THÁNH TƯỢNG THÁNH GIAON BOSCO TỚI ÚC CHÂU: DON BOSCO CHA VÀ THẦY CỦA GIỚI TRẺ

LỜI MỞ ĐẦU

Nhân dịp thánh tượng Don Bosco có khảm cánh tay phải của Ngài trong pho tượng đang chu du trên 130 quốc gia sẽ tới Úc Châu. Nhân dịp này chúng ta học hỏi về vị thánh đặc biệt được gọi là “Cha và Thầy của Giới trẻ”:

Xuyên suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã gởi các ngôn sứ và các Thánh tới nhắc bảo và hướng dẫn Dân Ngài. Thiên Chúa gởi các Thánh tới để khai sinh các dòng tu nam nữ đáp ứng các nhu cầu đặc biệt. Thiên Chúa đã gởi các vị tử đạo đến để làm chứng nhân cho đức tin, và những con người như Don Bosco, để lo cho giới trẻ.

Vào đầu thế kỷ XIX, thành phố Tôrinô thay đổi, tội ác nở rộ. Khi còn trẻ, Don Bosco dấn thân làm việc giữa những tội phạm và những thanh thiếu niên hè phố.

Tôrinô của thế kỷ 19 cũng giống như nhiều thành phố tại Châu Mỹ và Châu Âu, đã thay đổi từ một trung tâm tỉnh lỵ vắng vẻ thành một thành phố công nghiệp náo nhiệt. Quả vậy, nhà máy mỗi ngày mỗi mọc lên, dòng người từ những nông trại bắc Ý và từ bên kia thung lũng dãy Alpe mỗi ngày mỗi tuôn về Tôrinô để tìm việc làm.

Lớp trẻ lao động vừa nhập cư này sống chen chúc nhau trong những phòng trọ ngột ngạt và dơ bẩn, có khi sáu hoặc tám người một phòng. Tội ác, bệnh tật và những tệ nạn nở rộ. Đối với hầu hết cư dân khu ổ chuột này thì Thượng Đế chỉ còn là ký ức nhạt nhòa gắn liền với những trang trại hoặc những cửa hàng bơ sữa mà họ đã bỏ lại để lên thành phố. Các băng đảng đã thành hình trên các đường phố và thường tràn vào những khu khá giả hơn của Tôrinô, thực hiện hàng loạt các vụ trộm cướp, đôi khi cả giết người. Chính quyền thành phố đã tăng cường lực lượng cảnh sát. “Ngôi làng đáng yêu nhất thế giới” nay đã có 150.000 cư dân, hãnh diện có không dưới bốn nhà tù cỡ lớn mà phần nhiều tù nhân chỉ là những nam thanh thiếu niên, có em chưa đến tuổi thành niên.

CON NGƯỜI DON BOSCO

Một vấn đề mới gây thêm khó chịu cho người dân Tôrinô, đó là sự xuất hiện của vị linh mục chẳng giống ai. Từ mấy năm qua, vị giáo sĩ này được biết đến là Don Bosco hay cầm đầu một đám trẻ nghèo vừa đi vừa ca hát và la ó khắp các ngả đường thanh lặng của Tôrinô. Khoác trên mình một cái áo vá dính bột, đi đôi giầy lao động nhà nông, vị linh mục này đã bắt đầu mọi việc với một nhúm trẻ. Nhúm trẻ buổi đầu kia nay đã nở lớn thành 400 đứa. Dầu chúng chẳng gây ra tội gì, nhưng người ta cứ ái ngại về khả năng kiểm soát của Don Bosco đối với đạo quân nhóc tì này.

Chính quyền, các chủ báo và những kẻ thù sợ rằng Don Bosco đang gầy dựng quyền lực chính trị tương lai cho mình. Vào thời Don Bosco, nước Ý chưa thống nhất. Ý được chia làm bảy lãnh thổ khác nhau. Áo và Pháp cai trị tới nửa đất Ý. Lãnh thổ giáo triều do Đức Thánh Cha Piô IX cai quản nằm giữa phần trung tâm đất Ý. Đức Piô IX không có quân đội nên đã từ chối hỗ trợ cuộc chiến đánh đuổi quân Áo xâm lăng. Nhiều người Ý cho rằng Đức Thánh Cha đã bênh vực ngoại bang, nên coi ngài là thù địch của mối đoàn kết dân tộc. Đợt triều cường chống đối giáo sĩ vốn đã tích tụ lâu nay đã càn quét khắp nơi.

Những kẻ thù của Giáo hội đã đuổi các giám mục ra khỏi giáo phận, đàn áp các cơ sở tôn giáo, đầy ải các linh mục tu sĩ. Đức Piô IX và hàng giáo sĩ Ý đã trở thành như nạn nhân của cuộc đàn áp cách mạng này.

Tháng 11 năm 1848, sự căm ghét đã lên tới cực điểm khi các đảng cách mạng xông vào điện Vatican bắt tù Hồng Y Quốc Vụ Khanh, bắn chết vị khác trong Hội Đồng Tư Vấn. Đức Piô IX đã trốn về Napolie qua đường hầm bí mật và bị lưu đày ở đó sáu tháng.

