyện hoàng tử Lí Long Tường đưa 3 thuyền buồm lớn vượt biển: một chiếc giạt vào lãnh thổ Trung Hoa, 2 chiếc còn lại ‘dạt đến tận tỉnh Pusan miền Nam nước Cao Ly’. Tác giả cho biết ông kể chuyện căn cứ vào sử liệu do một sinh viên Đại Hàn du học tại Luân Đôn cung cấp, vào lịch sử triều nhà Lí, vào lời của các nhân chứng từng viếng thăm các di tích lịch sử và các bài báo. Thế nhưng tác giả Trần Đình Sơn cũng chỉ biết có một chuyến vượt biên và đã lẫn lộn chuyến vượt biên thứ nhất vào năm 1150 của hoàng tử Kiến Hải vương Lí Dương Côn với chuyến vượt biên thứ hai vào năm 1226 của Kiến Bình vương Lí Long Tường. Trần Đình Sơn không đếm xỉa gì tới sự mâu thuẫn lộ liễu về địa dư nước Cao Li. Nước Cao Li là một bán đảo dài, chỉ có miền Bắc tiếp giáp với lục địa. Khi xâm lăng Cao Li, bộ binh Mông Cổ đã vượt qua biên giới phía Bắc, đánh lần xuống kinh đô nằm bên sông Han ở phía Tây Trung bộ nước Cao Li. Không thể lẫn lộn mặt trận vùng núi Hoa Sơn thuộc vùng này với lãnh thổ tỉnh Pusan nằm mãi dưới cực Đông Nam Cao Li. Hơn nữa, tại sao tác giả Trần Đình Sơn lại quả quyết năm 1226 là năm vượt biên mà ‘Hoàng tử Lý Long Tường đang còn ở tuổi niên thiếu’? Thực sự vị hoàng tử này sanh năm 1174, Giáp Ngọ, niên hiệu Chính long Bảo ứng. Năm vượt biên 1226, hoàng tử đã được 52 tuổi.

Điểm lại, chỉ có bài viết của Bs.Trần Đại Sỹ trên Văn Nghệ Tiền Phong số 560 mới cho biết rõ ràng hơn về sự kiện lịch sử này với nhiều chi tiết và bằng chứng cụ thể.

Vào thời thịnh trị của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng thống Đại Hàn là Lí Thừa Vãn đã viếng thăm chính thức Việt Nam Cộng Hòa ngày 6 tháng 11 năm 1958 để đáp lễ chuyến viếng thăm Hàn quốc của tổng thống Ngô Đình Diệm năm trước vào ngày 17 tháng 9 năm 1957. Nhân dịp này, Lí Tổng thống đã nhận tổ tiên của ông là người Việt Nam, ông còn nhờ Ngô tổng thống tìm hậu duệ họ Lí và tổng thống Ngô Đình Diệm đã cử thẩm phán Lí Quốc Sỉnh qua Nam Hàn để tìm dòng dõi họ Lí Việt Nam.

Chính vì sự việc đáng ngạc nhiên này mà sinh viên y khoa Trần Đại Sỹ, lúc đó 19 tuổi, đã viết thư hỏi thẳng sứ quán Nam Hàn ở Sài Gòn để biết thêm tin tức. Hơn một tháng sau, sứ quán đã trả lời: ‘Tổng thống Lí Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình Vương Lý Long Tường. Kiến Bình Vương là con thứ 6 của vua Lý Anh Tông. Người cùng tông tộc sang Cao ly vào đầu thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn’.

Ngay năm sau, 1959, sinh viên Trần Đại Sỹ tình cờ tìm thấy Tập san Sử Địa của Nhật Bản, số 2 ra năm 1941 để tại thư viện Paris có lời Bạt về nguyên tổ họ Lí ở Đại Hàn như sau: ‘Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến Trung thứ nhì đời vua Thái tôn nhà Trần. Biết mình là con thứ sáu của vua Lí Anh tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau cũng bị Trần Thủ Độ hãm hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao li’.

