Hàn Mạc Tử, Người Kitô Hữu Trẻ Trên Lối Vào Nội Tâm

Bài chia sẻ của linh mục TRĂNG THẬP TỰ
nhân kỷ niệm 70 năm nhà thơ Hàn Mạc Tử qua đời


Lời thưa

Trong cuộc gặp gỡ các tác giả văn thơ Công giáo tại Tòa giám mục Phan Thiết, 20-01-2010, đã nổi cộm nỗi bức xúc về tình trạng Việt văn suy kém của sinh viên học sinh hiện nay, một trở ngại lớn cho việc đào tạo người phục vụ Tin Mừng, và sự khan hiếm các cây bút trẻ Công giáo, là điều rất đáng lo khi nghĩ về công cuộc phúc âm hóa trong tương lai.

Để gây ý thức cho sinh viên, học sinh, cho phụ huynh và cả cho các mục tử, có ba đề xuất khả thi:

- Tổ chức thi sáng tác thơ văn cho học sinh giáo lý ở cấp giáo phận,
- Quy tụ các Câu lạc bộ Sáng tác Thơ văn Công giáo tại các Giáo hạt và Giáo phận để chăm sóc cho các em có năng khiếu,
- Nhân kỷ niệm 70 năm ngày nhà thơ Hàn Mạc Tử (HMT) qua đời, tổ chức tưởng niệm ở các cấp Giáo xứ, Giáo hạt và Giáo phận để học sinh lớn nhỏ đều biết đến nhà thơ này và từ đó thêm lòng yêu mến thơ văn nói chung và thơ văn Công giáo nói riêng.

Để thực hiện điểm thứ ba, một vài nơi đã bắt đầu chuẩn bị đêm thơ HMT hoặc ngày tưởng niệm HMT; hai ban biên tập chuyên san Đồng Xanh Thơ (dongxanhtho@gmail.com) và chuyên san Vườn Ôliu (vuonoliu@gmail.com) đã gom góp một số bài về HMT để cung cấp cho những nơi và những người có nhu cầu; cụ Phạm Đình Khiêm và nhà thơ Lê Đình Bảng đang chuẩn bị xuất bản một quyển sách nhân giỗ HMT.

Khi được cụ Phạm Đình Khiêm yêu cầu góp phần vào quyển sách đang thành hình, tôi đã tập trung ghi lại những điều tôi trực giác về đời sống tâm linh của Hàn Mạc Tử. Tôi ghi hết tất cả những điều đã và đang tìm kiếm được, cho nên bài viết quá dài, không thể đưa vào quyển sách, phải thay vào đó bằng một bài thơ nhỏ. Khi tôi gởi cho Thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương xem, Thầy lại thêm nhận xét rằng bài viết thích hợp để nói với người Công giáo hơn là với người ngoài. Do đó, tôi tạm thời gởi đến một số bạn đọc Công giáo để cùng suy nghĩ nhân giỗ HMT lần thứ 70. Sau ngày giỗ này, tôi sẽ rút ngắn bài viết lại và trình bày hệ thống theo hướng nghiên cứu văn học để góp phần tưởng nhớ 100 năm ngày sinh của nhà thơ (22/9/1012 – 22/9/201).

Để thực hiện bài viết thư hai, tôi ước mong sẽ nhận được góp ý rộng rãi của bạn đọc. Xin gởi các góp ý về gopnhattho@yahoo.com và ghi rõ: góp ý cho bài viết về HMT.
Xin chân thành cám ơn.
Lm Trăng Thập Tự



VÀI NÉT VỀ HÀN MẠC TỬ

Hàn Mạc Tử tên thật là Phanxicô Assisi Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.9.1912 tại Lệ Mỹ (thuộc giáo xứ Tam Tòa), tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, Đồng Hới, Quảng Bình. Cha Hàn là ông Vinh Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và mẹ là bà Maria Nguyễn Thị Duy.
- Từ 1924-1926: Trí học tiểu học ở Quảng Ngãi
- Tháng 7-1926: ông Toản qua đời, Trí theo mẹ vào Qui Nhơn ở với anh là Nguyễn bá Nhân, xướng họa ký tên Minh Duệ Thị
- Từ 1928-1930: bắt đầu theo học trung học Pellerin ở Huế. Đến kỳ thi tháng 6, được cấp bằng Pháp Việt sơ học.
- 1931: làm thơ Đường đăng báo ký tên Phong Trần
- 1932: Hàn làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn, yêu Hoàng Cúc.
- 1933: lãnh bí tích Thêm Sức tại Nhà Thờ Chánh Tòa Qui Nhơn với tên thánh Phanxicô Xaviê
- Năm 1934, vào Sài Gòn làm báo – đổi bút danh là Lệ Thanh rồi Hàn Mạc Tử (nhiều bài ký Hàn Mặc Tử)
- 1935-1936: gặp gỡ Mộng Cầm
- 1936 in tập Gái Quê, về Quy Nhơn chữa bệnh
- 1937: Biết mình mắc bệnh phong, cắt đứt thư từ và xa lánh bạn bè.
- 1938: Hoàn thành tập Thơ Điên (Đau Thương)
- 1939: Viết Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí – quen biết Thương Thương, viết Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ, Quần Tiên Hội
- 20/9/1940: Vào nhà thương Quy Hoà, mang số hiệu bệnh nhân 1134
- Qua đời vì bệnh kiết lỵ, tại Quy Hòa, lúc 05 giờ 45 phút ngày 11.11.1940.
Hàn Mạc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo: bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí...
(Theo Phan Cự Đệ - Nguyễn Toàn Thắng: Hàn Mặc Tử, Về Tác Gia Và Tác Phẩm, Nxb Giáo Dục, 2002, trang 36-39; Lê Đình Bảng, Ở Thượng Nguồn Thi Ca Công Giáo Việt Nam, Miền Thơ Kinh Cầu Nguyện, Nxb Phương Đông 2009, trang 175-177)

HÀN MẠC TỬ,
NGƯỜI KITÔ HỮU TRẺ
TRÊN LỐI VÀO NỘI TÂM


Mãi đầu những năm 1990, tôi mới được biết tác phẩm Lâu Đài Nội Tâm (LĐNT) của Thánh nữ Têrêxa. Khi đọc đến dãy cư xá thứ sáu, tôi chợt thấy một cái gì rất gần với những đau thương của Hàn Mạc Tử (HMT). Tôi đã trao đổi với cụ Võ Long Tê nhưng chưa có thêm ánh sáng.

Nay để đánh dấu giỗ lần thứ 70 của HMT, một người bạn của cụ Võ là cụ Phạm Đình Khiêm gợi ý tôi viết một bài giúp độc giả biết rằng HMT không chỉ là một nhà thơ lỗi lạc mà lắm đau thương nhưng còn là một Kitô hữu trẻ đã tiến xa trên đường nên thánh.

Đề nghị của cụ Phạm là dịp tốt cho tôi viết lên điều mình trực giác về HMT để giúp các bạn trẻ Công giáo biết một khía cạnh rất bất ngờ nơi nhà thơ trẻ tài hoa này: đời sống tâm linh. Xin được dành một phút tưởng niệm giáo sư Phan Cự Đệ (1933-2007). Tôi đã có thể viết bài này rất nhanh chính là nhờ tham khảo công trình sưu tập xếp đặt rất khoa học của ông, với hai quyển: “Hàn Mặc Tử – Tác Phẩm, Phê Bình Và Tưởng Niệm, Nxb Văn Học, Hà Nội, 2002” (sẽ viết tắt là PCĐ-1) và quyển hai, soạn chung với ông Nguyễn Toàn Thắng: “Hàn Mặc Tử – Về Tác Gia Và Tác Phẩm, Nxb Giáo Dục, 2002” (sẽ viết tắt là PCĐ-2).
Năm 1970 tác giả Đặng Tiến đã có bài viết rất sâu sắc về đức tin trong hồn thơ HMT. Có một đôi điểm tôi không đồng ý nhưng dù sao bài viết của tôi có phần tiếp nối bài viết của ông. Nhà nghiên cứu này phân tích nội dung thơ HMT theo mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa và lịch sử ơn cứu rỗi. Ông dựa trên trình tự sáng tác của nhà thơ. Tôi cũng dựa trên trình tự ấy nhưng không phải để nói về nội dung thơ mà nói về những biến chuyển nội tâm của nhà thơ theo một quan điểm huyền học Kitô giáo.

Câu hỏi nêu ra là tại sao có sự đột biến trong thơ HMT? Tại sao trước khi biết rõ mình bị bệnh phong (1937), HMT làm thơ rất hay, và sau khi biết điều ấy anh lại làm thơ cực hay? Tại sao trước đó anh chỉ làm thơ đời là chính còn sau đó anh lại nghiêng về thơ đạo? Tôi sẽ lý giải theo quan điểm của các vị thánh Dòng Cát Minh Têrêxa. Độc giả sẽ hiểu sâu hơn khi dấn thân thực hiện quan điểm này cho chính mình, vì thế ở cuối tôi sẽ viết một phần mang tính thực tập cho các bạn trẻ Công giáo, cách riêng là những bạn trẻ dấn thân theo ơn gọi tận hiến và những bạn trẻ thích viết văn, làm thơ.

1. ĐƯỜNG VÀO NỘI TÂM

Trước hết xin trình bày giáo huấn về ơn hiệp nhất theo Thánh nữ Têrêxa Avila.

Thánh nữ Têrêxa Avila hay Têrêxa Chúa Giêsu (1515-1582), người Tây Ban Nha, là nữ tu Cát Minh. Khi 7 tuổi đã được ơn yêu mến Chúa đến độ rủ người anh trốn nhà tìm đường chịu tử vì đạo, bởi vì muốn “chết để được thấy Chúa”. Đến 14 tuổi, mồ côi mẹ, cô quên lãng tình Chúa, chạy theo tình đời phù phiếm. Ông bố buộc lòng phải gởi con vào nội trú trường các nữ tu. 17 tuổi, cô bị bệnh kỳ lạ. Cô được soi sáng nhờ vài quyển sách về tâm linh và có dịp đào sâu kinh nghiệm. Khỏi bệnh, trốn bố vào Dòng sống đời tu Cát Minh. Ít lâu sau, bệnh tái phát, ngày càng nặng, tưởng chết, sắp đưa vào quan tài thì tỉnh dậy. Chị nhiều lần được ơn xuất thần, nhìn thấy Chúa. Thế nhưng cuộc sống tu viện ở đó không đủ nghiêm túc, chị lại phai nhạt tình Chúa, chạy theo tình đời. Chúa Giêsu xuất hiện, đứng sau lưng người đàn ông, nghiêm khắc nhìn chị. Chị hoàn toàn được ơn đổi mới đời sống. Chị xin phép Bề Trên thực hiện cuộc cải cách đời tu và lập ra Dòng Cát Minh Têrêxa ngày nay. Tác phẩm: Đời Tôi, Đường Hoàn Thiện, Ký Sự Lập Các Đan Viện, Lâu Đài Nội Tâm (1577), những bài thơ và nhiều thư tín.
Lâu Đài Nội Tâm: Năm 62 tuổi, tác giả được yêu cầu viết thêm về việc cầu nguyện. Bà đã dựa theo một thị kiến để viết nên quyển này. Bà nhìn thấy các mức độ linh hồn tín hữu được ở với Thiên Chúa như những dãy cư xá nhiều tầng nhiều lớp trong một lâu đài hình quả cầu. Bên ngoài quả cầu là tăm tối với đủ thứ rắn rít và muông thú hung dữ. Bên trong là bình an. Tại tâm điểm, chính Thiên Chúa vinh quang cao cả và đầy yêu thương ngự trị. Càng vào sâu, ta càng được gần Thiên Chúa. Càng vào những dãy bên trong, các phòng ốc càng được vinh quang Thiên Chúa từ tâm điểm tỏa ra chiếu sáng. Mỗi người đều được mời gọi tiến vào gặp gỡ và sống thân mật (hiệp nhất) với Thiên Chúa tại tâm điểm lòng mình. Trên mỗi thời điểm của hành trình cuộc sống, mỗi chúng ta ở tại một mức độ nào đó trong lâu đài hiệp nhất. Nếu chạy theo thụ tạo, không quan tâm tới Thiên Chúa, ta có thể lọt ra bên ngoài tòa lâu đài. Lúc ấy dù Thiên Chúa vẫn ở trong sâu thẳm lòng ta, ta không hưởng được sự thân mật với Ngài.

Tác phẩm LĐNT là sách giáo khoa dạy đàng tâm linh, cụ thể là đời sống cầu nguyện cao độ, viết cho các đan nữ chiêm niệm. Để độc giả dễ hình dung, tôi xin trình bày giản lược, gần như phiến diện. Độc giả nào quan tâm, có thể có thể tìm đọc chính văn của LĐNT. Tình trạng hiệp nhất giữa Thiên Chúa và linh hồn được tác giả mô tả như một tòa lâu đài có bảy lớp cư xá hay bảy mức độ ở lại. Cửa vào lâu đài là sự cầu nguyện, đem lại mức độ ở lại thứ nhất, mức độ này đòi phải vượt thắng các tội trọng; mức độ thứ hai đòi phải vượt thắng các tội nhẹ; mức độ thứ ba đòi phải bỏ mình và ra khỏi chính mình (thoát khỏi chủ quan, không tự hào về sự hoàn thiện luân lý). Mức độ thứ tư là đón nhận hiện tại, chu toàn bổn phận với lòng yêu mến. Cả hai mức độ ba và tư là nhịp cầu để tiến vào những mức độ sâu xa hơn: Hiệp nhất cùng một lòng một ý với Chúa (mức độ thứ năm), nên giống Chúa Kitô trong thử thách đau thương (mức độ thứ sáu) và hiệp nhất trọn vẹn với Thiên Chúa (mức độ thứ bảy).

7 - Hiệp nhất trong tình yêu
6 – Đêm tâm linh
5 – Hiệp nhất một lòng một ý với Chúa
4 – Ra khỏi mình - Vui nhận ý Chúa trong hiện tại
3 – Hoàn thiện luân lý (nguy cơ chủ quan)
2 – Thắng tội nhẹ
1 – Thắng tội trọng

Ta có thể hình dung lộ trình ấy như những vòng tròn đồng tâm có cửa từ ngoài vào trong, hoặc thành đường xoắn ốc của hoàng thành Cổ Loa hoặc, hướng về hôn lễ tâm linh giữa Thiên Chúa và linh hồn, cũng có thể hình dung đó như những vành khăn của cô dâu và chú rể trong ngày cưới.