Do bản chất của công việc cùng với sự thành công mà Don Bosco có được vì giới trẻ, Don Bosco đã trở thành mục tiêu người ta nhắm tới. Ngài đã bình thản trả lời đối với tất cả những lời chỉ trích nhắm về phía mình: “Trong chính trường, tôi không đứng về phe nào. Tôi là một linh mục. Nước mà tôi phục vụ chính là Vương quốc của Thiên Chúa”.

GIẤC MƠ HỒI CHÍN TUỔI

Cha Gioan Bosco đã khao khát phục vụ cho Vương quốc kia từ khi còn bé. Ngài đã viết: “Vào lúc chín tuổi, tôi đã muốn trở thành một linh mục để giúp đỡ giới trẻ”. Dù cảnh nghèo đã gây lên biết bao khó khăn để hiện thực giấc mơ này.

Cha của Gioan là một nông dân cần mẫn đã qua đời lúc Gioan chưa tròn hai tuổi. Mẹ của Gioan là bà Magarita. Bà đã giữ cho gia đình được nguyên vẹn, điều hành cái nông trại Bosco nhỏ, nuôi ba đứa con, chăm sóc bà mẹ chồng lớn tuổi và hay đau yếu. Mẹ Magarita là người nữ đầy can đảm, đã đương đầu với cuộc sống dãy đầy khó khăn và đắng cay này.

Tuy nhiên, bất kể cái nghèo, mẹ Magarita luôn khuyến khích Gioan ươm trồng giấc mơ của cậu.

Dù nghèo nhưng Gioan có sẵn những tài năng thiên phú. Cậu đã học các mánh lới của những tay ảo thuật, và những trò nhào lộn nguy hiểm của những kẻ gánh xiệc. Gioan hiểu rằng các ngón ảo thuật và đi thăng bằng trên dây sẽ hấp dẫn được các bạn trẻ đến với mình.

Gioan cũng rất thông minh, có một trí nhớ đáng nể. Điều đó được chứng tỏ vào một buổi tối nọ trong một dịp tĩnh tâm, cha sở hỏi xem Gioan có nhớ gì về bài giảng của ngài không. Gioan ngày ấy mới chín tuổi, đã nhắc lại trọn vẹn bài giảng không sót một câu.

Gioan thời trẻ cũng có những khuyết điểm. Dù còn trẻ, nhưng cậu rất nóng nảy và cương trực. Trước tinh thần hăng say làm việc thiện, đôi lần ngăn cản các bạn không chủi tục, cậu đã dùng tới bạo lực bằng cú đấm cú đá.

Cậu ý thức tính kiêu căng của mình, nhưng cậu đã thành công trong việc kiềm chế những xung lực ấy để giữ được nét điềm đạm, bình an và thân thiện với mọi người.

Gioan đã làm việc cật lực trong thời làm chủng sinh. Suốt những năm dài học tập, cậu phải làm nhiều nghề khác nhau để phụ mẹ trong những chi phí học hành. Bởi thế, trước khi làm linh mục, Gioan đã biết làm bánh kẹo, sửa giày, cắt may, điều hành tiệm ăn, tổ chức một gánh xiếc. Buổi biểu diễn của cậu đã cuốn hút được nhiều thanh thiếu niên. Sau những giây phút tuyệt làm xiệc cậu đã dạy cho các bạn mình một hai bài học đaọ đức và tôn giáo.

LINH MỤC ĐỜI ĐỜI

Năm 1841, Đức Tổng Giám Mục Tôrinô đã phong chức linh mục cho Gioan, lúc đó vừa tròn 25 tuổi. Trong thời gian đào luyện thầy Gioan Bosco được khích lệ làm việc và phục vụ tại các nhà thương, trại giam, cô nhi viện và các khu ổ chuột trong thành phố. Kinh nghiệm đầu đời mục vụ này đã vạch rõ cho vị tân linh mục con đường ngài được mời gọi để phục vụ là giới trẻ nghèo hé phố!

Giấc mơ năm chín tuổi, Gioan đã mơ thấy mình được làm linh mục. Điều này đã được thực hiện. Nay Gioan phải thực hiện phần thứ hai của giấc mơ để phục vụ giới trẻ.

Thuở nhỏ, Gioan mơ thấy một bà đẹp bảo rằng: đời của ngài có nhiệm vụ là biến đổi sói thành chiên. .. trẻ hè phố lang bạc thành công dân lương thiện và người hữu ích.

Từ lúc làm chủng sinh mỗi cuối tuần thầy Gioan đã quy tụ các bạn trẻ tới chủng viện sinh hoạt.

Gioan kiên nhẫn làm bạn với các trẻ đường phố theo lời dạy của thánh Phanxicô Salê: “Một giọt mật ngọt có thể bắt được nhiều ruồi hơn là một thùng giấm chua”. Gioan đã bắt được ruồi. Trẻ trẻ đường phố đã đi theo Ngài. Khắp các khu ổ chuột Tôrinô, Gioan mời các bạn trẻ mỗi Chúa nhật đến với nhau tại học viện mà thầy gọi là “Nguyện xá Chúa nhật”. Nguyện xá có những hoạt động như vui chơi, ca hát, cầu nguyện và học hỏi về đạo lý.