Hơn 20 năm sau, năm 1980, nhân chuyến đi dự hội nghị y khoa tại Hàng Châu (Trung Hoa) trong phái đoàn của nước Pháp, cũng chính Bs.Trần Đại Sỹ đã có duyên được gặp 2 nữ bác sĩ đến từ Bắc Hàn, đó là Bs.Lí Chiếu Minh quê ở Hùng Xuyên (Hunchon) và Bs.Lí Diệp Oanh quê ở Thuận Xuyên (Sunchon). Hai nữ bác sĩ Bắc Hàn này đều tự nhận là hậu duệ của Kiến Bình Vương Lí Long Tường đến từ Việt Nam vào thế kỉ 13. Nhìn nhận nhau vốn là ‘đồng bào’ cả ba trở nên thân thiết. Chiếu Minh và Diệp Oanh đã mời Bs.Trần Đại Sỹ, nhân tiện, đi thăm Bắc Hàn. Nhờ có giấy thông hành Pháp và danh nghĩa đi nghiên cứu nhân sâm, bác sĩ họ Trần dễ dàng được chấp nhận nhập cảnh và được sứ quán Pháp cung cấp đủ mọi phương tiện.

Tại Hùng Xuyên cũng như tại Thuận Xuyên các chi họ Lí gốc gác Việt Nam đã xin phép chính quyền để tụ họp nghe bác sĩ Trần Đại Sỹ kể chuyện lịch sử thời nhà Lí (Ông dùng tiếng Quan thoại, Chiếu Minh và Diệp Oanh phiên dịch). Có cuộc hội họp đông tới 700 người.

Bs.Diệp Oanh đã hướng dẫn Bs.Trần Đại Sỹ đi thăm những vùng đất thiêng liêng và những di tích hiện còn được bảo tồn kĩ lưỡng, như: cửa biển Phú Lương Giang nơi hạm đội của Kiến Bình Vương cập bến năm xưa, miền đất Ung Tân nơi họ Lí được định cư đầu tiên, lăng ngài Kiến Bình Vương trên ngọn đồi Juhang thuộc xã Đỗ Môn (Tômơ ki) và Vọng Quốc Đài trên Quảng Đại Sơn nơi Vương lên đó để hướng vọng cố quốc.

Các chi tộc còn đưa gia phả viết bằng chữ Nho tới để hỏi han thêm về những chi tiết chưa rõ. Trong gia phả họ Lí ở Thuận Xuyên có đôi câu đối như sau:

Thập bát anh hùng giai Phù Đổng,

Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê Linh

Câu thứ nhất vinh danh 18 vị tướng đời vua Lí Nhân Tông đã hi sinh trong chiến tranh vệ quốc chống quân nhà Tống. Câu thứ hai vinh danh 3000 nữ chiến sĩ dưới quyền nữ tướng Thiên Ninh công chúa (tức Bà Chúa Kho) đã anh dũng chống lại quân nhà Tống dưới quyền 2 danh tướng Quách Qùy và Triệu Tiết.

Tới năm 1983, Bs.Trần Đại Sỹ đi Nam Hàn, ông nhận thấy tại đây dòng họ Lí gốc Việt không đông như ở miền Bắc. Hầu như không tìm thấy dấu vết nào về cuộc vượt biên của Kiến Bình Vương Lí Long Tường ở đây, bởi vì hoàng tử Lí Long Tường đã dạt vào bờ biển miền Bắc Cao li, chứ không phải ở miền Nam. Nhưng chính tại đây ông đã may mắn khám phá ra thêm một sự kiện lịch sử li kì, đó là có một dòng họ Lí Việt Nam khác nữa cũng đã vượt biển sang đây tị nạn. Người đầu tiên cho ông biết sự việc lạ lùng này là ông Lí Gia Trung. Ông Lí Gia Trung xác nhân gốc gác mình là người Việt, tổ tiên là Kiến Hải Vương Lí Dương Côn, ông không phải là dòng dõi Kiến Bình Vương Lí Long Tường.

Lời xác nhận của ông Lí Gia Trung đã được khám phá của giáo sư Phiến Hoằng Cơ hỗ trợ.