Trên 7 vòng tiến của đường vào nội tâm, chính Thiên Chúa đích thân hành động và mời gọi con người hưởng ứng hành động của Ngài. Mỗi người vừa được mời gọi vươn lên vừa được Thiên Chúa kéo lên. Cùng lúc, vừa có công cuộc của Thiên Chúa vừa có nỗ lực của con người

2. NÉT ĐỒNG DẠNG GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM

Quyển Lâu Đài Nội Tâm là sách giáo khoa dạy kinh nghiệm cầu nguyện sâu xa cho các nữ đan sĩ. Tác giả là một nữ đan sĩ đã miệt mài hoạt động lo thiết lập các đan viện Cát Minh cải tổ. Khi trình bày về những người bị dừng lại ở dãy cư xá thứ ba, tác giả minh họa bằng hai nhân vật ngoài đời. Chi tiết này cho thấy, trong mắt tác giả, quyển sách không dành riêng cho các nữ đan sĩ nhưng chung cho mọi tín hữu muốn tiến bước trên đường tâm linh, không phân biệt nam nữ, già trẻ, chiêm niệm hay hoạt động. Để dễ hiểu, ta hãy đi từ kinh nghiệm thuần nhân loại của Đức Khổng Tử.

1. KINH NGHIỆM CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ

Đức Khổng Tử (551-479 tcn) đã kể lại những bước tiến của mình như sau: “Ta mười lăm tuổi đã để chí vào việc học; ba mươi, đã vững; bốn mươi, chẳng còn nghi hoặc; năm mươi, biết mệnh Trời; sáu mươi, vâng theo mệnh Trời; bảy mươi, tâm ta có muốn điều gì cũng chẳng hề sái phép.” (Ngô thập hựu ngũ, nhi chí vu học; tam thập nhi lập; tứ thập nhi bất hoặc; ngũ thập nhi tri Thiên mệnh; lục thập nhi nhĩ thuận; thất thập nhi tòng tâm, sở dục bất du củ).

70: tòng tâm/ hòa nhịp với trời
60: vâng mệnh trời
50: biết mệnh trời
40: hòa với khách quan
30: có lập trường
15: học

Đức Khổng Tử đã có một cái nhìn nào đó về Thiên Chúa. Ông đón nhận mệnh Trời cách bình an (ở tuổi 50 và 60) và đã đạt tới chỗ đồng cảm với ý Trời (tuổi 70). Tuy nhiên, khi viết lời ấy có thể Đức Khổng Tử chưa biết đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa trong yêu thương hạnh phúc. Cũng có thể rằng ông đã được ơn hiệp nhất này nhưng vì sợ làm rối lòng người nghe, chưa đủ sức hiểu nổi, nên ông không nói ra. Khi lập ngôn, ông cân nhắc từng chữ, phần không nói mênh mông gấp bội phần nói ra, ta khó đoán được.

7 – Hiệp nhất trong tình yêu
6 – Đêm tâm linh
5 – Hiệp nhất một lòng một ý với Chúa


70: tòng tâm/ hòa nhịp với trời
60: vâng mệnh trời
50: biết mệnh trời
4 – Vui nhận ý Chúa trong hiện tại
40: hòa với khách quan
3 – Ra khỏi mình
30: có lập trường
2 – Thắng tội nhẹ
15: học 1 – Thắng tội trọng

Khoảng trống ở hai ô trên cùng phía Đức Khổng Tử cho thấy sự khác biệt nơi cái nhìn của hai bên về Thiên Chúa. Với kinh nghiệm chia sẻ trên đây, Đức Khổng Tử chỉ mới trực giác thấy một Thiên Chúa có ngôi vị đang điều hành vũ trụ. Do đó sự hiệp nhất ông vươn tới với Ngài là hiệp nhất trong một lòng muốn. Chia sẻ cùng một ý muốn với Thiên Chúa, ông trở thành bậc thầy của muôn đời, thành một nhà giáo vĩ đại chứ không thể là nhà thơ. Còn Thánh nữ Têrêxa Avila đã được ơn nhận biết Thiên Chúa của Kinh Thánh, Đấng yêu nhân loại và mỗi người chúng ta hơn cha mẹ yêu con (x. Is 49,15), hơn chồng yêu vợ (x. Hs cc. 1-3), cho nên còn được lôi kéo vào ơn hiệp nhất với Thiên Chúa trong tình yêu và đã là một nhà thơ của Giáo hội Công giáo.

Để tiến vào hiệp nhất, cần biết có tiếng gọi hiệp nhất. Nho Giáo chỉ mới biết đến sự đồng cảm (thiên nhân tương dữ) giữa trời và người nhưng chưa biết đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Sự hiệp nhất với Thiên Chúa không chỉ ở đời sau, trong cõi đời đời, mà đã khởi sự ngay ở đời này: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,4-5). “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một” (Ga 17,23)

Ơn hiệp nhất với Thiên Chúa chí thánh cũng đòi thụ tạo phải được gội sạch hết mọi bất toàn, bất xứng. Hiểu như thế, những vòng tròn nội tâm tiến vào hiệp nhất với Thiên Chúa cũng là những đợt thanh tẩy từ ngoài vào trong, càng lúc càng triệt để.

Đức Khổng Tử mỗi ngày xét mình ba lần để tự thanh luyện mình. Nỗ lực thanh tẩy chủ động (tự nguyện) đã giúp ông đạt tới một trong những đỉnh cao nhất mà sức người có thể đạt tới.

3. TƯƠNG QUAN GIỮA NGHỆ THUẬT VÀ TÂM LINH

1. Từ thiên nhiên đến Thiên Chúa

Nhiều nhà thơ có một cuộc sống hiệp nhất chan hòa với thiên nhiên vũ trụ. Họ chưa cảm nhận được Thiên Chúa nhưng đã say mê với những bóng dáng của Ngài nơi các thụ tạo muôn hình muôn vẻ. Cụ thể như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xưa hay như Trịnh Công Sơn gần đây. Nếu Trịnh Công Sơn được ơn cảm nhận Thiên Chúa Tuyệt Đối, hẳn chúng ta đã có thêm được những tác phẩm có nội dung như Rabidranath Tagore. Nhà thơ Ấn này trực giác thấy Thiên Chúa Tuyệt Đối Chí Thánh như một vị vua nhân ái và vị chủ nhân đời đời đáng kính mến, và thơ ông toát ra sự hiệp nhất ở mức độ ấy.
Phần HMT, đã được lãnh bí tích thánh tẩy để trở nên con cái Thiên Chúa và ngay từ tấm bé, nhờ học giáo lý Kinh Thánh, đã nhận biết Thiên Chúa đầy yêu thương là Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị phân biệt là Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, khi anh được lôi cuốn vào ơn hiệp nhất với Thiên Chúa, thì ấy không phải là Thiên Chúa của Khổng Tử hay của Tagore nhưng là Thiên Chúa của Kinh Thánh, cũng như Têrêxa Avila.
Trong bài “Quan niệm thơ”, HMT viết: “Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài, toàn năng, một Đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự – Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Thi sĩ chỉ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng, anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian này, nhưng thi sĩ là người khao khát vô tận, cứ nhất định hưởng cái thơ trên mọi cái thơ khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ. Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời.” (PCĐ-1, tr. 180)

2. Biên thùy huyền học giữa tâm linh và nghệ thuật

Về tương quan giữa thi ca với huyền học tự nhiên cũng như huyền học Kitô giáo, Giáo sư Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương chia sẻ như sau:

Trong giáo trình về duy thức luận, tôi cũng đi từ tri giác lên tri thức thần hiệp. Khởi sự là tri giác rồi đến tri thức khoa học thực nghiệm, tới trực giác của nhà nghệ sĩ, thần bí tự nhiên ngoại giáo (Hy Lạp, Ấn Độ), cho tới thần bí Kitô giáo.
Đây không đặt vấn đề hơn thua cao thấp, nhưng nếu hỏi ai là người am hiểu được bản chất của vũ trụ hơn, thì theo tôi, cao nhất là các nhà thần hiệp Kitô giáo, rồi đến các nhà thần hiệp ngoài Kitô giáo, tiếp đến là các nghệ sĩ, rồi mới đến các triết gia, các nhà khoa học và thấp nhất là tri giác.

Tâm hồn các bậc thi hào, khi thốt lên tiếng tơ lòng của họ trước cái đẹp, đều nói lên được phần nào bản chất của nhân sinh cũng như của vũ trụ. Họ mon men tới biên thùy của cái biết tự nhiên và cái biết huyền học giữa con người với vũ trụ, với tha nhân, với nhân loại.

Khi được mời tham gia thực hiện cuốn phim đời mình, nhạc sĩ Văn Cao đã xin một cảnh quỳ dưới chân thập giá nhưng người ta không chấp thuận. Cụ bảo: “Nếu tôi không hiểu alleluia nghĩa là gì, thì đã không có bài Làng Tôi”, nói cách khác, nhạc của cụ chịu ảnh hưởng âm nhạc và đức tin Công giáo.

Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, nhan nhản những hình ảnh rõ là mấp mé biên thùy huyền học. Huy Cận cũng thế. Huống hồ những người như Tagore.

Ngược lại, một cách rất tự nhiên, nhà huyền học (Kitô giáo hoặc ngoài Kitô giáo) luôn có nét của tâm hồn thi sĩ. Như với thánh Phanxicô thì trong cả vũ trụ, hình như nhìn bất cứ vật gì Ngài cũng đều thấy thấp thoáng bóng dáng Chúa Giêsu. Ví dụ thấy tảng đá thì Ngài nghĩ đến Tảng Đá Góc Tường, thấy con sâu bị chà đạp thì Ngài nghĩ đến Chúa Giêsu, được mô tả qua hình ảnh người tôi trung trong Isaia như một con sâu hèn mọn. Theo Giáo sư Cao Xuân Hạo, đoạn Tin Mừng về Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11) là một đỉnh cao không những về đạo lý Kitô giáo mà cả về cấu trúc văn chương và nghệ thuật.

Đạo Đức Kinh cũng vừa là một bài thơ vừa đầy tính huyền học. Bát phúc (x. Mt 5,3-11) cũng thế. Sách Isaia và một số sách tiên tri khác trong Cựu Ước đều đầy những bài thơ mang tầm vóc nghệ thuật. Đó là chưa nói tới Thánh vịnh hay Diễm ca

Nhà thần học Von Ur Balthasar có xu hướng lấy cái đẹp (Mỹ) làm dấu chỉ của Thiên Chúa hơn là cái thật và cái tốt (Chân và Thiện), nhất là nơi Kitô giáo. Về một Thiên Chúa dưới góc nhìn Chân và Thiện, có lẽ các tôn giáo khác và các nền minh triết khác đều đã nhìn thấy. Chỉ riêng Kitô giáo mới đào sâu Thiên Chúa là Tình yêu (x. 1Ga 4,8.16) và là Vẻ Đẹp. Tình yêu gắn liền với cái đẹp. Cả tình yêu lẫn cái đẹp (duyên dáng) đều mang tính cho không, vô vụ lợi.
Tóm lại, tâm hồn nghệ sĩ mon men tới thần bí, và tâm hồn thần bí mon men tới biên giới của nghệ thuật.

3. Bước tiến nơi các tác phẩm HMT

Có lần Thầy Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương bảo tôi rằng những thiên tài về thi ca nghệ thuật là những người chỉ xây một nửa cây cầu và tạo dịp giúp cho những kẻ hâm mộ họ xây tiếp nối nửa cây cầu còn lại, mỗi người mỗi vẻ khác nhau mà ai cũng có thể “mười phân vẹn mười”. Có người đã tiếp nối bằng nửa cây cầu mang dấu ấn của phân tâm học, có người tiếp một nửa cây cầu mang dấu ấn của Các Mác hay của Nietzsche, còn Thầy Thế Tâm, khi chia sẻ về nét đau và bể khổ, là tiếp nối nửa cây cầu của HMT với những suy niệm của sách Gióp. Hiểu như thế thì bất cứ ai hâm mộ thơ HMT đến độ sâu sắc nào đó đều có thể tiếp nối nửa cây cầu riêng, mang một dấu ấn riêng rất phong phú. Và như thế, bản thân tôi ở đây hình như đang tiếp nối rung động của nhà thơ bằng nửa cây cầu còn lại với dấu ấn của LĐNT. Phải chăng một sự giao duyên nào đó giữa hồn thơ của HMT với hồn tôi đang giúp tôi gần như lại sáng tạo ra một cái gì như là một bức minh họa dáng vóc thi ca của HMT với ngọn bút lông LĐNT.

Vâng, có lẽ HMT chưa đọc LĐNT nhưng chính hồn thơ được sự đau khổ cùng cực đánh lên như một phím đàn vọng lên những tiếng có gì như đồng thanh đồng khí với cái tứ huyền nhiệm của LĐNT.
Với những bài thơ còn lại quá ít của Hàn Mạc Tử, ta không dễ minh họa đầy đủ các chi tiết về hành trình tâm linh của anh. May thay, ta còn giữ được tên các tập thơ của anh và hướng đi chính của các tập ấy. Với 28 tuổi đời, sự nghiệp sáng tác văn thơ của anh trải dài mười năm cuối.

Dựa trên bảng niên biểu Hàn Mạc Tử và trình tự giới thiệu Thơ Hàn Mạc Tử, ta được biết thứ tự các tác phẩm và qua đó cũng có thể thấy được bước tiến rất nhanh của anh trên đường tâm linh (xin đọc từ dưới lên):

6. Tấm linh hồn thanh khiết (1940)
5. Cẩm Châu Duyên và Quần Tiên Hội (1939)
4. Xuân Như Ý và Thượng Thanh Khí (1939)
3. Đau Thương hay Thơ Điên (1938)
1937: Biết rõ mình mắc bệnh phong, cắt đứt thư từ và xa lánh bạn bè.
2. Gái Quê (1936)

1. Thơ đăng báo - Lệ Thanh thi tập (1931-1935)
Đem đối chiếu, ta có:
Khổng Tử Lâu Đài Nội Tâm Hàn Mạc Tử
7 - Hiệp nhất trong tình yêu Tấm linh hồn thanh khiết
6 – Đêm tâm linh Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội
70: tòng tâm/ hòa nhịp với trời 5 – Hiệp nhất một lòng một ý với Chúa Xuân Như Ý và Thượng Thanh Khí
60: vâng mệnh trời
50: biết mệnh trời 4 – Vui nhận ý Chúa trong hiện tại
40: hòa với khách quan 3 – Ra khỏi mình Đau Thương
30: có lập trường 2 – Thắng tội nhẹ Gái Quê
15: học 1 – Thắng tội trọng Thơ đăng báo - Lệ Thanh thi tập

Chỉ hơn ba năm, bước đường tâm linh của người giáo dân HMT 28 tuổi vượt xa một người 63 tuổi đã kinh qua 7 năm tiểu chủng viện, 8 năm đại chủng viện và gần 35 năm trong tác vụ linh mục, kể cả 7 năm giồi mài tâm linh trong các tu viện Cát Minh.

Có bí mật nào ở đây?