Một bạn trẻ của thời ban đầu ấy còn nhắc lại những ngày Chúa nhật xưa thân ái như sau: “Vào cuối mỗi ngày Chúa nhật đi chơi như thế, Don Bosco luôn báo cho chúng tôi biết chương trình của Chúa nhật sắp tới. Ngài hướng dẫn chúng tôi biết cách cư xử trong cuộc sống và yêu cầu chúng tôi mời thêm các bạn tới sinh hoạt. Niềm vui luôn ắp đầy giữa chúng tôi. Những ngày hạnh phúc ấy đã khắc sâu vào lòng chúng tôi và ảnh hưởng tới cuộc sống tương lai của chúng tôi”.

Tuy nhiên không phải mọi người ở Tôrinô đều hài lòng. Quả vậy, Don Bosco dù đã dùng cả lưu xá Học viện vẫn chưa tìm ra đủ chỗ để tập hợp 400 bạn trẻ. Có vài nhà hảo tâm đã cố gắng giúp đỡ, nhưng sự có mặt ồn ào của đám trẻ ồn ào làm hàng xóm kêu ca. Trong khoảng năm tháng, không dưới mười người đã cho Don Bosco sử dụng nhà của mình. Nhưng vì ồn ào của nhóm trẻ, ai nấy đều rút lại lời hứa. Don Bosco rõ ràng chẳng còn nơi nào để thu nhận lũ trẻ rách rưới của mình nữa.

Nhiều lúc Don Bosco ngã lòng cảm thấy công cuộc của mình đã chấm tận, ngài đã thố lên: “Nhìn vào đám đông thanh thiếu niên và nghĩ đến mùa gặt phong phú, tôi cảm thấy tim mình tan nát, cô độc, không người nâng đỡ, sức khỏe suy sụp… và tôi cũng không còn một manh đất nào tụ họp những bạn trẻ tội nghiệp của tôi!!!”.

Don Bosco vững tin và hối thúc bọn trẻ cầu nguyện và lời nguyện xin đã được Chúa nhận lời. Vào năm 1846 đo, Ông Pinardi đã cho Don Bosco thuê một miếng đất ngay tại khu đầm lầy Valdocco. Ông cho biết khu nhà đất ấy bao gồm một cái chái nhà nhỏ lợp bằng tranh, có thể dùng làm nhà nguyện. Tuy nhiên, vừa nhìn thấy cái chái nhà kia, Don Bosco đã thất vọng não nề. Nó quá thấp để có thể chui vào. Ông Pinardi không nao núng góp ý: “Cha đừng lo. Chúng tôi sẽ cho người đào nền xuống để Cha có thể dâng Lễ vào Chúa nhật Phục Sinh”.

Lời tiên đoán của ông Pinardi đã thành sự thật. Sáng Chúa nhật Phục Sinh, Don Bosco đã cử hành Thánh Lễ trên cái bàn mộc mạc, chung quanh là đám trẻ nghịch ngợm ngồi như nêm trong cái chái nhà xiêu veo ẩm thấp những đây là thánh lễ Lễ Phục Sinh trọng thể trong hân hoan đáng ghi nhớ muôn đời. Cuối cùng thì nguyện xá đã có được một ngôi nhà dù cha Don Bosco chưa biết mình sẽ kiếm tìm đâu ra tiền để trả tiền thuê mướn.

Trong vòng 5 năm cũng như suốt thời sinh viên hậu thần học, Don Bosco đã hiến cuộc đời mình cho các bạn trẻ. Tuy chỉ gặp chúng vào ngày Chúa nhật, nhưng mỗi khi rảnh trong tuần, Don Bosco luôn đáp ứng yêu cầu của các em. Ngài thăm các em nơi các em làm việc, tìm việc cho ai bị mất việc, săn sóc cho các em đau yếu, lo những em phạm pháp và bằng mọi cách tranh đấu cho các bạn trẻ của ngài không bị bóc lột và lợi dụng.

Lao lực ấy đã đẩy Don Bosco vào lâm bệnh! Sau ba tháng mua được miếng đất của ông Pinardi, Cha hầu như bị kiệt sức vì chứng sưng phổi trầm trọng tấn công. Tại bệnh viện, các bác sĩ ái ngại về bệnh tình của cha! Nghe được tin ấy, các bạn trẻ thật đau lòng, lúc nào cũng túc trực ở sân bệnh viện cầu nguyện xin Chúa cứu chữa người cha va người thầy và người bạn của chúng được tai qua nạn khỏi.

Các em đã tổ chức những cuộc canh thức cầu nguyện suốt đêm. Không ít em đã ăn chay, hoán cải đời sống và hứa đánh đổi đời sống cho cha Bosco… Nhưng bệnh trạng của Don Bosco vẫn tiếp tục trầm trọng thêm. Ngài dọn mình chết lành. Bên cạnh Don Bosco lúc ấy có cha Borel là người bạn thân đang cúi xuống thì thầm: “Này Gioan Bosco, đám trẻ cần đến cha. Hãy xin Chúa cho cha ở lại. Xin cha lặp lại lời cầu nguyện này theo tôi: Lạy Chúa, nếu đẹp ý Chúa, xin chữa con, con nguyện xin Chúa nhân danh giới trẻ”. Cha Bosco đã chậm rãi lập lại lời cầu nguyện và khi cha vừa kết thúc thì cơn sốt dần tan biến, chứng sưng phổi cũng biến đi.