Cuối năm 1996, Gs. Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke), nhà nghiên cứu phả hệ nổi tiếng ở Nam Hàn, sau khi nghiên cứu gia phả mang tên Tinh Thiện Lý Thị Tộc Phả được lưu trữ tại thư viện quốc gia Hán Thành rồi phối hợp với bộ sử Cao Li, đã công bố phát hiện dòng họ Lí gốc Việt Nam thứ hai tại Đại Hàn. Theo Giáo sư, dòng họ Lí tại Tinh Thiện, thuộc đạo Giang Nguyên, phía Đông Nam Đại Hàn ngày nay là con cháu của hoàng tử Lí Dương Côn thuộc triều Lí Việt Nam (1010-1225). Lý Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba, con vua Càn Đức, ra đi vì sự đe dọa của nước Kim Đối với nước Tống vào năm 1115. (Càn Đức là tên húy của vua Lí Nhân Tông, con trưởng vua Lí Thánh Tông, mẹ là bà Linh Nhân Thái hậu). Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng hậu duệ đời thứ 6 của hoàng tử Lí Dương Côn là Lí Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) từng đảm trách những chức vụ quan trọng trong lịch sử Cao Li. Thời vua Nghị Tông (Ui-jiong 1146-1170) Lí Nghĩa Mẫn được phong chức Biệt trưởng. Vua Minh Tông (Mycong 1170-1179) thăng cho ông là Thượng tướng quân (1174), là Tây Bắc Bộ binh Mã sứ (1178) và chức Tể tướng trong suốt 14 năm (1183-1196). Tới năm 1196, tướng Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) làm chính biến đã giết cha con tể tướng Lí Nghĩa Mẫn. Sở dĩ dòng họ Lí Việt Nam này còn tồn tại tới nay là nhờ người anh trai của tể tướng Lí Nghĩa Mẫn và gia đình được thoát nạn.

Về thành tích sáng chói của nhân vật Lí Nghĩa Mẫn trong lịch sử nước Cao Li chúng ta không thể có ý kiến gì khác. Song có đôi điều thuộc gia phả chưa sáng tỏ. Thứ nhất, Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng hoàng tử Lí Dương Côn vượt biển tị nạn vì nước Kim xâm lược nước Tống vào năm 1115 là điều khó hiểu. Hoàng tử Lí Dương Côn là người Đại Việt, nếu nước Kim có xâm lăng nước Tống thì còn cách quá xa nước Đại Việt, tại sao Lí hoàng tử lại phải vượt biển đi tị nạn. Vả lại nếu nói thời điểm đi tị nạn là năm 1115 là rơi đúng vào thời thịnh trị của vua Lí Nhân Tông (1072-1127), lúc đó binh lực nước ta rất hùng mạnh. Năm 1075, anh hùng Lí Thường Kiệt cùng danh tướng Tôn Đản vâng mệnh đưa trên 10 vạn tinh binh đánh sang châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông, Quảng Tây) trong sách lược ‘tiên hạ thủ vi cường’ của triều đình nhà Lí để đập tan ý đồ xâm lăng Đại Việt của triều nhà Tống bên Trung Hoa. Vì thế, lại càng không có lí do để mà phải đi tị nạn xâm lăng. Điều chưa sáng tỏ thứ hai là việc gia phả nói danh nhân Lí Nghĩa Mẫn là hậu duệ đời thứ sáu của hoàng tử Lí Dương Côn, được vua Nghị Tông (Ui-jiong) phong chức Biệt trưởng vào năm 1170 xem ra có sự nhầm lẫn. Bởi vì theo sử Việt, năm 1117 vua Lí Nhân Tông nhận 5 đứa cháu, con của 5 người em, làm con nuôi và chọn cháu Dương Hoán lên 2 tuổi, con người em là Sùng Hiền hầu, làm hoàng thái tử, còn 4 cháu con của 4 người em khác được phong làm thái tử, trong đó người cháu thái tử thứ 3 chính là hoàng tử Lí Dương Côn. Chắc là hoàng tử Lí Dương Côn chỉ ngang hoặc kém hoàng thái tử Lí Dương Hoán (tức là vua Thần Tông 1128-1138) một vài tuổi. Vậy vào năm 1170 khi hậu duệ của ông là Lí Nghĩa Mẫn được vua Nghị Tông (Ui-jiong) phong chức Biệt trưởng bên Cao Li thì chính hoàng tử Lí Dương Côn (nếu còn sống) khoảng 54 tuổi, làm gì đã có hậu duệ 6 đời. Về điểm này, Bs. Trần Đại Sỹ cho rằng danh nhân trong lịch sử Cao Li Lí Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) chính là con của hoàng tử Lí Dương Côn và là hậu duệ đời thứ 6 kể từ vua Lí Thái Tổ nhà Lí nước Đại Việt.

Còn tiếp

Kỳ tới: Cuộc vượt biên thứ nhất và thứ hai