Xin thưa ngay, HMT đã có được bước tiến nhảy vọt không do sáng kiến hay sức riêng của anh nhưng do sức mạnh đào tạo của Thiên Chúa, Đấng ưu ái thanh luyện anh qua khổ đau thể xác và tinh thần; đồng thời cũng do bởi anh đã không hề hẹp hòi tí nào trước những gọt giũa của Ngài.

Bước nhảy vọt để ra khỏi mình không dễ tí nào. Phải nói là nó vượt quá sức người. Những nỗ lực tự nhiên thường không đủ sức thực hiện cuộc nhảy vọt, cần phải có ơn Chúa.
May thay, song song với sự thanh tẩy chủ ý và trước khi mỗi người nỗ lực tự thanh tẩy, chính Thiên Chúa đã có một chương trình giúp người ấy được thanh tẩy để có thể được đưa vào hiệp nhất với Ngài. Ngài thanh tẩy vượt hơn cả điều họ mong chờ. Tựa như người ta nấu chảy quặng, luyện sạch hết những tạp chất để hứng lấy quý kim tinh ròng. Cuộc thanh tẩy này là sáng kiến của Thiên Chúa nên được các tác giả huyền học Kitô giáo gọi là cuộc thanh tẩy thụ động (về phía con người), nổi rõ nơi hai vòng tròn thứ ba và thứ sáu của đường vào nội tâm.

Trên lộ trình tâm linh, bước nhảy vọt ở giai đoạn ba rất quan trọng, mang tính quyết định, tựa như thách đố vượt Vũ môn trong truyền thuyết cá hóa rồng. “Theo truyền thuyết, ở thượng lưu sông Hoàng Hà bên Trung Quốc, có một mỏm đá như hình cái cửa; khi vua Vũ nhà Hạ trị thuỷ, đã đục phá mỏm đá này cho rộng thêm ra, nên gọi là Vũ môn [cửa vua Vũ]. Vũ môn có sóng dữ, hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép tập trung đến đây thi vượt Vũ môn, con nào vượt qua được thì hoá rồng. Từ đó, cửa Vũ thường được chỉ chốn trường thi và ai thi đỗ được ví như cá vượt qua Vũ môn.” (http://tudien.xalo.vn).

4. BƯỚC NHẢY QUYẾT ĐỊNH Ở VŨ MÔN

Gương mẫu của các thí sinh, “vạn thế sư biểu”, bậc thầy của muôn thế hệ, đã vượt qua Vũ môn. Vì thế, ông luôn luôn có thái độ an nhiên, ung dung tự tại của một hiền nhân ngộ đạo chứ không nhắm gậm vị cay đắng của cuộc đời như nhắp rượu.
Có thể Đức Khổng Tử còn có những kinh nghiệm vượt trên tòng tâm mà không nói ra. Ông chỉ nói ông đã đạt tới tòng tâm nhưng không nói làm sao để đạt được. Rất có thể vì không nỡ để môn sinh nản lòng bỏ cuộc mà ông không chia sẻ.
Trong thực tế, tấm gương và lời dạy của ông đã giúp biết bao môn sinh, cả những người chân lấm tay bùn, đã khao khát hóa rồng và đã tìm đến Vũ môn. Có ước vọng biến thành rồng đã là điều rất đáng khích lệ. Tìm tới được Vũ môn để dự thi đã là một thành tựu rất đáng kể. Nếu đã tới được Vũ môn rồi lại tháo lui thì thật đáng tiếc.

Bí mật ở Vũ môn là con cá phải chết đi, phải lột xác, con rồng mới có thể hình thành. Đức Khổng Tử đã lặng lẽ đi qua một cái chết giữa đời thường, đã được ơn thanh tẩy thụ động của vòng thứ ba. Một đàng ông được các vua quan trọng vọng nhưng đàng khác, những đề xuất của ông chỉ được họ đón nhận nửa vời. Quả là một thất bại tinh tế mà hết sức sâu xa và não lòng. Thế nhưng ông đã vui lòng đón nhận thực tế ấy như mệnh Trời. Chính khi ông vui nhận để cho thiên mệnh phá vỡ kế hoạch của riêng ông thì kế hoạch Trời dành cho bản thân ông đã thành tựu. Dù chưa hề nhận biết Chúa Kitô, ông vẫn đáng được các Kitô hữu mến yêu và học đòi như một đại thánh. Không phải ông đã tìm thấy kho tàng rồi tự nguyện bán hết cơ nghiệp để mua thửa ruộng có kho tàng ấy (x. Mt 13,44) nhưng ông bị ai đó giật mất mẩu bánh thừa trên tay rồi thay vào đó bằng khối ngọc (x. Mt 13,45-46), chỉ vì ông bằng lòng khi bị giật mất mà không hề than trách. Khi nhìn sững khối ngọc trên tay là chính sự sống mới của mình, hẳn ông đã tự nhủ: “Được lời lãi cả thế gian mà hỏng mất chính mình, nào ích lợi gì?” (Mt 16,26)

Đưc Khổng Tử đã đi qua cái chết lặng lẽ nhiều năm trước khi nhắm mắt xuôi tay. Có thể ông cũng biết đó là chìa khóa của Vũ môn nhưng không vội nói tới cái chết để môn sinh không rời khỏi Vũ môn. Ông muốn họ yên ổn ở lại đó, “an phận thủ thường”, và rồi đến một lúc bất ngờ, nhờ cái chết, họ sẽ được ai đó ẵm qua Vũ môn, không cần nhảy.

Những ai chưa tới Vũ môn hay đã đào thoát khỏi Vũ môn, không còn khao khát hóa rồng, thì cái chết thể lý vẫn chưa đủ. Bên kia cái chết ấy họ còn phải được thanh luyện hết mọi vấn vương để đạt được nỗi khao khát duy nhất và hết sức nồng nàn là khao khát nên giống Thiên Chúa để hiệp nhất với Ngài.

2400 năm sau Đức Khổng Tử, một thiếu nữ hoàn tất cuộc đời lúc 24 tuổi (Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu) đã không ngần ngại mách cho cuộc đời biết chiếc chìa khóa đơn giản để vượt Vũ môn: một cái chết hằng ngày. Nghiã là, Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc nhân loại bằng cuộc Vượt Qua mới, tức là cái chết và sự sống lại của Ngài, và cho người Kitô hữu được nên giống Ngài không chỉ nơi cái chết cuối đời mà còn cả nơi những cuộc vượt qua nho nhỏ giữa đời thường, tức là chết đi từng chút về ý riêng, vui nhận mọi bất ngờ và trái ý hằng ngày
.
Cái chết hằng ngày giúp hoàn tất giai đoạn thứ ba và đưa nhanh tới giai đoạn thứ sáu. Chết hằng ngày, tức là sẵn lòng để cho Thiên Chúa tước lột từng chút một trong hiện tại. Ngày lại ngày, con sâu chuyển mình và một lúc nào đó sẽ hoàn toàn trút bỏ được hình hài cũ để trở thành con bướm. Nếu cứ ẩn nhẫn ở cửa Vũ môn, chết rồi ta sẽ hóa rồng. Nếu đảm nhận được cái chết hằng ngày, ta sẽ có cơ may của HMT, hưởng được Xuân Như Ý ngay trên cõi đời này. Và rồi, giữa vô vàn cuộc thi rất nhỏ của đời thường, bất chợt một đáp án đúng nào đó (có thể là một lần tha thứ, một lần từ bỏ ý riêng) đã thành giọt nước đầy ly, khiến người ta được hóa rồng ngay bên này cửa Vũ môn.

5. KINH NGHIỆM HÀN MẠC TỬ

Trước khi đảm nhận cái chết hằng ngày của giai đoạn thứ ba, HMT đã hoàn tất giai đoạn thứ nhất và thứ hai.
Cuộc thanh tẩy ở giai đoạn một và hai
Ở vòng thứ nhất, những người thiện chí tự thanh tẩy những tội lỗi sống sượng; sang vòng thứ hai, họ tự thanh tẩy những tội lỗi nhẹ. HMT đã vượt khỏi vòng thứ hai như thế nào? Nhắc đến nhận định của Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh cho rằng tập Gái Quê của HMT thiên về dục tính, Đặng Tiến phản bác:
“Một người chỉ xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tính … đi tới đâu? Tôi xin giải thích thêm về điểm này:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò,
Thơm như tình ái của ni cô.
Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là cái cảm giác của Ađam và vợ khi đóng khố che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (St 3,7-8) sau khi ăn trái cấm. Ađam thẹn thò vì đã phạm tội. Còn trăng việc gì phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể đó, chúng ta đã thừa kế của Ađam, cho nên tôi mới nói không khí rạo rực trong Gái Quê là di sản của nguyên tội…
HMT nhắc đến tình ái của ni cô hay da thịt của nàng dâu để gợi lên cái vô tội của mình trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội mà mình phải gánh chịu.” (PCĐ-1, tt 406-407)
Ta hãy nghe lời HMT tâm sự với Bùi Tuân: “Bao giờ tôi cảm thấy mình đau đớn, trong xác thịt và trong tâm hồn, và nhất là tôi thấy mình bình tĩnh trong sạch thì mới làm ra những bài thơ đạo hạnh. Không phải lúc nào mình cũng làm được lối thơ ấy.”

Cuộc vượt thoát ở giai đoạn ba
Tới dãy cư xá thứ ba của LĐNT, những người thiện chí tự thanh tẩy cả những khuyết điểm và bất toàn nho nhỏ. Đang khi họ nỗ lực như vậy, Thiên Chúa đẩy cuộc thanh tẩy đi xa hơn. Ngài gởi đến những điều bất ngờ và trái ý, những thử thách lớn. Chẳng hạn một người vừa viết xong một quyển sách dày thì bị hỏa hoạn hủy sạch, cả bản in thử cuối cùng lẫn những phác thảo và tư liệu nhặt nhạnh từ bao năm. Thử tưởng tượng khoảng cách và tác dụng của hai phản ứng trái ngược. Điều gì xảy ra nếu người ấy than trời trách đất, phẫn uất phản kháng Thiên Chúa? Và ngược lại, điều gì xảy ra nếu sau một phút thoáng buồn, người ấy tự nhủ: Có lẽ thế lại hay, có thế mình mới chịu viết lại quyển sách cho thật ngắn gọn, vừa xuyên suốt vừa sáng rõ dễ hiểu hơn. Bao năm ông cứ phải níu lấy khuôn khổ cũ, không thoát ra được, nay nhờ công trình bị hủy diệt, ông mới thật sự tự do để viết được quyển sách thật mới, gọn nhẹ và thanh thoát, đem so với quyển cũ khác nào bướm sánh với sâu. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,24)
Thái độ trước chỉ đem lại đắng cay thất vọng. Thái độ sau mở ra một chân trời hoàn toàn mới. Tác giả không thể nào hân hoan trước sự mất mát quá lớn nhưng cùng lúc ông cảm nghiệm được một an ủi lớn: nhất định quyển sách viết lại sẽ hay hơn trước nhiều. Đây cũng là điều Thánh nữ Têrêxa Avila nhắc đến khi mô tả vòng thứ ba trên đường vào Lâu Đài Nội Tâm (3Cư 2,10): ơn an ủi là điều khác với sự hoan lạc tâm linh, người ta có thể được an ủi cả khi không hề cảm thấy ngọt ngào hoan lạc.

Đừng nghĩ rằng người thứ hai là một kẻ bi quan: cam lòng, đành phận. Thái độ “cũng đành” hay “cam chịu” che tối chân trời, khiến cuộc đời thành ảm đạm, ngược với thái độ của Đức Khổng Tử là “thuận theo ý Trời”, mở ra một chân trời tươi sáng.

Đây cũng là thái độ của HMT. Tác giả Trọng Miên viết: “Cuộc đời của HMT là cả một bài thơ ghê gớm rùng rợn, có một không hai trong những thi sĩ đông tây. Thần tai họa đã gieo vào chàng một chứng bệnh tàn ác trong lúc thi sĩ rơi xuống cõi đời bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng.” (PCĐ-1, t. 357). Thế nhưng, xin hãy mở PCĐ-2 và đọc dòng chữ ngay chính giữa trang 38, thật gãy gọn nhẹ nhàng nhưng hết sức quảng đại khiến ta lặng người đi nếu không bật khóc. “1937:… biết rõ mình mắc bệnh phong, cắt đứt thư từ và xa lánh bạn bè”. Mãi sau khi anh chết, phần lớn tác phẩm của anh mới thành mây khói nhưng ở đây còn kinh khủng hơn ngàn lần: bệnh phong ở nửa đầu thế kỷ 20! Chẳng khác gì mấy với bệnh phong thời Cựu Ước và thời Chúa Giêsu, kinh khủng đến nỗi bị coi là dấu hiệu của sự bị kết án và khai trừ.

Thêm vào đó còn có thử thách sâu thẳm đối với một người trẻ là ngõ cụt trong tình yêu đôi lứa. Độc giả có thể xem phần tác giả Đặng Tiến nói về đau thương trong cuộc đời HMT (PCĐ-1, tt. 409-415).
Trong bài “Hàn Mạc Tử và sứ điệp của nhà thơ”, Bùi Tuân viết: “Bàn về HMT trong loạt bài “Thi ca cận đại và nỗi lòng thành thực”, ông Lê Tuyên – giáo sư trường Đại học Sư phạm Huế – tự hỏi, nếu đau thương là hiện thực của cuộc đời, nếu đau thương gắn bó với chúng ta trong từng nhịp sống, lay động chúng ta trong những cơn thức tỉnh xót xa thì phải chăng đau thương đã hàm chứa một ý nghĩa huyền nhiệm. Ông cho rằng sở dĩ chúng ta chưa bao giờ lĩnh hội được ý nghĩa huyền nhiệm của đau thương là vì “chúng ta chưa bao giờ hưởng thú đau thương mà trái lại chỉ là những kẻ chạy trốn đau thương. Vì chạy trốn cho nên mới bị vây, vì trốn đi đâu cho thoát khỏi cuộc đời đau khổ. Cho nên vấn đề của con người, không phải là trốn khổ mà phải tìm trong sự thống khổ ý nghĩa của đời mình. Thấy được đau thương và sống hạnh phúc trong đau thương, tôi nghĩ chỉ có Hàn Mạc Tử”.
Mai Đình chỉ là người bên cạnh nhưng đã phản ứng trước những chuyện ấy bằng những lời “căm giận”:

Em muốn phá tan cả đất trời
Cho lòng nhẹ bớt nỗi bi ai
Thương Anh càng thấy căm trời đất
Gieo bệnh nan y để hại người. (PCĐ1, t. 366)

Đang khi đó suốt tập Đau Thương, 48 bài thơ, ta không hề thấy HMT thốt ra một từ nào mang ý nghĩa phiền trách. Anh quảng đại vui nhận mệnh trời. Anh ra khỏi mình. Anh không giấu diếm bạo bệnh, không lừa dối người khác để níu kéo cuộc sống thừa thêm chốc lát. Anh lập tức tự loại mình khỏi xã hội để khỏi gây hại cho người xung quanh. “Những phút sáng láng như hôm nay, soi sáng linh hồn tôi, và giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt…” (Chơi giữa mùa trăng).