Khoảng hai tuần sau, các bác sĩ cho phép Don Bosco xuất viện. Ngoài sân kia, đám trẻ đang đợi chờ cha. Khi Don Bosco xuất hiện, các em ùa tới, khiêng bổng cha lên và kiệu cha trên vai ngang qua các đường phố Tôrinô. Niềm vui tràn trề các em ca hát, hò la và hoan hô đến độ cư dân của thành phố cũng phải cảm động đến rơi lệ.

MẸ MAGARITA

Không lâu trước khi Don Bosco bị bệnh, bà hầu tước Barolo, một phụ nữ quý phái, giầu có và là người đã cung cấp nơi ăn chốn ở cho Don Bosco tại Tôrinô. Khi vị linh mục này bắt đầu miệt mài với công việc mới của mình và không còn điều hành cô nhi viện nữ của bà được nữa, thì bà yêu cầu Don Bosco rời khỏi cư xá, nên lúc xuất viện, Don Bosco không nơi trú thân cha đành về tĩnh dưỡng tại nhà của mẹ mình ở Becchi.

Khi Don Bosco trở lại thành phố, ông Pinardi một lần nữa lại tìm Don Bosco để cho thuê thêm bốn phòng tại khu đang có nguyện xá. Don Bosco đã xin mẹ hy sinh bỏ căn nhà thân thương, về làm người mẹ cho lũ thanh thiếu niên bơ vơ của Don Bosco. Tháng 11 năm 1846, bà đã gom góp tất cả chút tài sản nghèo nàn, rồi theo con lên thành phố Tôrinô. Hai mẹ con đã quốc bộ suốt quãng đường 40 cây số vì không đủ tiền đi xe.

THẾ GIỚI CỦA NGƯỜI TRẺ

Tuổi thơ lam lũ của Don Bosco đã giúp ngài những học được nghề mộc, may mặc và đóng giày, và hôm nay ngài truyền lại cho các học sinh của mình thành những tay nghề sống lương thiện và ngay lành.

Chỉ ít lâu sau khi mẹ của Don Bosco tới nguyện xá, đám trẻ đã gọi bà là “Mẹ Magarita”. Don Bosco thường nói với bà: “Này mẹ, sẽ có ngày tất cả nơi đây sẽ là một sân chơi với những lớp học và xưởng thợ. Sẽ có những người cộng sự và biến đây thành một thế giới của những người trẻ”.

Bà Magarita từ xưa vốn biết tính hoạt náo của con, nên chỉ nghe vậy. Tất cả những gì mà vị linh mục con bà có là một mảnh đất chẳng có giá trị, một nhà nguyện lụp xụp, một căn nhà như cái chuồng xúc vật mà cuối tuần có khoảng 600 thanh thiếu về. Tuy nhiên, cha Gioan Bosco vẫn quyết tâm xây dựng...

Don Bosco quyết định trước tiên phải cho học sinh của mình nền giáo dục thực tiễn vững chắc. Để xuất phát, cha dạy ba môn sơ cấp như đọc, viết và toán học. Đạo giáo được coi là môn cốt yếu trong chương trình. Cha chọn giáo lý đơn sơ làm bài học vỡ lòng cho các em.

Khởi đầu, Don Bosco mở các lớp tại các phòng của nhà Pinardi. Khi càng ngày càng có thêm học sinh lui tới, lớp học quá tải lại tràn qua nhà nguyện và phòng áo. Dầu vậy, chỗ học vẫn không đủ. Hết cách, Don Bosco đành phải thuyết phục ông Pinardi cho thuê luôn toàn bộ khu đất.

Chẳng bao lâu chương trình dạy vỡ lòng được mở rộng, Don Bosco thêm vào môn địa lý, ngữ pháp và vẽ. Cha còn thêm môn hát, vì theo cha “Nguyện xá mà không có đàn hát thì chẳng khác cái xác không hồn”.

Để đảm bảo số giáo viên dự bị cho lớp học, Don Bosco giao kèo với một số học sinh giỏi. Cha kèm cho họ các môn phụ, Ý ngữ, Văn chương, Pháp văn, Toán; còn họ sẽ dạy một số giờ cho trường. Sự thỏa thuận ấy có lợi cho cả Don Bosco lẫn cho ban giáo viên.

Sau một năm xây dựng khu đất Pinardi, Don Bosco đã có khoảng 600-700 trẻ, từ tám đến mười tám tuổi. Bọn trẻ được sắp xếp vào mọi ngõ ngoách từ khu nhà Pinardi đến nhà nguyện. Don Bosco không từ chối một em nào vì vậy vấn đề chỉ là thiếu chỗ chẳng có gì ngac nhiên cả!

Don Bosco không hề nao núng. Vào một buổi tối, cha chia sẻ với toàn thể nguyện xá: “Khi bầy ong đông qúa chúng sẽ di chuyển thành đàn đi nơi khác làm tổ mới. Chúng ta cũng phải làm như vậy. Bắt chước bầy ong, chúng ta hãy kiếm tìm một nguyện xá mới”.

Tuy Don Bosco không có tiền, nhưng cha không ngại mạo hiểm, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ lo liệu cho con cái Ngài… vì thế mà những nguyện xá khác lần lược được mọc lên tại Tôrinô.

Nhờ sự tiếp tay và hy sinh của mẹ Magarita, công cuộc của Don Bosco được lớn mạnh với những trường, xưởng, lưu xá... Giấc mơ thuở nhỏ của cậu bé Gioan Bosco đang được hình thành.