Và phút chốc, ta thấy xảy ra phép lạ của sự từ bỏ: thơ của an bình và là thơ gieo an bình. Đang khi mọi người chỉ nhìn thấy mặt trái nham nhở của tấm thảm, nhà thơ được ơn vượt khỏi thế giới này, nhảy vào một cõi khác, nhìn thấy tuyệt tác phía mặt phải tấm thảm. Anh được ơn nhìn mọi sự từ cõi vĩnh hằng và kể lại cho chúng ta, những người đang sống ở cõi đời tạm bợ. Xem lời tựa “Đau Thương” (PCĐ1, 159-160).
70 năm qua, không thiếu người đã mô phỏng ngôn từ, âm điệu và hình ảnh của HMT, lắm khi hết sức tài tình, nhưng chưa thấy ai có câu nào tồn tai với thời gian. Đang khi đó, sau ba phần tư thế kỷ, thơ HMT cả lời lẫn ý vẫn không một chút cũ mòn. Vì đâu? Vì mấu chốt để để hoàn tất giai đoạn thứ ba là sự khiêm nhường. Trong hồi ký về những ngày cuối đời HMT, ông Nguyễn Văn Xê viết: “Trên đường trở về nhà thương, vừa đi tôi vừa suy nghĩ về Trí, về sự khiêm nhường của Trí là từ ngày vô cho đến chết, Trí chưa hề nói một tiếng Pháp với bất cứ mẹ nào. Lúc nào tôi cũng là người thông ngôn” (PCĐ-1, tt. 380-381).
Khiêm nhường đây không phải là vẻ từ tốn bên ngoài nhưng là sự “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Học khiêm nhường với Chúa Giêsu là học sự xóa mình triệt để đến mức độ tự hủy (x. Pl 2,6-8). Như thế, giai đoạn ba gắn liền với giai đoạn sáu. Để hoàn tất giai đoạn ba, ta cần hướng tới giai đoạn sáu, khao khát nên giống Chúa Giêsu trong nghèo hèn, bị cô đơn, bị bỏ rơi, bị sỉ nhục. Làm như thế là ta đang đong cho Chúa những đấu thật đầy và Chúa sẽ trả lại những đấu tràn đầy gấp bội (x. Mc 4,24). Theo hướng ấy, với chút kinh nghiệm hướng dẫn các linh hồn qua sứ vụ linh mục, tôi có thể xác quyết rằng: bất cứ thi sĩ nào càng thêm khiêm nhường thì thơ sẽ càng hay, cái hay từ ơn Chúa.
Quả như lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” (Mc 10,29-30)

Đón nhận thử thách và sẵn sàng từ bỏ tất cả để dấn thân theo Chúa, nhà thơ HMT của chúng ta được gấp trăm và còn hơn gấp trăm, bởi lẽ anh được lôi lên một tầm cao hoàn toàn mới. Chẳng hạn, từ tuyển tập Đau Thương trở đi, HMT vẫn nhắc nhiều đến phụ nữ nhưng cái nhìn của anh hoàn toàn thanh thoát: Khác với Beaudelaire, “trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội… Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không một chút gì bợn nhơ, tội lỗi; còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường, ngoài điều răn của Đức Chúa Trời…” (Quan Niệm Thơ).
Càng vô tội, người thơ càng có cảm thức sâu xa về tội:

Tôi van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuấn hôn phối.
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.
(Đêm xuân cầu nguyện)

Nghe hai tiếng “tội lỗi”, những đầu óc vụ luân lý dễ vẽ vời ra những chuyện gì đó có lẽ xấu xa ghê gớm lắm. Họ khó mà hiểu được tâm thức một người đã đạt tới chỗ tận hưởng phong vị của mọi sự một cách vô tội. Phải là những ai đã rung động mãnh liệt trước tình yêu của Chúa Cứu Thế Giêsu và tha thiết khát khao đáp lại mới hiểu được cái tế nhị của tình yêu, chỉ một sơ suất rất nhỏ cũng vô cùng áy náy với Đấng mình hết sức yêu mến.
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã có một cảm nghiệm kinh hoàng về sự thánh thiện của Thiên Chúa (x. Is 64,5). Với tâm hồn Tân Ước, khi đã yêu mến Thiên Chúa cách tế nhị, người tín hữu không kinh hoàng trước sự thánh thiện nhưng khổ đau vì những điều nhỏ mọn xúc phạm đến Tình Yêu.

Nói về cuộc vượt thoát của HMT, Nguyễn Mộng Giác viết: “Giêsu Christ đã chịu đau khổ, đã chịu chết để cứu chuộc tội lỗi của nhân loại. HMT đã chịu đau khổ để hiểu ý nghĩa của đau khổ, từ đó vươn lên cõi đạo.”
Tuy nhiên, không chỉ có thế. Hàn Mạc Tử đã tâm sự với Bùi Tuân: “Tôi dự định viết ra nhiều tập thơ về tôn giáo. Trong thi giới nước ta chưa ai nghĩ đến việc đem chuyện Sinh Nhựt, truyện Phục Sinh để làm thi đề. Đó là những tài liệu không còn gì thú vị bằng.” Hồi nhỏ tôi rất ngạc nhiên khi đọc lời ấy, tự hỏi tại sao nhà thơ nhắc tới mầu nhiệm Giáng sinh và Phục sinh mà không nhắc tới sự Thương khó và cái Chết của Chúa? Nay thì tôi mới hiểu: một khi đã đi quá nửa đêm, ta không còn nghĩ đến bóng tối vây phủ mà chỉ hướng tới hừng đông.

Câu trả lời của chính nhà thơ

Để độc giả không nghĩ rằng tôi đang tìm cách chứng minh một học thuyết, tôi xin phép được trích dẫn bút tích của chính HMT. Nhà thơ vừa rao: “ai mua trăng tôi bán trăng cho” thì đã vội vàng đính chính: “không, không, không, tôi chẳng bán hòn trăng… trăng vàng trăng ngọc bán sao đang.” Nhà thơ đã từng ghép tên những phụ nữ mình yêu mến vào các câu thơ cách thật tài tình, thì ở đây thủ thuật của anh cũng tương tự. “Hòn” và “ngọc” cộng với ý tưởng nơi triệt thứ hai của bài thơ cho thấy anh đang nói về hòn ngọc Nước Trời: “Nöôùc Trôøi laïi cuõng gioáng nhö chuyeän moät thöông gia ñi tìm ngoïc ñeïp. Tìm ñöôïc moät vieân ngoïc quyù, oâng ta ra ñi, baùn taát caû nhöõng gì mình coù maø mua vieân ngoïc aáy.” (Mt 13,44-46) HMT đã gặp được ngọc quý của Nước Trời và trả mọi giá để mua cho bằng được. Ngọc quý vô cùng vô tận, trả giá nào đi nữa vẫn rẻ, dù đó là giá của “lời phụ rẫy” hay của bệnh phong cùi. Nguồn thơ anh bắt gặp là “Thơ mầu nhiệm”, vượt trên mọi thứ thơ, là chính Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ để ra đời làm người (x. Ave Maria, câu 35). Để mua sắm Thơ mầu nhiệm cho đời, anh sẵn sàng trả giá đau thương: “Máu tim ta tuôn ra làm bể cả” (Biển Hồn Ta, câu 1).

Trong bài Quan Niệm Thơ gởi Trọng Miên, HMT viết: “Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí Tôn. Vì thế trừ hai loài trọng vọng là thiên thần và loài người ta, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: Loài thi sĩ. Loại này là những bông hoa quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi những quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho, rất tinh sạch. Bởi muốn cho loài thi sĩ làm trọn nhiệm vụ ở thế gian này, nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời, Người bắt chúng mua bằng giá máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình…” (Trích theo PCĐ-1, tt. 178-180)
“Loài người hãy cám ơn thi nhân đã đổ ra biết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng…” (Lời tựa Xuân Như Ý: PCĐ-1, tr. 161-162).
Những lời trên đây của chính HMT giúp ta hiểu rõ tại sao trước khi biết rõ mình bị bệnh phong (1937), anh làm thơ rất hay, và sau khi biết điều ấy anh lại làm thơ cực hay, tại sao trước đó anh chỉ làm thơ đời là chính còn sau đó anh lại nghiêng về thơ đạo.

6. CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG


Khi đã biết mệnh Trời và vâng mệnh Trời, HMT khiêm nhường lui về lo bổn phận hằng ngày. Bổn phận trước mắt của anh lúc ấy là lo tìm cách chạy chữa. Dù rất vô vọng, bệnh nhân và người nhà vẫn tìm đủ mọi cách, còn nước còn tát. Nỗi mất mát ở giai đoạn ba cộng với cái công dã tràng ở giai đoạn bốn này có thể đưa tới sự chán ngán mệt mỏi, tương đương với tình trạng khô khan trong cuộc sống cầu nguyện của người đan sĩ. Thế nhưng, theo Thánh Gioan Thánh Giá, cuộc thử thách ở chặng thứ ba (sự thất bại, đêm khô khan hay đêm giác quan thuận tình) là điều cần thiết để đạt tới bậc chiêm ngưỡng, đây là bước chuyển tiếp từ suy niệm lên chiêm niệm, là lúc đứa bé phải cai sữa để tập ăn (2Lên, cc. 13-14; 2Đêm, cc. 8-9; Lửa 3,32-37). Các bài thơ trong tập Đau Thương cũng phần nào cho thấy những thử thách đã đem lại cho HMT ơn chiêm niệm:

- thích cầu nguyện thinh lặng,
- cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa,
- không còn suy niệm theo chủ đề, không cần đến những phương tiện như ý tưởng, lời nói, chỉ tập trung vào sự gặp gỡ Ba Ngôi Thiên Chúa.

Chính HMT kể lại một ngày bệnh tật của mình: “Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối khi ăn xong, cũng vừa đi bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì…” (PCĐ-1, t. 413)

Trong bài “Quan Niệm Thơ”, HMT viết: “Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngọt ngào mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ. Song le miệng lưỡi của thi sĩ ra như vẫn còn nóng ran, vẫn còn khát khao thèm thuồng những vật lạ muôn đời. Của thế gian nếm mãi chưa bưa, chưa ớn, chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn đi tìm mãi, vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến cõi ước mơ hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi sĩ nhận thấy ở người con trai cũng như người con gái, đều có một tâm thuật nhỏ nhoi, tầm thường không hợp với tính tình thanh cao của thi sĩ. Vì thế thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết mọi sự - Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Thi sĩ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng, anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian này, nhưng thi sĩ là người khao khát vô tận, cứ nhất định muốn hưởng cái thơ trên cái thơ khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ. Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường.” (Trích theo PCĐ-1, tt. 179-180)

Trong bài Say Thơ, ba lần HMT lặp lại:
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã.
(Câu 13, 25, 48)

Chiêm niệm không phải là tưởng tượng nhưng là cảm nghiệm của cầu nguyện trong thinh lặng và chiêm ngưỡng. Chiêm niệm là ra khỏi mình để tập trung tất cả vào Thiên Chúa. Cũng theo Thánh Gioan Thánh Giá, chiêm niệm là lãnh nhận.
Qua tuyển tập Đau Thương, ta thấy ơn chiêm niệm không đi đôi với việc làm thơ đạo. Ở giai đoạn này HMT vẫn viết thơ tình là chính. HMT là một Kitô hữu giáo dân và là một Kitô hữu trẻ. Anh ý thức trách nhiệm Kitô hữu của mình nhưng anh không thể hiện trách nhiệm ấy như kiểu một linh mục. Những vấn đề của anh là của một bệnh nhân và của một người trẻ (tình yêu lứa đôi) – và anh sống các thực tế của mình trong cái nhìn Kitô giáo. Cũng đừng quên rằng, trong cái nhìn Kitô giáo, tình yêu lứa đôi là điều thánh thiện.

Trong tiểu phẩm cuối cùng, bài “Hồn Thanh Khiết”, HMT viết: “Tôi những muốn tắm gội trong Đại dương ánh sáng và tình yêu Thiên Chúa.”
HMT chiêm niệm để chiêm ngưỡng Thiên Chúa và bắt gặp chính mình chứ không phải để làm thơ. Nếu ai làm thơ đang khi cầu nguyện thì sẽ lạc đường và chỉ thâu lượm được những bài thơ rất dở. Sau khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa, HMT về lại với đời thường và có khả năng nhìn những vấn đề nổi cộm của anh – bệnh tật và tình yêu – với cái nhìn từ một thế giới khác. Từ đó, anh viết nên những bài thơ khiến muôn đời kinh ngạc. Cũng vì thế, sang Xuân Như Ý và Thượng Thanh Khí mới có nhiều thơ đạo.

“Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào đây… Lời thơ ta sẽ sáng trưng như thất bảo. Tình cảm ta sẽ nóng ran như mặt trời. Ý ta sẽ cao cường hơn ngọn núi. Lạy Chúa Trời tôi! Hãy ban cho tôi hằng hà sa số là ơn lành, ơn cả… Thơ tôi sẽ rất no, rất ớn, rất nư, trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói chang vô vàn phước lộc… Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải là do phép tắc mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung?

Đưa ra nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…
Đưa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược…
(Lời tựa Xuân Như Ý: PCĐ-1, tr. 161)

Đưa ra… đưa ra… Tựa như là Thiên Chúa phán khi tạo ra muôn loài: Hãy có … Hãy có … (St 1,1-2,4). Từ trong vườn Êđen, con người đã có sinh mệnh trở nên như Tạo Hóa. Con người được ban khả năng lao động để góp phần vào công cuộc sáng tạo vũ trụ, khả năng sinh sản để góp phần sáng tạo nên những con người khác. Nhà thơ thì góp phần sáng tạo ra toàn người đẹp:
Cả lòng ta vô số gái hồng nhan
Ta nhả ra đây một nàng.

Tác giả Phan Cự Đệ bảo rằng “thi nhân đang cạnh tranh với Thượng Đế về vai trò Sáng thế” (PCĐ-2, t. 328), nhưng không phải thế. Chính Chúa Kitô đã hứa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12). Linh hạnh Dòng Cát Minh triển khai ý tưởng con hơn cha là nhà có phúc này dựa trên kinh nghiệm truyền thống từ thời các tổ phụ tinh thần của họ khi Êlisa được ơn thừa kế Êlia: “Con muốn xin Thầy cho con được gấp đôi về thần khí của Thầy” (2V 2,9). Chính vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi HMT thốt lên:

Ta chắp hai tay lạy quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
(Đêm xuân cầu nguyện).