Vào một tối mưa lạnh tháng 5 năm 1847, mẹ Magarita nghe có tiếng gõ cửa nhà Pinardi. Mẹ mở và thấy tại bậc cửa một bé trai quần áo sũng đang rét run lảy bảy. Mẹ vội đem em vào, ngồi trước lò sưởi lớn lửa để hong khô, cho em ăn rồi chỉ chỗ cho em ngủ. Em đã gọi với cái tên “cậu bé tới ăn tối” của Don Bosco. Em bé mồ côi cùng với tiếng gõ cửa nhẹ nhàng đã mở ra trước mắt Don Bosco cả một khung trời mới. Những mảnh đời khốn khổ của các em bé mồ côi, không cửa không nhà, là mối quan tâm của Don Bosco.

Bây giờ Don Bosco cảm nhận cha có thể làm được đôi việc cho giới trẻ. Nhà nội trú với một nếp sống gia đình kể là khác thường vào thuở ấy. Buổi sáng, sau giờ cầu nguyện chung, các em đi học hoặc đi làm. Buổi trưa, các em tụ về nhà dùng cơm trưa do chính Don Bosco làm đầu bếp sau bữa tối, Don Bosco đóng vai làm thầy giáo rà lại bài vở cho các em.

Các hoạt động của lưu xá tăng làm mẹ Margarita vất vả thêm, làm mẹ phải luôn tay suốt ngày: lau nhà, giặt vá, chăm sóc các em bị bệnh. Mẹ cảm thấy qúa sức nên mẹ có ý định cho Don Bosco biết ý định muốn về quê. Don Bosco thấu hiểu lòng mẹ mình nên cứ thầm im lặng, Cha chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường... Thế là mẹ Magarita đã hiểu, nước mắt mẹ long lanh. Mẹ nói nhỏ với Don Bosco: “Con có lý” và rồi khoác chiếc khăn làm bếp lên người tiếp tục công việc…

NHỮNG DỰ ÁN VÀ KẾ HOẠCH

Don Bosco vừa kết thúc một kế hoạch thì cha đã khởi sự một kế hoạch khác. Cha xây liên tiếp một nhà nội trú cho 150 em, một nhà nguyện mới tương xứng với số học sinh gia nhập nguyện xá tăng lên, đồng thời cha cũng đi đầu mở các lớp học buổi tối và trường huấn nghệ cho các em có tay nghề. Cha xây các xưởng dạy đóng giầy, cắt may, mộc, đóng sách, in và hàn xì… Một lần nữa, Don Bosco lại dùng nhóm giáo viên có gốc ở nguyện xá. Các trường của Don Bosco được xếp vào loại nhất ở Tôrinô nhờ vào tinh thần và sự hướng dẫn của chính Don Bosco, là người được coi là nhà giáo dục tuyệt vời của Châu Âu thời đó.

Một vị giáo sư nổi tiếng và là bạn cộng sự của Don Bosco đã giải thích lý do: “Tình yêu của Don Bosco tỏa ra trong ánh mắt và lời nói. Người ta có thể cảm nhận được điều ấy mà chẳng chút hồ nghi. .. Người ta còn cảm nghiệm được niềm vui dạt dào khi có sự hiện diện của Don Bosco”.

Tuy nhiên, Don Bosco có những yêu sách đối với các cộng sự viên là không được dùng hình phạt trong việc giáo dục thanh thiếu niên. Cha khuyên: “Hãy làm cho mình nên đáng yêu. Muốn được trẻ vâng lời, hãy sống với các em như người cha, chứ không phải như người bề trên”.

Theo quan điểm của Don Bosco, trách nhiệm của người thầy không chỉ trải rộng trong lớp học mà còn làm sao cho môi trường sống được chan hòa yêu thương trong niềm yêu an bình của Chúa Kitô.

Don Bosco đã nêu gương hòa mình vào giờ chơi với học sinh, dù tuổi ngoài 50, Don Bosco vẫn chạy nhảya với đám trẻ. Don Bosco tôn trọng sự tự do của trẻ và còn đem sự tôn trọng vào mọi lãnh vực và chương trình sống của nguyện xá. Nếu cần phạt một học sinh nào, cha cẩn thận không bao giờ hạ nhân phẩm các em hoặc làm các em cay đắng.

Don Bosco có những kỹ năng của một nhà giáo dục: biết liên kết giữa quyền bính và tự do, kỷ luật và tình bằng hữu, mệnh lệnh và sự bồng bột của tuổi trẻ. Don Bosco thường nhắc nhở: “Không có tình thân sẽ không có tin tưởng, không có tin tưởng sẽ không có giáo dục”.

Đạo giáo đối với Don Bosco nắm giữ vai trò quan yếu trong việc giáo dục. Mối giây tương giao với Thiên Chúa là cội nguồn hoạt động và tăng trưởng của mọi người.

Đối với Don Bosco, việc trình bày cho học sinh về Thiên Chúa là Cha được coi là điều căn bản. Don Bosco đã thực hiện được điều ấy một cách hiệu quả, bởi vì cha là người cha đáng yêu của nguyện xá. Cha thúc đẩy cho học sinh biết rằng, các em đang sống trong sự hiện diện của Cha trên trời, Đấng yêu thương các em.

Don Bosco xác tín chính Đức Maria mà ngài xin làm Đấng Bảo Trợ, đã muốn ngài xây ngôi Đền thờ Thánh Tâm, đây là trung tâm hành hương và tôn kính Thánh Thể Chúa.

Trong suốt thời gian xây dựng đền thờ Thánh Tâm vĩ đại và nguy nga tại Roma, Don Bosco luôn luôn nhận được những cống hiến tài chánh từ các ân nhân hảo tâm. Ngày kia, khi giấy nợ xếp chồng khá cao, Don Bosco đi thăm một người rất giàu đã nằm liệt giường đã ba năm. Sau một hồi chuyện trò, Don Bosco xin ông thay áo đến ngân hàng để rút tiền nhằm thanh toán cho các chi phiếu xây dựng nhà thờ. Ông lẩm bẩm: “Tôi không đi được. Ba năm qua tôi đã ra khỏi giường đâu!” Don Bosco nói với ông: “Ông hứa đi, Đức Mẹ sẽ cho ông trổi dậy!”. Ông hứa và rồi ông đã đứng dậy và cùng Don Bosco tới ngân hàng.

Nhiều người nghĩ rằng Don Bosco là nhà kinh tế tài năng vì khả năng kiếm ra tiền. Thật ra điều gì nói về cha cũng có thể đúng, trừ điều trên. Một bà nhà giàu xem Don Bosco là nhà tư bản tài chính lớn, đã xin ý kiến xem nên đầu tư tiền bạc của bà ở đâu cho tốt nhất. Chẳng nói câu nào. Don Bosco đơn sơ ngửa hai bàn tay của mình ra trước mặt bà.

Đã có hàng triệu Mỹ kim đi qua bàn tay Don Bosco, nhưng cha không giữ lại một xu cho mình. Quả vậy, cha sống nghèo; thậm chí còn tiết kiệm từng phần giấy trắng của những lá thư đã viết, biết nhuộm đen sợi làm dây giày, tiết kiệm từng tờ giấy báo, từng sợi dây. Cha dùng chiếc áo khoác phế thải nhà binh và chiếc mền cũ nhà binh xếp ở giường. Xem mình như người đầy tớ, một người giúp việc, cha vui vẻ phục vụ bàn ăn cho học sinh, khâu vá quần áo và cắt tóc cho các em. Vốn là người nghèo, cha lam tất cả mọi việc cực nhọc. Cha nghiêm khắc cảnh cáo các tu sĩ của mình rằng: “Ngày nào các con không còn yêu sự nghèo khó nữa, thì đó là ngày tàn của Tu hội!”

Don Bosco đã kêu cầu nhiều với Mẹ Rất Thánh. Một lần, có cha sở xin Don Bosco phụ trách giảng tuần tam nhật trước lễ Mẹ Lên Trời cho giáo xứ. Giáo xứ đau khổ vì ở trong khu vực bị hạn hán khủng khiếp và lâu dài. Những người nông dân trong vùng hầu như đã tuyệt vọng!

Mở đầu bài giảng, Don Bosco nhắn mọi người: “Hãy tham dự đủ ba ngày tĩnh tâm. Hãy xưng tội. Hãy sửa soạn sốt sắng rước Chúa trong ngày lễ Mẹ Lên Trời, và tôi xin hứa nhờ danh Mẹ, sẽ có mưa để làm tươi lại mảnh đất khô cằn của anh chị em”.

Sau bài giảng đầu tiên đó, cha sở đã nổi nóng và la Don Bosco đừng tạo nên những hy vọng hão huyền. Cha sợ dân chúng sẽ trút cơn giận lên cả hai người, khi trận mưa hứa hẹn không xảy ra.

Ba ngày dân chúng đã chen chúc trong ngôi thánh đường. Đúng lễ Mẹ Lên Trời, ngày sẽ có biến cố được hứa trước, Don Bosco thức giấc nhìn lên bầu trời. Trời vẫn trong xanh, không một vẩn mây. Trên đường tới thánh đường dâng lễ sáng, Don Bosco đã bị đám đông vây quanh hỏi: “Liệu trời có mưa không?” Don Bosco vẫn bình thản đáp: “Hãy thanh tẩy tâm hồn!”

Ngày đã tàn, bầu trời vẫn xanh. Tối đến, dân chúng lại họp mặt tham dự lễ bế mạc, trời chẳng có lấy một cụm mây báo hiệu có mưa. Khi Don Bosco vào thánh đường cử hành lễ, cha nhìn lên trời trong vắt chỉ thyấ một vẩn mây xám như một miếng vải con trêng bầu trời xanh.

Don Bosco bước lên tòa giảng. Hàng trăm con mắt đổ dồn về cha, như muốn la lên “Khi nào trời mưa hả cha?” Phút chốc, những gương mặt thắc mắc dân chúng đanh lại, chua cay và thất vọng.

Đột nhiên chớp xé ngang bầu trời, sấm nổ, những hạt mưa to đầu tiên rơi lộp bộp trên mái nhà. Nông dân có cơ hội sống hạnh phúc hơn, đã hò reo và cất lên những bài ca tạ ơn. Cha sở được nhẹ nhõm…

NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI

Công cuộc phục vụ cho thanh thiếu nam được mở rộng, bao gồm cả các em nữ nữa. Các nữ tu Salêdiêng, một trong những tu hội lớn trong Giáo hội đã tiếp nối giấc mơ xưa của Don Bosco.