Nhà thơ cao hứng thì viết vậy nhưng tự thâm tâm ông biết mình là thụ tạo thấp hèn giới hạn, cho nên ông tiếp liền sau những chữ đưa ra, đưa ra:
“Vẫn chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao…!
Phải mời cho được Xuân thiêng ra đời…
Bình an cả và thiên hạ…
Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mỹ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi Xuân là Ngọc như ý, tên xuân là Dạ lan hương.
Và xuân là phong thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc dải cát Hà sa, chen lấn vô tận hồn tạo vật…. Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng. Và loài người hãy cám ơn thi nhân đã đổ ra biết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng…
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió,
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao…
Thi nhân sẽ vừa say sưa, vừa điên cuồng, ọc ra từng búng thơ sáng láng, phương phi như một mùa XUÂN NHƯ Ý.
(Lời tựa Xuân Như Ý: PCĐ-1, tr. 161-162)

Như ý là chặng thứ năm trên đường vào nội tâm, là được ơn hiệp nhất một lòng một ý với Thiên Chúa. Nhĩ thuận và tòng tâm. Ta chiều theo ý Trời và Trời chiều theo ý ta. Như một tác giả minh triết trong Cựu Ước: “Trong tay Chúa, lòng Đức Vua tựa dòng nước chảy” (Cn 21,1). Hoàn toàn tự do. Chúa muốn gì, mình muốn nấy; và mình muốn gì, Chúa muốn nấy, bởi một lẽ rằng mình chỉ còn muốn những điều Chúa muốn. Từ đó mà có Xuân như ý, cả một mùa xuân, cả một trời hạnh phúc trong ý muốn của Thiên Chúa.

7. CHIÊM NIỆM VÀ THƠ

Khi cầu nguyện thinh lặng ta không làm thơ nhưng chỉ cảm nghiệm Thiên Chúa. Chỉ sau khi cầu nguyện rồi, một lúc nào đó cảm hứng mới đến và ta sẽ vận dụng những chất liệu tốt nhất có được để diễn tả cái sâu xa phong phú đã cảm nghiệm.
Ở đây tôi xin được chia sẻ một chút kinh nghiệm. Qua suy niệm cũng như qua chiêm niệm trong tĩnh nguyện hay giữa cuộc sống, nhiều lúc trong “tâm tư có một điều rất thích, không nói ra vì sợ bớt say sưa” (Ra đời, c. 20). Phản xạ bình thường là thích giữ lấy niềm riêng giữa mình với Chúa (x. Biển Hồn Ta, c. 9; Say Thơ, c. 69), không thích diễn thành thơ vì ngôn từ thật giới hạn. Cũng có khi muốn viết lên để chia sẻ với mọi người mà không có giờ. Còn nếu như có điều kiện ngồi viết, thì sẽ thế nào? Điều đã cảm nhận sẽ cùng lúc lôi kéo về một hình ảnh trội vượt, phát xuất từ Kinh Thánh hoặc cuộc sống, và một câu thơ tâm đắc (có thể sẽ nằm ở giữa hoặc cuối bài, không phải lúc nào cũng là câu đầu), rồi nhiều hình ảnh và ngôn từ phụ họa tuôn ra từ vốn sống sẵn có, có thể là từ điển tích Kinh Thánh, kinh nguyện Phụng vụ, từ sinh hoạt Dân Chúa, từ lịch sử Giáo hội và cả từ ca dao, điển tích đời, lịch sử, địa lý, phong tục cho đến những hình ảnh đẹp của các tôn giáo khác hoặc của tín ngưỡng bình dân. Tất cả là những chất liệu ùa đến cho tôi có thể vận dụng để trình bày điều mình cảm nhận. Chọn lựa của tôi sẽ chính xác và trong trẻo hay sẽ mơ hồ hỗn độn là tùy mức độ thinh lặng của cõi lòng. Bận tâm của người linh mục cũng góp phần kiểm duyệt, giúp tôi tránh bớt những gì có thể gây ngộ nhận cho những người đọc đang mở lòng ra với ơn Chúa. Dù là một giáo dân, HMT vẫn có ý thức mục vụ. Ý thức ấy sẽ kiểm duyệt thơ anh phần nào nhưng không phải là tất cả, vì anh “đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc” (Quan niệm thơ, PCĐ-1, t. 178). Do đó lắm lúc anh diễn tả rất tự do, dùng đủ mọi thứ để lột được điều anh cảm nhận, và như thế cũng là chấp nhận bị hiểu lầm, mặc cho người đọc đoán mò về điều anh đã cảm nhận thâm sâu.

Với chút kinh nghiệm ấy, tôi cho rằng có lẽ nhiều bài thơ của HMT chưa được đánh giá đúng lắm. Khi anh đưa thơ cho bạn bè, họ rất thích nhưng “không có lấy được một người hiểu mình” (Quan niệm thơ). Do đó, khi họ hỏi thì anh rất khó diễn giải; anh phải tìm cách này cách kia để giúp họ hiểu được phần nào, và vì thế vô tình để lại những chứng từ gây ngộ nhận như trường hợp lời kể của Quách Tấn trong PCĐ-1, t. 95 về hai bài Cuối Thu và Cô Liêu. Xin thử đối chiếu với những cước chú nơi hai bài này ở phần Tuyển Thơ trong tập này.

Thiên Chúa chẳng có cách nào khác để diễn tả Ngài là Tình Yêu (x. 1Ga 4,8.16) nên đành dùng tình yêu của cha mẹ trần gian đối với con cái, tình chồng đối với vợ, tình của người tình với người tình, tình của người mục tử với bầy chiên để diễn tả phần nào. HMT khi phải diễn tả những thực tại trời cao anh cảm nhận được cũng lúng túng như thế. Anh phải vận dụng đủ thứ. Khi vận dụng cả những hình ảnh và khái niệm Phật giáo để diễn tả đức tin của anh, một cách rất tự do, HMT đã có phần đi trước thời đại, đã áp dụng vào thơ anh những điều mà hơn 25 năm sau Công Đồng Vaticanô II mới nêu rõ.

8. CHẤT TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ

Trong bài “Thế giới nghệ thuật độc đáo của HMT”, giáo sư Phan Cự Đệ trình bày thơ tượng trưng như tột đỉnh của thơ HMT (PCĐ-2, tt. 315-328). Thế nhưng ông chỉ mới nói theo hướng thơ tượng trưng Pháp thế kỷ 19. Để hiểu hơn về Thơ Đạo của HMT, ta còn phải biết đến một hướng tượng trưng xa xưa hơn của Thánh Gioan Thánh Giá thế kỷ 16 và của sách Diễm Ca cũng như các thánh vịnh trong Cựu Ước (thế kỷ 2 tcn) – xin đọc bài “Dẫn vào các bài thơ của Thánh Gioan Thánh Giá” của Lucien Marie de Saint Joseph và bản dịch sách Diễm Ca. Trong thơ Thánh Gioan Thánh Giá, sách Diễm Ca hay các Thánh vịnh, ta thấy nhiều yếu tố thiên nhiên mang tính tượng trưng, chẳng hạn trong các Thánh vịnh, người tín hữu gọi Thiên Chúa là núi đá, là dòng suối, là người mục tử, vv…

Ở đâu đó trong Tứ Thư Ngũ Kinh có nói: “đối với trời thì đàn ông là âm mà đối với đất thì đàn bà là dương”. Nhận Thánh Phanxicô Assisi làm bổn mạng, HMT không thể nào không biết đến bài ca các thụ tạo Thiên Chúa của thánh nhân, trong đó muôn loài muôn vật đều là anh chị em của loài người, kể cả “em trăng buông ánh trăng thề, những em sao ngỡ lập lòe đóm bay” (bản dịch TTT). Trong thơ thì các tầng lớp ý nghĩa còn chồng chéo lên nhau, khi thì trăng là một yếu tố cám dỗ (trăng nằm sóng soãi trên cành liễu), khi thì trăng sao là thụ tạo cho ta chiêm ngưỡng phép tắc của Đấng Chí Tôn (hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao), khi thì trăng là thụ tạo đang thờ phượng Đấng Tạo Hóa (bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quì - sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu), khi thì trăng sao là hiện thân của Tuyệt Đối (chỉ có trăng sao là bất diệt, ci gì khc nữa thảy qua đi). Trăng còn là Đức Kitô chết trên thập giá mà người tín hữu cảm thương:
“Thình lình vùng mộng của chúng tôi bớt vẻ sáng lạn. Chị tôi liền chỉ tay về phía bến đò thôn Chùa Mo và bảo tôi rằng: “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát ra được, biết làm thế nào, hở Trí”. Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn” (Chơi giữa mùa trăng).

Và trăng cũng còn là phẩm giá tuyệt vời của người Kitô hữu, đã được nên giống Đức Kitô:
“Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu… Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là đấng tinh tuyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào chữa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh bạch quá đi.
Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu hỏi tức cười làm sao: “Có phải chị không hở chị?”. Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.
Ngó lại chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt.” (Chơi giữa mùa trăng)
Đi xa hơn, chất tượng trưng nằm cả nơi bản thân hai nhân vật đang tình tự và nơi chính tình yêu của họ. Tùy từng Thánh vịnh, khi cầu nguyện người tín hữu có thể mặc lấy những tâm tình khác nhau, nhập vào những vai trò khác nhau: Dân Chúa trong thử thách đau thương, tội nhân thống hối, người được Chúa yêu thương, chăm sóc và tha thứ, Đức Kitô trong cuộc Thương khó hoặc trong vinh quang Phục sinh.
Hiểu như thế, đọc HMT, ta sẽ thấy có khi anh nhập vai thành Giáo Hội, hiền thê của Chúa:
Chàng ơi, chàng ơi, sự lạ đêm qua
Mùa xuân tới mà không ai biết cả. (Ra Đời)

Có khi anh nhập vai vào chính Chúa Kitô:
Máu tim ta tuôn ra làm bể cả
Mà sóng lòng rần rật như mây trôi
….
Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta.
(Biển Hồn Ta, 1-2. 9-10)
Ngay giữa cuộc sống quay cuồng, chất tượng trưng vẫn cần thiết. Những ca từ của tuổi trẻ hiện nay đang trở thành suôn đuột, hoàn toàn đơn nghĩa, chẳng còn gì lý thú. Không sớm thì muộn, người ta sẽ thấy cần có cái gì đó sâu xa hơn, ý nhị hơn, thâm trầm hơn, khám phá mãi không hết ý nghĩa.

9. ĐƯỢC NÊN GIỐNG ĐỨC KITÔ

“Rồi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi…” (Chơi giữa nùa trăng).
Giữa những thử thách ở giai đoạn thứ ba, linh hồn tín hữu vẫn nhận được bình an và an ủi nhưng thiếu vắng những hoan lạc tâm linh. Còn giữa mùa Xuân Như Ý của ơn tòng tâm ở giai đoạn thứ năm thì có nhiều hoan lạc ngọt ngào. Vị Chúa của linh hồn là vị Chúa bị đóng đinh tức tửi nhục nhã trên thập giá và bị ruồng rẫy đến tận cùng, thế nhưng linh hồn tín hữu cứ say đắm yêu Ngài trong hân hoan. Tuy nhiên tình trạng này cũng có thể dẫn đến một sự mập mờ mới. Họ say sưa yêu Chúa vì Chúa hay vì những ngọt ngào hoan lạc? Làm sao để linh hồn có thể khẳng định mình yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không vì những hoan lạc và ủi an? Với thân phận thụ tạo, linh hồn biết mình rất yếu đuối. Dù có quyết gỡ mình khỏi những hoan lạc ngọt ngào, có quyết khước từ chúng, để tự chứng minh một tình yêu tinh ròng thanh khiết, linh hồn không sao thực hiện được. May thay, Thiên Chúa thấu suốt nỗi khắc khoải thầm kín ấy của linh hồn nên chính Ngài sẽ đích thân can thiệp. Chính Ngài sẽ tước đoạt hết mọi ngọt ngào hoan lạc trong một thời gian và để mặc cho linh hồn điêu đứng khốn khổ. Nếu linh hồn ấy là một kẻ chuyên cầu nguyện giữa tu phòng cô tịch, vùi sâu sau các bức tường nội cấm, nó sẽ bị để cho rơi vào chỗ hoài nghi chẳng biết có đời sau hay không (Têrêxa Hài Đồng Giêsu), Thiên Chúa có thương xót thư tha hay không (Têrêxa Margaret Thánh Tâm Chúa Giêsu). Nếu linh hồn là một nhà truyền giáo bôn ba rong ruổi chân trời góc biển hay một mục tử luôn nằm giữa tầm nhắm của dư luận khen chê, nó sẽ bỗng chốc bị vùi sâu giữa muôn vàn sỉ nhục bất công; truyền thông đa chiều bỗng dưng nhất loạt kết án, đòi khử trừ nó khỏi cuộc đời như xưa đám đông người Do Thái chuyển từ chỗ công kênh Chúa làm vua đến chỗ đồng thanh đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Chân phước Têrêxa thành Calcutta, vừa chiêm niệm vừa hoạt động, cảm thấy Thiên Chúa vắng mặt những năm dài. Cha Damien, tông đồ người phong, những tháng cuối đời tưởng như mất đức tin, mãi đến những ngày chót mới được bình an trở lại.

Dù giữa nội cấm lặng im hay giữa lòng đời náo động, lúc ấy linh hồn kẻ Chúa yêu vẫn rơi vào thảm cảnh của Gióp trong Cựu Ước.

Đó là đêm tâm linh, đêm tâm linh giữa chiêm niệm hay giữa cuộc đời hoạt động, là cơ hội ngàn vàng để linh hồn được minh oan trước mọi gièm pha vu khống, để linh hồn có cơ may tự tỏ rõ rằng nó yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không vì một hoan lạc ủi an nào. Đặng Tiến viết: “Mâu thuẫn tâm cảm của nhà thơ là vừa yêu bóng đêm – vũ trụ Hàn Mạc Tử là một vũ trụ về đêm – vừa yêu ánh sáng và vươn tới một nguồn chói lọi” (PCĐ-1, tr. 419). Ghi nhận của tác giả Đặng Tiến khá trùng khít với học thuyết của Thánh Gioan Thánh Giá, theo đó, đêm có ba phần: đầu hôm (cuộc thanh tẩy từ ngoài vào trong), nửa đêm (thách đố đức tin) và hừng đông (hướng về hiệp nhất trong ánh sáng). Bởi yêu hừng đông để hiệp nhất trong ánh sáng chính ngọ, linh hồn tín hữu khao khát vượt qua những thử thách lớn nhất của phần nửa đêm.