Khi Don Bosco bước vào tuổi 60, sức khỏe của cha ngày càng yếu, nhưng cha vẫn tiếp tục làm việc. Một ngày của cha được lấp đầy bằng dạy học, thuyết trình thảo luận và duyệt xét nhiều dự án.

Đầu năm 1880, các hội viên Salêdiêng Don Bosco đã vượt qua biên giới nước Ý để thiết lập nhà tại Pháp và Tây Ban Nha. Cha mong ước được đi thăm họ. Bởi thế, năm 1883, khi Đức Thánh Cha Lêo XIII yêu cầu Don Bosco qua Pháp quyên tiền để hoàn tất công trình xây cất đền thờ Thánh Tâm ở Roma, Don Bosco đã hân hoan vâng lời. Cha có thể vừa quyên góp cho Đức Thánh Cha vừa thăm con cái của mình.

Don Bosco đã xúc động trước sự tiếp đón nồng nhiệt mà người dân Pháp dành cho cha. Họ đã đáp lại lời kêu gọi cách quảng đại cho việc xây dựng nhà Chúa.

Một nhân chứng đã kể lại: “Chưa hề thấy dân chúng tập trung đông đảo ở Paris chung quanh một vị linh mục như thế, kể từ cuộc viếng thăm của Đức Piô VIII”. Don Rua khi nhớ chuyến thăm Paris này đã nói: “Nếu chúng tôi có tới bảy thư ký, thì vẫn không kiểm và trả lời thư từ hết được”. Chuyến đi quả là bận rộn và mệt mỏi cho Don Bosco. Vả lại con mắt bên phải của Don Bosco bị đau triền miên, do bị thương trong một lần bị ngã từ nhiều năm trước. Chứng viêm tĩnh mạch khiến việc đi bộ của Don Bosco không được vững, hai hội viên phải đi kèm hai bên.

Ba năm sau, Don Bosco lại thực hiện một cuộc hành trình tương tự sang Tây Ban Nha và cũng được dân chúng tiếp đón nồng nhiệt như thế. Cha đã giảng thuyết trong những Vương cung Thánh đường nổi tiếng nhất ở Pháp và Tây Ban Nha. Don Bosco có thể nói cả tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, tuy nhiên điều quan yếu nhất là Ngài nói với dân chúng bằng ngôn ngữ của trái tim.

“Cha đã tiêu hao đời mình vì lao lực quá sức. Các bác sĩ đều khuyên cha phải nghỉ ngơi hoàn toàn một thời gian”. Và câu trả lời của Don Bosco thường là: “Thưa bác sĩ, ông đã thừa biết đó chính là thứ thuốc mà tôi không thể uống, vì tôi còn quá nhiều việc phải làm”.

Gần những ngày cuối đời Don Bosco được hai hội viên túc trực bên cạnh, Ngài vẫn hành trình đi Tôrinô thăm những người nghèo, quyên góp nơi những người giàu, khích lệ những ai buồn phiền. Bác sĩ của Don Bosco đã báo cho các Bề trên Salêdiêng rằng: “Cha Bosco không chết vì một căn bệnh nào hết, người cha giống như một ngọn đèn tắt vì hết dầu”.

Bệnh của Don Bosco kéo dài. Don Rua lãnh trách nhiệm điều hành Tu hội Salêdiêng. Ngài yêu cầu mọi người trong gia đình, nếu được, hãy về Tôrinô để chào tạm biệt người cha già khả kính... Từ khắp nơi, con cái của Don Bosco đã về với cha, từ các em nhỏ bụi đời xưa tới các hội viên tất cả c ốgnắg trở về để nhận phép lành của cha.

Cha ban phép lành cho tất cả. Vào đêm 31.1.1888, Don Bosco hướng mặt về phía Don Rua và nói: “Hãy nói với con cái của cha rằng, cha đợi tất cả ở thiên đàng”. Sau những lời đó, cha đã nhắm mắt lìa đời.

Năm 1939, Đức Thánh Cha Piô XI đã tôn phong Don Bosco lên hàng hiển thánh và năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gọi Don Bosco là “Cha và Thầy của Giới trẻ”.

SALÊDIÊNG PHỤC VỤ GIỚI TRẺ TRÊN THẾ GIỚI NGÀY NAY

Gần 40.000 linh mục, sư huynh và nữ tu Salesian đang phục vụ trên 130 quốc gia trên khắp các châu lục. Người Salêdiêng đã và đang đem lại một nền giáo dục dự phòng của Don Bosco cho triệu triệu các bạn trẻ nam nữ.

“Là dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho giới trẻ.”

Thánh Gioan Bosco là một thiên tài của giới trẻ. Ngài khao khát mãnh liệt dành trọn cuộc sống để làm việc cho giới trẻ. Ngài đã đạt tới điều mong ước đó bằng sự sáng tạo, táo bạo và lòng quảng đại lạ lùng.

Ngày nay, người Salêdiêng đang nỗ lực tiếp nối công cuộc của Don Bosco vì nhu cầu của giới trẻ nơi các trường học, tại các câu lạc bộ thanh niên, giáo xứ, gia đình và nhiều hoạt động đa dạng khác giúp người trẻ đạt được hạnh phúc bây giờ và mai sau.