Nơi trường hợp HMT, cuộc thử thách ở giai đoạn thứ sáu đã khởi sự ngay từ giai đoạn thứ ba. Cả trong bầu khí Kinh Thánh lẫn trong tâm thức người Việt nửa đầu thế kỷ 20, cùi hủi là một điều đáng ghê tởm. Không lâu sau khi biết mình bị bạo bệnh, HMT đã hiểu mình được ơn nên giống Đấng đã tự hủy ra không (Pl 2,5-11) để cứu chuộc nhân loại, như được báo trước trong sách ngôn sứ Isaia:

“Ngài bị khinh khi, và là đồ phế bỏ của người đời, con người đớn đau và những ốm o xo bại, như một kẻ có gặp chúng tôi thì lo giấu mặt, bị khinh bỉ, và chúng tôi đã chẳng thèm đếm xỉa. Trái lại, chính các bệnh tật của chúng tôi, Ngài đã mang, chính các đau khổ của chúng tôi, Ngài đã vác. Còn chúng tôi, chúng tôi lại kể Ngài như kẻ bị trời đánh, bị Thiên Chúa trừng phạt và đày đọa. Nhưng Ngài đã bị đâm vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, và vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tán. Đã giáng xuống Ngài hình phạt đổi lấy an bình cho chúng tôi, và nhờ những vết hằn Ngài chịu, chúng tôi có phương được chữa lành. Chúng tôi hết thảy đã xiêu lạc, như chiên cừu mỗi người quay mỗi ngả, nhưng Thiên Chúa lại để Ngài phải lụy vì chúng tôi. Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng, và không mở miệng, như cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ ngậm câm, không hề mở miệng. Bị bắt giam và lên án, Ngài đã bị đem đi. Nào ai màng nghĩ đến vận mạng của Ngài? Ngài đã bị chặt phăng khỏi đất người sống, chính vì sự ngỗ nghịch của dân Ngài, Ngài đã bị sát phạt” (Is 55,3-8).

Sâu xa hơn những khổ nhục bên ngoài, còn có cả sự phụ bạc, phản bội, ruồng rẫy. Chúa Giêsu tin cậy bạn hữu mình là các Tông đồ nhưng chính họ đã lìa bỏ, phủ nhận và cả đến dùng cái hôn để bán nộp Ngài (Mt 27,48-49; Mc 14,44-45; Lc 22,47-48). Mỗi lần tưởng niệm cuộc Thương Khó Chúa Kitô, Giáo Hội lại thốt lên bài ca của Đavít khóc người con phản bội:

Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng,
hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi.
Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế,
chỗ thân tình tâm phúc với tôi,
đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi,
trong đền Thiên Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước.
Tv 54/55,13-15.

HMT đã phó thác đứa con tinh thần của mình cho ba người mà anh yêu mến tin cậy nhưng có hai người đã xử hết sức tệ với thơ anh. Một người ít học đã xé bỏ thơ anh đem gói hành gói tỏi hoặc dùng làm giấy vệ sinh (PCĐ-1, tt. 383-384). Còn người kia là bạn thân, chẳng biết vô tình hay cố ý, đã biến di sản đã được phó thác thành hư không.

Từ cõi trời cao nhìn xuống, thấy những chuyện ấy, nhà thơ của chúng ta có buồn không? Thưa không, một lần nữa đang lúc lẽ ra phải buồn thì anh lại rất vui, vui như các Tông đồ, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Vâng, Đấng yêu thương anh là Con Thiên Chúa đã si mê loài người đến độ trở nên giống hẳn con người và chịu chết vì con người, đã bị loại trừ cách tàn bạo, thì anh phải vui biết bao khi được chia sẻ cùng số phận với Ngài.

Trong trích đoạn Isaia trên đây, Đấng thụ nạn ngậm câm không mở miệng, chẳng phải vì bất cần đời, chẳng phải vì bất lực không thể làm gì, nhưng Ngài câm lặng với cuộc đời để liên lỉ đối thoại với Thiên Chúa tận cõi lòng. Người thơ của chúng ta cũng thế:

Đây phút thiêng đã khởi đầu…
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…
Cả trời say nhuộm một màu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe động chạm
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.
(Đà Lạt trăng mờ)

Từ giai đoạn thứ ba đến giai đoạn thứ sáu, thử thách nơi HMT tăng nhanh cả bên ngoài (sau khi tự cô lập nơi lều tranh, anh đã xin vào bệnh viện phong Qui Hòa), lẫn bên trong (gia đình Thương Thương yêu cầu ngưng viết kịch bản Quần Tiên Hội ). Một tác giả đương thời, nhà phê bình văn học Hoài Thanh chỉ nhìn bằng con mắt thường cũng đủ nhận ra tình cảnh ấy: “Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến với người không sao nuốt được, vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã…”
Ô không. Không sao. Không sao đâu. Mọi thử thách đều phải chào thua người tín hữu trẻ đã nồng nàn yêu Chúa. Anh vẫn không ngừng ca hát, không ngừng viết để ngợi mừng tình yêu cũng như ngợi mừng ơn hiệp nhất, và gọi đó là Cẩm Châu Duyên, là Duyên Kỳ Ngộ, là Quần Tiên Hội. Kìa muôn dân thiên hạ, sao lại xót thương, hãy vỗ tay reo mừng Thiên Chúa vì Ngài đã sắm được cho mình một anh hùng của tình yêu, một tấm linh hồn thanh khiết đang ngợi ca những tấm linh hồn thanh khiết khác.

10. DẠO ĐẦU KHÚC LINH CA

Hẳn một số Kitô hữu khó chịu khi thấy các tác phẩm Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội được đặt vào dãy cư xá thứ sáu của Lâu Đài Nội Tâm. Có lẽ họ quên rằng hai chữ tiên tri trong Kinh Thánh không có nghĩa là người biết trước tương lai nhưng chỉ là ngôn sứ của Thiên Chúa, là người diễn đạt thông điệp của Thiên Chúa bằng chính cuộc sống bản thân trước khi giải thích bằng lời. (x. Giêrêmia và chiếc đai lưng, Gr13,1-11; Êzêkiel được lệnh không than khóc khi vợ chết, Êd 24,15-24; cuộc hôn nhân của Hôsê, Hs 1,1-3,5).

Tiến vào cảm nhận tâm linh, các tầng lớp ý nghĩa có thể chồng chéo lên nhau… Một đàng nhà thơ có thể thấy mình là thụ tạo mọn hèn nhưng lại được tiến dâng lên làm bạn lòng của Ngôi Lời Thiên Chúa (x. 2Cr 11,2)… Một đàng khác, nhà thơ lại có thể dùng chuyện tình yêu đôi lứa của mình để diễn tả cuộc tình của Thiên Chúa đối với nhân loại. Câu chuyện Quần Tiên Hội có thể là phiên bản Diễm Ca riêng của nhà thơ…
Nhiều người dễ chấp nhận cái nhìn của Phan Cự Đệ, tách đôi HMT thành một nhân vật thi sĩ và một nhân vật tín đồ đi bên cạnh nhau, và tưởng rằng: “HMT nghệ sĩ bao giờ cũng phóng túng hơn, hào hoa hơn Nguyễn Trọng Trí tín đồ” (PCĐ-2, tr. 17). Những người ấy sẽ không nghĩ như thế, nếu họ biết rằng vị thánh nữ đan sĩ tôi trích dẫn đây khi làm thơ về Chúa thì nhiều bài đọc qua ta cứ ngỡ là thơ tình của những bạn trẻ đang yêu đương đắm đuối. Hoặc nếu như họ biết rằng Thánh Gioan Thánh Giá, một linh mục khất sĩ, có bốn tác phẩm giáo khoa dạy đường tâm linh và cả bốn đều chỉ minh giải những bài thơ đắm đuối yêu thương.

Tác phẩm thứ nhất và thứ hai minh giải bài thơ có đoạn như sau:
Ôi đêm ! Ngươi đã hướng dẫn ta !
Ôi đêm ! Đáng yêu hơn rạng đông !
Ôi đêm ! Ngươi đã phối hợp
Đức Tình-Quân với tình-nương
Một tình-nương đã được biến đổi nên Tình-Quân !
Trên lòng tôi đầy hoa,
Được giữ vẹn cho một mình Chàng,
Chàng lưu lại đó, say ngủ,
Và tôi vuốt ve Chàng,
Và quạt mát cho Chàng bàng quạt bá hương.
Bài thơ cho tác phẩm thứ ba mở đầu:
Người ẩn nơi nao, Hỡi người Yêu Dấu,
Mà bỏ em rên rỉ?
Như một con nai, Người trốn biệt,
Sau khi đã làm cho em bị thương,
Em chạy ra, gọi với theo Người, thì Người đã đi.
Bài thơ cho tác phẩm thứ tư mở đầu:
Ôi ngọn lửa tình nồng
Thì ra Người đã
Đốt giữa lòng em
Vết phỏng thật êm ái.
Ôi ngọn lửa tình nồng
Ngủ quên sao chớ
Xé nốt giùm em
Tấm thân này lụa đào.

Chẳng phải là Gioan Thánh Giá khi làm thơ thì phóng túng, bởi lẽ đây là những bài thơ được ông dùng để triển khai thành những giáo trình dạy đường tâm linh! Vị thánh viết nên những sự thật mà người ngoài cuộc không hiểu được.
Đơn giản hơn, những người viết về HMT tách đôi tình yêu với đức tin vì họ không biết rằng một trong những sách làm nên bộ Cựu Ước là Diễm Ca, là một chuỗi thơ tình với những câu như:

1 Hỡi bạn lòng, em đẹp biết bao,
Đôi mắt như bồ câu.
Sau lớp khăn choàng mỏng,
Làn tóc em mơn mởn
Như bầy dê bên sườn Galaát tung tăng.
2 Và hàm răng,
Hàm răng em tựa chiên mới tắm,
Không lẻ loi, toàn sinh đôi bụ bẫm.
3Môi thắm chỉ hồng, miệng mới xinh sao.
Đôi má em, hai nửa quả đào,
Dưới khăn choàng e ấp.
4 Cổ em như bảo tháp
Của Đavít tiên vương
Được xây làm kho tàng
Treo muôn thuẫn khiên của ngàn dũng sĩ.
5 Tuyết lê em như nai tơ,
Một cặp sinh đôi của linh dương mẹ
Đang gặm cỏ non bên khóm huệ.
(Diễm Ca 4.1-5)

Làm sao quan niệm được Thánh Kinh lại viết như thế nếu chưa một lần hiểu rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và là nguồn mạch của mọi tình yêu trong lịch sử.
Xin đan cử tác phẩm Quần Tiên Hội. Khi chiều theo yêu cầu của gia đình Thương Thương, ngưng viết kịch bản này, HMT viết thư chia sẻ với Trần Thanh Địch như sau:

“Ba đoạn sau mà tôi tính viết, nó như thế này: bọn tiên xúm lại vây hai người trong vòng vây mà bảo rằng “người con trai” ấy là của trời cho, là “của chung” chứ không phải riêng gì của Thương Thương. Nếu không bằng lòng, phải “chia” ra. Chia ra chín phần cả thảy, thế thì còn chi người ta nữa! (Nguyên văn của HMT). Thế rồi bọn tiên nổi ghen lên. Hai người ấy phải rủ nhau đi trốn. Bọn tiên hay được liền hè nhau đang đêm “hạ san” tìm bắt cho kỳ được cặp uyên ương ấy, nghĩa là bọn tiên chạy theo tình yêu, trở về thế gian, bỏ lại những động mây bây giờ thành ra hoang vu cô độc. Và những động ấy tủi thân than kể không biết bao nhiêu mà nói. Với lại, ở động tiên con trai hay tin bọn tiên con gái về thế gian lấy chồng, chúng hẳn cũng đâm buồn bực rồi cùng trở lại đời cả. Và vì thế người ta mới hiểu rằng tại làm sao bây giờ, ngày nay còn dấu tích tiên động mà tiên đực, tiên cái thì đi mô hết cả thảy. Ha! Ha!”. (PCĐ-1, tt 333-334)
Ha! Ha! Những tình tiết ấy cộng với kết luận hết sức diễu cợt của HMT phải chăng ngược hẳn 180o với điều tôi đang viết? Thưa không, cần hiểu rằng trong đầu óc người tín hữu Kitô, chỉ có Thiên Chúa đã ngỏ lời với loài người trong Kinh Thánh là Thiên Chúa thật, còn mọi thần thánh của các dân tộc đều chỉ là trò đùa giả trá do con người nghĩ ra hoặc do con người phong thần, bất cứ ai thờ phượng các thứ giả trá ấy đều mắc tội chống lại Thiên Chúa. Như thế, trong đầu óc của tín hữu HMT, cõi trần giá trị hơn cõi tiên, vì cõi tiên là cõi giả, cõi trần là cõi thật. Khi nhà thơ lồng chuyện tình của bản thân vào đó, nếu anh muốn dùng nó để diễn tả quan hệ tình yêu giữa anh và Thiên Chúa, câu chuyện sẽ mang thêm một tầng ý nghĩa mới mà người bạn Trần Thanh Địch của anh không sao ngờ được.

Huyền Tiên giả gái hòa mình vào đám tiên nữ. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người ở giữa chúng ta.
Bọn tiên đòi xé xác Huyền Tiên mỗi đứa giành một phần. Loài người giết chết Chúa Giêsu – Ngài trở thành tấm bánh bẻ ra đến vô tận để nuôi sống mọi người.
Quỳnh Tiên theo Huyền Tiên bỏ cõi giả về cõi thật. Linh hồn nhà thơ yêu mến Ngôi Lời Thiên Chúa và theo Ngài bỏ cõi tạm về quê thật đời đời.
Bọn tiên cũng theo chân bỏ cõi giả về cõi thật. Mọi người cũng theo chân, bỏ cõi tạm về quê thật đời đời.


Chuyện thật cứ như đùa. Tôi chợt nhớ câu nói Chúa Giêsu thường lặp đi lặp lại: “Ai có tai để nghe, hãy nghe” (Mt 11,15; 13,9; 13,43, vv…)

11. RÚT BÀI HỌC CHO CHÍNH MÌNH

Giờ đây tôi muốn chia sẻ với người Kitô hữu trẻ, cách riêng là người cầm bút và người tận hiến.
Qua kinh nghiệm HMT, ta thấy văn thơ nghệ thuật là cơ may dẫn tới biên thùy thần hiệp, thế nhưng biết bao người làm văn thơ Công giáo đã bỏ cuộc, đào thoát khỏi Vũ môn, quay lại với ao tù nước đọng. Đáng tiếc hơn nữa là có nhiều tâm hồn, một cách rất ý thức, đã từng chọn con đường lên Núi Thánh của ơn hiệp nhất mà rồi đã thỏa hiệp, vất bỏ lương thực thiên thần để quay về với những cặn bã của thế gian.
Điều cần học với HMT là cuộc vượt thoát của anh ở tuổi 25, tại giai đoạn ba trên đường vào nội tâm, để rồi từ đó được đưa vào những mức ở lại với Chúa thật sâu thẳm. Điều này hết sức quan trọng vì, lắm Kitô hữu, dù đã cao niên, thậm chí còn là linh mục tu sĩ, đã vào tới chặng thứ ba nhưng rồi cứ loay hoay mãi với cuộc thi và lắm khi bị thoái hóa rồi cuối cùng bị lọt ra ngoài.