Để sửa soạn kỷ niệm 200 năm ngày sinh nhật của Cha thánh Gioan Bosco 1815-2015, một mấu chốt thời gian quan trọng đó là cơ hội gợi nhớ cho các tu sĩ và những thân hữu Salesian nguồn sống theo ơn đoàn sủng của Cha Thánh Gioan Bosco để lại cho chúng ta.

CHƯƠNG TRÌNH NGHINH ĐÓN THÁNH TƯỢNG TẠI ÚC CHÂU

Nhân dịp này một Thánh tượng được khảm cánh tay phải của Thánh Gioan Bosco và một Thánh quan với di hài bàn tay phải của Cha thánh đang đi chu du qua 130 quốc gia như dấu chỉ “Cha đến với chúng con”. Thánh tượng Cha thánh Gioan Bosco sẽ tới thăm Úc Châu từ ngày 8/3 tới 24/3/2011

Các giờ cho đại chúng:

- Thứ Ba 8/3/2011 Thánh tượng từ Nhật tới Úc và rước về trường Salesian College ở Bosco St Chadstone Victoria: 7.30pm: Cầu nguyện

- Thứ Năm 10/3 lúc 7.30pm thánh lễ tại trường Salesian do ĐGM Tim Costelloe cử hành

- Thứ Sáu 11/3 thánh tượng được đón về trường trung học St Joseph’s College, Ferntree Gully. Và 7.00pm sẽ được rước về nhà thờ St Peter’s Church, 258 Clayton Rd, Clayton và có thánh lễ bằng tiếng Ý.

- Thứ Bảy 12/3 lúc 9am thánh lễ bằng tiếng Anh tại St Peter’s Clayton 11am tại Holy Redeemer Church, East Oakleigh và 4pm thánh lễ bằng tiếng Ý cũng tại Holy Redeemer’s East oakleigh. Và 6pm thánh lễ bằng tiếng Anh tại Sacred Heart Church, 76 Warragul Rd, Oakleigh.

- Chúa nhật 13/3: 8.30am Thánh lễ bằng tiếng Ý tại Sacred Heart Church,76 Warragul Rd, Oakleigh và 11.15am thánh lễ tiếng Ý tại St Peter’s Church, 258 Clayton Rd, Clayton 3pm chiều cùng ngày thánh tượng được tôn kính tại Đại học Monash và thánh lễ 5.10 do ĐGM Tim Costelloe cử hành

- Thứ Ba 15/3/2011 6pm giờ cầu nguyện tại nhà thờ St John Bosco Church, 29 Muriel St, Niddrie

- Thứ Tư 16/3 từ 12.30pm tới 4pm: có các giờ cầu nguyện cửa trường và 7.30 thánh lễ tại giáo xứ tại St John the Baptist Church, Clifton Hill.

- Thứ Năm 17/3 thánh tượng được cung nghinh tới trường Salesian College ‘Rupertswood’, Sunbury.

Và ba ngày thánh du cao điểm được tổ chức tại giáo xứ St Margaret Mary’s Brunswick:

- Thứ Sáu 18/3 dành cho linh mục tu sĩ;

- Thứ Bảy ngày 19/3 dành cho giới trẻ bắt đầu từ 10 giờ sáng với nhiều sinh hoạt... Mong ước các bạn Việt Nam tới tham dự cùng với các bạn trẻ Úc... Lúc 2 giờ trưa Đức Tổng giám mục Dennis Hart sẽ tới thăm và nói chuyện với các bạn trẻ và đặc biệt lúc 7 giờ tối có buổi thắp nến cầu nguyện với Don Bosco. Ước mong qúi thính gỉa người Việt Nam tới để cùng giới trẻ cầu nguyện cho giới trẻ và hòa bình thế giới cũng như hòa bình cho Việt Nam sau đó tham dự buổi văn nghệ của giới trẻ với một hoạt cảnh ca múa diễn tả cảnh thanh bình tại Việt Nam nhưng rồi chiến tranh ly loạn đã đến đẩy đưa nhiuề ngưiờ trong chúng ta vượt biên và may mằn được định cư và thành công vươn lên tại Úc Châu. Ngày giới trẻ sẽ được kết thúc bằng buổi bắn pháo bông vào lúc 10 giờ đêm.

- Chúa Nhật ngày 20/3 với các thánh lễ tiếng Anh lúc 9 giờ sáng; tiếng Ý lúc 10.30 và tiếng Việt lúc 12 giờ trưa... cao điểm của ngày hôm nay sẽ là cuộc rước Thánh tượng lúc 4 giờ chiều và thánh lễ đại trào tại sân trường sau nhà thờ lúc 5 giờ chiều do Đức Giám mục Salesian là Tim Costelloe cử hành và ban phép lành đặc biệt của cha thánh Gioan Bosco.

- Thứ Hai 21/3: Thánh tượng lên đường đi Sydney tới Our Lady of the Rosary Parish, St Marys, NSW. 26 Swanston St, St Marys, NSW

- Thứ Ba 22/3 tại giáo xứ Our Lady’s với chương trình:

9.30am: đón tiếp và cầu nguyện, suy niệm

12.00noon Thánh lễ

6.00pm Chầu Thánh Thể và cầu nguyện cùng Don Bosco

- Thứ Tư 23/3

7.00 pm Thánh lễ do ĐGM Anthony Fisher OP cử hành

tại Our Lady of the Rosary Church 26 Swanston St, St Marys, NSW

- Thứ Năm 24/3 thánh tượng rời Úc Châu