1. Hoàn tất bước thứ hai
Bao lâu tác giả chưa vượt khỏi giai đoạn hai, thơ của họ hoặc nặng tính đạo đức luân lý hoặc chỉ là thương vay khóc mướn, còn nếu có vẻ thần bí thì cũng chỉ là thứ thần bí giả tạo và lệch lạc.
Bạn sẽ kẹt mãi ở giai đoan hai, nếu bạn:
- Không triệt để làm chủ giác quan
- Nhỏ nhen, không biết tha thứ
- Gian lận, lỗi công bằng
- Giả dối, thiếu chân thật
- Ghen ghét, kèn cựa
- Còn tìm cầu danh lợi
2. Bị kẹt ở bước thứ ba
Theo Thánh nữ Têrêxa Avila, dãy cư xá thứ ba hay mức ở lại thứ ba có nguy cơ là một ngả rẽ đau thương. Ngài trình bày vấn đề này ở chương II của “Cư xá thứ ba” trong Lâu Đài Nội Tâm. Chương này được Kieran Kavanaugh và Carol Lisi tóm tắt như sau:

1. (số 1-9). Thánh nữ tiếp tục đánh giá về những người ở dãy cư xá thứ ba. Ngài bảo rằng những người này, đã từng có cuộc sống mực thước và đã thực hành nhân đức nhiều, nhưng lại có thể đau đớn phiền muộn chỉ vì những thử thách nhỏ. Chỉ vì bị mất của cải, vì muốn có thêm của cải, hoặc vì bị tai tiếng là đủ để khiến họ bị hoảng loạn. Thánh nữ nêu rõ rằng những người này rất quân bình, không chỉ trong nếp sống mà cả trong việc hy sinh hãm mình. Họ luôn hành động theo lý trí, tình yêu của họ chưa đạt tới mức thắng vượt lý trí. Thánh nữ kết luận rằng đây là một trong những bước tiến tuyệt vời nhất nếu như người ta biết khiêm nhường. Thiếu khiêm nhường, ta chẳng bao giờ tiến được. Ở đây Chúa không ban nhiều sự vui thỏa thiêng liêng nhưng Ngài ban những ơn an ủi.

2. (số 10-12) Thánh nữ Têrêxa giải thích rằng ơn an ủi và những sự ngọt ngào thiêng liêng (hoan lạc tâm linh) là hai chuyện khác nhau và ngài sẽ bàn kỹ hơn khi trình bày về các cư xá thứ tư. Ngài cũng cẩn thận nhắc ta phải có thái độ đúng đắn trước các đặc ân. Linh hồn nào được các đặc ân thì điều rất quan trọng là phải khiêm nhường. Họ nên cảm tạ nếu nhận được các đặc ân ấy, mà nếu không nhận được cũng hãy ngợi khen Thiên Chúa đã rộng lòng ban các đặc ân cho những người khác. Thánh nữ nghĩ rằng đối với những nữ tu đã được vào tới bậc này thì điều quan trọng là chuyên chăm vâng phục. Những người không thuộc các dòng tu thì nên cố gắng tìm một ai đó làm cố vấn để không rơi vào chỗ làm theo ý riêng. Ngài bảo thường thì việc chạy theo ý riêng bao giờ cũng có hại. Ngài khuyên nên tìm hỏi ý kiến nơi những người không bị những chuyện phù phiếm thế gian chi phối. Ngài cũng cảnh báo một khi đã vào tới bậc này thì cần cẩn thận tránh những dịp có thể xúc phạm đến Thiên Chúa, bởi vì sức mạnh của họ chưa có được nền móng vững chắc. Họ vẫn còn mấp mé với những cư xá ngoài cùng.

3. (số 13) Để kết luận, thánh nữ bảo chúng ta nên nhìn thẳng vào những lầm lỗi khiếm khuyết của bản thân và đừng bận tâm tới lầm lỗi của kẻ khác. Ngài khuyên ta sống trong thinh lặng và hy vọng, vững tin rằng chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc cho những linh hồn có vẻ chưa hoàn thiện bằng chúng ta.

Có những người suốt một đời ăn ngay ở lành đến độ mẫu mực nhưng không bao giờ tự hỏi khi Thiên Chúa ưu ái tạo dựng nên họ, Ngài đã ước mong cho họ điều gì? Họ ghê tởm điều xấu, chỉ chạy theo điều tốt nhưng không biết rằng có những điều tốt mang tác dụng phá hoại. Không riêng những người chưa tin mà cả những người Công giáo đạo nòi.

22Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! ” (Mt 7,22-23)

Họ đã nói tiên tri, trừ quỷ và làm nhiều phép lạ nhưng bị Chúa nguyền rủa, bởi vì họ đã chạy trốn bổn phận để làm điều họ thích chứ không làm những điều Chúa muốn. 21“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” đều được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21)

Có những người làm thơ viết văn và những người nắm trong tay những phương tiện truyền thông đầy quyền lực nhưng đã phung phí tài năng vào những cái chủ quan vô bổ. Họ quên rằng Đấng làm chủ lịch sử cũng chính là Đấng sẽ xét xử mọi dân tộc và mọi người. Chính Ngài kiên trì thanh luyện từng hữu thể người cho tới lúc nó biết thật sự khao khát nên giống Ngài để được Ngài nhận vào cuộc sống hiệp nhất với Ngài trong tình yêu.
Có những mục tử trong Giáo Hội được Thiên Chúa chọn để chăm sóc bước tiến tâm linh các tín hữu nhưng đã phung phí hồng ân vào những chuyện khoa trương phù phiếm. Nếu chính họ còn không quan tâm tới cùng đích hiệp nhất với Thiên Chúa thì làm sao đám con chiên của họ tránh khỏi dậm chân tại chỗ ở những chặng đường tâm linh hời hợt?

Không đâu xa, chính bản thân bạn và bản thân tôi, từ xưa đến nay đã chẳng đắm chìm mãi trong chủ quan lệch lạc đó sao? Chúng ta đã chẳng say sưa với một vài chút tốt lành cỏn con để bắt hụt những kho tàng vô tận Thiên Chúa đang dọn sẵn đó sao?

Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy mọi người cũng như bạn và tôi, ai cũng đều dễ bị kẹt ở dãy cư xá thứ ba. Tự theo dõi mình, tôi thấy khi còn bị kẹt ở đó, mình nặng tự ái, dễ cau có, hay phê phán và xen vào chuyện người khác. Tôi dễ tự hào tự phụ với những thành tựu bên ngoài, với chút hoàn thiện luân lý, để rồi vọng động chạy theo cái phụ tùy, hời hợt, tôi vô tình kẹt vào những thành kiến, xét đoán, tham vọng. Tôi tự đặt mình làm trung tâm và chuẩn mực mà không ngờ. Tới lúc được ơn ra khỏi chính mình, tôi thấy mình vui tươi, rộng mở, dễ dãi với mọi người, vui vẻ lắng nghe những ý kiến khác mình và mau mắn phục vụ, không bắt người khác phải chờ. Thật ra, lúc còn trẻ như bạn, ở tuổi 20 – 35, tôi đã có được loạt tính cách thứ hai này … và tới một lúc nào đó thì bị mất đi và chỉ mới được phục hồi khoảng năm năm trở lại đây. Chi tiết tôi chia sẻ đây có thể quan trọng với bạn. Bạn đã vào tới vòng thứ ba. Bạn đã có những tính cách thật tốt lành thì xin hãy cẩn thận để không vất vả loay hoay ở đó mãi và, hệ trọng hơn nữa, để khỏi bị thoái hóa và lọt ra ngoài. Nhất là khi bạn đã có một chút chỗ đứng trong cuộc sống.

(A) Haønh trình Laâu Ñaøi Noäi Taâm
(B) Haønh Trình Khoång Töû
(C) Ngaû reõ chuû quan
3. Bị lừa vì những điều tốt giả
Để có được thinh lặng nội tâm và tiến sâu vào đường hiệp nhất với Thiên Chúa, không những phải vượt khỏi những xu hướng xấu mà còn phải vượt thắng những điều tốt chủ quan.
Hơn ba mươi năm đời linh mục, do nghiệm xét bản thân và qua hướng dẫn người khác, tôi thấy nhận định của Thánh Gioan Thánh Giá hết sức đúng. Theo ngài, có những những người thiếu thiện chí, thích ở lại trong tội lỗi và những người thiện chí, luôn gắng sức tiến bước trên đường lành. Quỷ dữ cám dỗ cả hai nhóm. Đối với những người thiếu thiện chí, quỷ dữ chỉ cần đề nghị họ làm điều xấu. Đối với những người thiện chí, ma quỷ biết sẽ thất bại ngay nếu đề nghị họ làm điều xấu, cho nên nó đổi chiến thuật, đề nghị toàn điều tốt, những điều tốt hết sức hào hứng, có vẻ tốt hơn những điều tốt Thiên Chúa dạy rất nhiều. Thế là những người thiện chí thiếu kinh nghiệm tâm linh rất dễ bị lừa… Quỷ dữ rót vào tai họ những lời đường mật, dạy họ ngụy biện để tự châm chước tránh né những lời mời gọi triệt để của Chúa Kitô (x. Mt cc. 5-7). Cứ nhìn xung quanh, bạn sẽ thấy không thiếu những trường hợp người ta tự châm chước để “hòa đồng” với mọi người, để “chỉ nói một nửa sự thật”, người ta không còn dám gióng lên tiếng nói ngôn sứ… Tuy nhiên, thưa bạn trẻ, bạn đừng vội chê trách các thế hệ đàn anh. Cả bạn nữa, quỷ dữ cũng chẳng tha đâu, chỉ cần thiếu khiêm nhường và tỉnh thức là lập tức bạn ôm phải đủ thứ điều tốt giả…

Cám dỗ làm điều tốt dẫn dụ ta chạy theo điều phụ quên mất điều chính, mải hái hoa bắt bướm dọc đường, quên mất chuyện phải kiếm tìm Người Yêu Dấu.

Cám dỗ làm điều tốt cũng có thể ở một dạng ngược lại và cũng nguy hiểm không kém, được Thánh Gioan Thánh Giá nói tới ở Ngọn Lửa Tình Nồng với hình ảnh người khư khư giữ chặt mẩu bánh (ví dụ: cố khẳng định những thành công ảo), không chịu buông, cho nên không rảnh tay để đón nhận những món quà đáng giá gấp bội.

Chính vì từ trong nội tâm đã bị dính mắc vào những điều tốt lệch lạc như thế, ta bị kẹt mãi ở giai đoạn thứ ba. Trong Đường Lên Núi Cát Minh quyển 2 và 3, Thánh Gioan Thánh Giá nói rõ: để thanh tẩy nội tâm khỏi những điều ấy, cần phát huy đức tin, đức cậy và đức mến. Trong Ngọn Lửa Tình Nồng, ngài nhấn mạnh đức khiêm nhường và từ bỏ. Thánh nữ Têrêxa Avila cũng nhấn mạnh yêu thương, khiêm nhường và từ bỏ. Thánh nữ còn bảo cứ chí thú vào khiêm nhường, từ bỏ và yêu thương, rồi ta sẽ thực hiện được những góc thiên đường trên trần gian. Nếu bạn chưa hiểu thế nào là phát huy ba nhân đức hướng thần tin, cậy, mến – thì hãy cứ bắt đầu bằng ba nhân đức căn bản: khiêm nhường, từ bỏ và yêu thương – rồi ba nhân đức này sẽ dẫn bạn vào sâu trong tin, cậy, mến.

4. Khẳng định lại mục tiêu và lộ trình
Mục tiêu của Kitô giáo không phải là sự hoàn thiện luân lý nhưng là ơn hiệp nhất với Thiên Chúa. Dù sống đời hoạt động hay chiêm niệm, chúng ta đều có chung một cùng đích là hiệp nhất với Thiên Chúa. Người Công giáo nói chung, cũng như nhiều linh mục và tu sĩ nói riêng, bị cuốn trôi theo dòng đời chính vì khi học giáo lý cũng như trong việc đào tạo ở dòng tu và chủng viện, họ không được nhấn mạnh đủ tới mục tiêu duy nhất và cuối cùng ấy.
Sau khi khẳng định lại mục tiêu, còn phải khẳng định lại lộ trình. Khoa sư phạm Công giáo chưa thành công cũng còn vì người ta chưa dạy cho ứng sinh biết lộ trình cần đi để tiến đến sự hiệp nhất với Thiên Chúa. Người ta cũng chưa chỉ dẫn những cách thế thực tập cần thiết để tiến bước trên lộ trình hiệp nhất. Họ có thể chồng chất đủ thứ thực hành đạo đức nhưng thiếu hẳn thực tập. Có thể họ đã đọc rất nhiều kinh nhưng chẳng có tiến bộ nào về cầu nguyện.
Trong sưu tập PCĐ-1, bài “Xuân Như Ý” in ở trang 212, thuộc về phần thơ đăng báo, không thấy ghi xuất xứ và thời điểm sáng tác. Nó không thuộc về tập “Xuân Như Ý”, in ở các trang 288-306. Sự kiện này có thể là dấu hiệu cho thấy HMT đã đọc về học thuyết tâm linh và có ý niệm về dãy cư xá thứ năm của Lâu Đài Nội Tâm trước khi được ơn đạt tới dãy cư xá này ở thời kỳ sáng tác tập Xuân Như Ý. Nói cách khác, anh đã biết đến Xuân Như Ý trước và khao khát nó nên mới nhận được nó.

Phần bạn, nếu bạn muốn biết cái tuyệt vời của Xuân Như Ý, bạn nên đọc Khúc Linh Ca và Ngọn Lửa Tình Nồng của Thánh Gioan Thánh Giá trước đã rồi mới thấy háo hức với những cuộc thanh tẩy chủ động được ngài bàn tới ở Đường Lên Núi Cát Minh và Đêm Dày.

5. Quảng đại đón nhận ơn thử thách
Cái đáng thương của con người, cá nhân cũng như tập thể, là ở chỗ đề cao mình, tập trung tất cả vào mình, luôn coi mình là trung tâm và luôn đòi quyền ưu tiên. Ta đã vào tới dãy cư xá thứ ba và đòi lấn trước mọi người để vào những dãy cư xá bên trong, gần với Đức Vua, nhưng vì không dám ra khỏi mình, ta bị mắc kẹt ở dãy cư xá thứ ba. Để cứu ta ra khỏi chủ quan lệch lạc và giúp ta ra khỏi mình, Thiên Chúa gởi đến cho ta những điều bất ngờ và trái ý. Thế nhưng, mãi bám lấy lý trí thay vì dấn thân theo đức tin, ta không chấp nhận thử thách. Người ngoài cuộc thấy rõ cái dở của ta, tìm cách ủi an và gợi ý, nhưng ta đã từng là nhà mô phạm, ta tự cho mình đã nắm chân lý, chẳng còn nghe ai. Thế là ta rơi vào trầm uất. Tệ hơn nữa, ta có thể bị lọt ra ngoài. Do tự cho mình đã “hoàn thiện”, đã vượt trên chuyện thị phi, ta có nguy cơ tự tha thứ, tự định lấy tốt xấu, và vì thế ta bị đánh gục lúc nào không hay.
Bạn còn trẻ, xin hãy xem đó mà rút ra bài học. Trên quan điểm hữu thể học, mọi con sâu đều đẹp, tuy nhiên đó chỉ là cái đẹp của con sâu. Cái mệnh của con sâu là phải chết đi để thành con bướm thanh cao và xinh đẹp hơn bội phần. Con sâu đẹp nhất trong thế giới loài sâu, dù có đẹp tới đâu cũng không cao quý bằng cánh bướm nhỏ nhất và giản dị nhất đang tự do tung tăng trong không trung và nắng gió. Tương tự, những nỗ lực nhân loại và những cái chủ quan của ta dù hay đẹp tới đâu vẫn chỉ như loài sâu, cần phải để cho Thiên Chúa lột xác thành loài bướm mới thật tuyệt vời.

Điều vô cùng khó cho ta là nhận ra được sự chủ quan của mình. Tự sức riêng, ta có ra khỏi mình tới đâu thì vẫn còn kẹt nơi mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lôi ta ra khỏi ta. Hãy giao con sâu nô lệ của ta vào tay Ngài và Ngài sẽ đổi cho ta con bướm tự do. Muốn vậy, hãy tập trung tất cả vào Thiên Chúa, hướng về Ngài với trọn niềm tin, cậy và yêu mến.

Những cái nhìn thường tình thì cho rằng phải hoàn tất cuộc hoán cải luân lý rồi mới bắt đầu các bước tiến hướng thần tin, cậy, mến. Thế nhưng các thánh Dòng Cát Minh có một kinh nghiệm vượt hẳn: Chỉ khi nào vươn xa trên đường tin, cậy, mến, ta mới được ơn hoàn tất cuộc hoán cải luân lý.

6. Quảng đại tự nguyện

Trước cơn suy đồi đạo lý của thời mạt pháp hiện nay, vẫn có những đạo hữu Phật tử sống lý tưởng Phật giáo giữa trần thế cách rất xác tín và vững vàng. Nhờ đâu họ không bị cuốn trôi? Chính là nhờ họ đã khởi đi bằng những thực hành hoàn toàn tự nguyện và lấy sự thực tập làm phương châm để tiến bước.

Rất đông người Công giáo không giữ nổi việc kiêng thịt ngày Thứ Sáu và ăn chay hai lần một năm! Họ vất vả với những chuyện cỏn con ấy vì coi đó là luật buộc! Nếu lấy tự nguyện làm phương châm thì có lẽ mọi sự đã khác. Rất đông Phật tử tự nguyện ăn chay lạt mỗi tháng một lần, rồi từ cái tối thiểu ấy họ tiến dần lên. Họ không coi đó là luật buộc nhưng coi là những giá phải trả để chiếm được điều họ cho là kho tàng và bảo ngọc.
Bạn đã biết đâu mới thực sự là kho tàng và bảo ngọc. Hãy chọn lựa như HMT. Trước mọi thách đố lớn nhỏ trong cuộc sống, hãy biết phản ứng như HMT năm 1937, ra khỏi mình vì yêu mến Thiên Chúa và đồng loại.

7. Coi chừng bị thoái hóa

Như đã nói, giai đoạn ba đã là một thành tựu, là phòng đợi vào thi chung khảo, chỉ cần kiên trì đến cùng là thi đậu (x. Mt 10,22; 24,13), vì đây là cuộc thi mà vị chánh chủ khảo vừa ra đề thi vừa tự giải đề thi giúp thí sinh, hoặc qua đêm tâm linh ở đời này hoặc qua ngưỡng cửa đêm sâu của sự chết. Sự kiên trì cần thiết ở đây là kiên trì lột bỏ con người cũ để sẵn sàng đón nhận con người mới. Kiên trì như người đầy tớ thức đợi chủ về, như phù dâu đợi cung nghinh chàng rể, đôi khi có thể chợp mắt vì mệt mỏi nhưng lòng phải tỉnh thức (x. Dc 5,2). Mối nguy ở đây là sự chểnh mảng, chủ quan, tự hào (x. Mt 24,48-51) khiến cho con người cũ dần dần lấy lại sức, lẻn ra bên ngoài, tự chích ngừa chống lại chất men của con người mới và tái bố trí để không bị khuất phục nữa (x. Mt 12,43-45).

Này người đang ngày chờ đêm đợi ở Vũ môn, có bao giờ bạn thử so sánh cấp bậc hiện hữu giữa một cái hoa nhựa và một bông hoa thật? Một bông hoa sống, dù là bông hoa hèn kém nhất giữa các loài hoa, há chẳng vượt xa vời vợi so với chùm hoa nhân tạo không có sự sống? Xin đừng để mình bị đánh lừa vì vẻ hào nhoáng của chùm hoa nhân tạo.

Bạn đã vất vả tới được Vũ môn đợi ngày khảo thí, bạn cần biết rõ những triệu chứng dẫn đến nguy cơ đào thoát, để tỉnh thức đề phòng.
- Nếu bạn thiếu lòng biết ơn
- Nếu bạn sợ sự thật
- Nếu bạn ích kỷ, vơ vét, không coi trọng ích chung,
- Nếu bạn xem nhẹ công bằng, không tôn trọng quyền lợi người khác,
- Nếu thay vì ưu tiên cho người đến trước, người đủ điều kiện, người nghèo, người yếu ớt và người có tài đức, bạn lại dành ưu tiên cho người có nhiều tiền,
- Nếu bạn nhẫn tâm, thiếu lòng thương xót,
- Nếu bạn thường xuyên chạy theo điều mình thích, không chịu làm ngay những việc phải làm,
- Nếu bạn vv …,
Này người đang đuối sức với cuộc thức canh, nếu bạn thấy xuất hiện những triệu chứng đại loại như trên đây, hãy gọi điện ngay tức khắc cho phòng cấp cứu, hãy giành lại thinh lặng, trao đổi với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ đến ngay lập tức, sẽ soi sáng, ủi an và nâng đỡ bạn.

Dù bạn đã lỡ thiêu rụi danh dự và uy tín vì một điều ngu xuẩn nào đó, hãy thẳng thắn thú nhận sự thật trước Chúa, phó thác tất cả cho Ngài, Ngài sẽ tạo cho bạn một cơ hội mới vào lúc Ngài muốn. Trong lúc chờ đợi, bạn hãy kiên quyết làm tròn mọi bổn phận hiện tại với lòng yêu mến. Đồng thời, bạn hãy vươn theo những chỉ dẫn dưới đây để hoàn tất giai đoạn thứ ba.

8. Để hoàn tất giai đoạn ba

Để trung thành suốt đời, cần trung thành trong mọi điều nhỏ. Biết ơn và quảng đại nơi những điều nhỏ trong hiện tại, chu toàn những bổn phận nhỏ với lòng yêu mến lớn:
- Dành ưu tiên cho Thiên Chúa: Thức dậy hãy để lòng thanh tịnh, trong đối thoại hiệp nhất với Thiên Chúa; đừng ngồi ngay vào máy vi tính, cần ghi chú điều gì, hãy dùng giấy bút. Khóa ĐTDĐ khi cầu nguyện và suốt thời gian tĩnh tâm. Nếu thấy mình có vấn đề, hãy quảng đại sống tinh thần Tin Mừng trong từng giây phút hiện tại, liên tục một tuần liền, mọi sự sẽ bắt đầu thay đổi…
- Nuôi mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể: Đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, dự lễ và rước lễ mỗi khi có thể được.

- Tỉnh táo làm chủ các giác quan và trí tưởng tượng, không tự tha thứ hay chước miễn trong điều nhỏ: từ mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, mũi ngửi, tay sờ, thịt da đụng chạm. Bạn sẽ có một lương tâm ngay thẳng với một tấm lòng trong sạch, và bạn sẽ “được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Cần triệt để. Hễ còn tự châm chước điều gì thì chưa thể hoàn tất giai đoạn ba. Bạn sẽ hỏi: như thế thì mấy người đạt được? Vâng, các ngôn sứ thời Cựu Ước đã báo trước rằng Dân Chúa sẽ xiêu lạc đức tin, chỉ còn lại một “số sót” ít oi. Ý tưởng “số sót” không hề bi quan nhưng rất hùng tráng, để mời gọi mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói: “Nhưng khi Con Người đến, liệu Ngài còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng” (Lc 18,8b), và: “Vì tôi ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24,12-13).

- Giành lại sự thinh lặng bên trong và cả bên ngoài: sống giản dị, nghèo khó, tránh mọi kích thích. Hãy xét lại những đam mê vô ích, những cái không cần thiết: rượu, thuốc lá, video, TV, chat, text, game, thời trang… Không mở TV trong giờ cơm, chỉ xem những chương trình hết sức cần thiết. Bạn hãy nhặt ra tất cả những câu thơ HMT liên hệ đến sự thinh lặng, rồi đang khi suy tư tìm cách sắp xếp chúng theo một thứ tự nào đó, bạn sẽ khám phá ra sự thinh lặng quyền năng đến mức nào và bạn sẽ yêu mến nó hết lòng. Thinh lặng cả trong việc sắp xếp đồ vật. Dọn bàn giấy và phòng ở, dẹp bỏ hết những gì không cần thiết, sắp xếp phần còn lại thật gọn gàng, gỡ bỏ những việc phụ, những bận rộn âu lo vô ích. Đang khi làm như thế, hãy nghĩ đến linh hồn mình và bạn sẽ dần dần khám phá ra phải làm gì…

- Vâng lời, khiêm nhường lắng nghe và tôn trọng quan điểm người khác. Khiêm nhường là gì? Theo Thánh nữ Têrêxa Avila, khiêm nhường là bước đi trong sự thật, là phản ứng như HMT năm 1937: bình tĩnh đối mặt với sự cùi hủi tinh thần của mình và bước đi trong lòng thương xót của Thiên Chúa. Kinh nghiệm cho thấy lắm người giàu tài năng nhưng đã tự phá hỏng vì ích kỷ và cao ngạo. Phải chi họ đừng tự coi mình là chuẩn mực, thì đã vượt lên chính mình và tiến rất xa. Nếu bạn được ơn làm thơ, viết văn, hãy tiếp nối kinh nghiệm HMT, hãy làm tông đồ về văn học nghệ thuật bằng cách xóa mình đi và đề cao người khác.

Cần kiểm tra xem mình thường thiếu quảng đại ở lúc chuẩn bị, lúc thực hiện hay lúc kết thúc. Sự quảng đại thật phải là quảng đại trong hiện tại. Hãy làm ngay tất cả những gì cần làm ngay. Khi thoáng thấy Chúa mời gọi hy sinh một điều gì rất nhỏ, hãy lắng lòng xuống để dâng lên Ngài hy sinh ấy với tất cả lòng mến, đừng quay nhìn đi nơi khác. Chị Thánh Têrêxa kể lại: “Từ ngày lên ba tuổi, con không từ chối Chúa điều gì.” Làm như thế là bạn đang vươn tới mức ở lại thứ 4: quảng đại và biết ơn vui nhận hiện tại, và mức ở lại thứ 5: hiệp nhất một lòng một ý với Chúa. Vượt được những cuộc thi nho nhỏ, lắm khi ta tạo nên dây chuyền một chuỗi phản ứng của men và của hạt cải Nước Trời. Tuy nhiên, nó thường rất bất ngờ và thầm lặng, có giải sai đề chỉ mình Chúa và ta biết. Nếu vì thiếu tỉnh táo mà giải sai đề, hãy khiêm nhường thú nhận với Chúa trong bình an, rồi chính Chúa sẽ điều chỉnh.

Tiếp đến, hãy vươn tới mức ở lại thứ 6, bằng cách khao khát chia sẻ mọi sự với Đức Kitô. Tập vui mừng tạ ơn khi bị hiểu lầm, bị sỉ nhục và bị quên lãng. Hãy hết sức quảng đại nơi mọi cuộc thi rất nhỏ giữa đời thường. Giữa tất cả những chuyện trái ý và đau thương bạn đang đón nhận để chứng tỏ một tình yêu lớn lao cho Chúa Cứu Thế, bất chợt một hôm, dù chính bạn hay các thiên thần cũng không sao ngờ tới, một giọt hy sinh rất nhỏ nào đó sẽ là giọt nước tràn ly để Chúa biến chum nước lã thành rượu cứu rỗi cực ngon và đem chiêu đãi cả nhân gian và lịch sử.

LỜI KẾT

Thưa bạn, cuộc sống thật cao quý và vô cùng nghiêm túc. Bạn sẽ chỉ sống ở đời này một lần, không hề có cơ hội sống nháp hết kiếp này sang kiếp khác. Hãy quảng đại và dễ uốn nắn trong tay Thiên Chúa như thỏi đất sét trong tay người thợ gốm. Hãy để Thiên Chúa hoàn thành nơi bạn tuyệt tác Ngài hằng ước mơ.
Đừng thoái thác rằng bạn còn trẻ. HMT đã đạt tới ơn tòng tâm ở tuổi 25. Chị thánh Têrêxa hoàn tất hành trình ở tuổi 24. Vâng, “đừng để ai xem thường tuổi trẻ của bạn”, nhất là khi bạn đang dấn thân trên đường tận hiến. “Trái lại, bạn hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (1Tm 4,12). Hãy dấn thân hưởng ứng cuộc thanh tẩy bởi trời ngay hôm nay, khi năng lực tự nhiên của bạn còn sung dật và mới mẻ. Anh hoa đã phát tiết nơi HMT và chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chính là vì họ đã quảng đại hưởng ứng ơn trời ngay giữa tuổi thanh xuân. Đợi đến một tuổi muộn màng mới đầu phục Chúa, có toát ra thơ thì cũng nặng phần nghiêm trang đạo mạo, khó có được nét xanh tươi bao la và rực rỡ.
Sau cùng, cần phải dám thực hành điều mình biết. Đó cũng là một điều được Thánh nữ Têrêxa nhấn mạnh trong phần nói về dãy cư xá thứ ba, như lời Chúa Giêsu nói: “Bạn hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.” (Lc 10,37)
Qui Nhơn, 14-09-2010
Lm Trăng Thập Tự


TRÍCH TUYỂN
THƠ HÀN MẶC TỬ



THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.
Và Tổng lãnh Thiên thần quỳ lạy Mẹ 05
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Hương xông lên lời ca ngợi sum hoà
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh.
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh!
Run như run thần tử thấy long nhan. 10
Run như run hơi thở chạm tơ vàng…
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
Lạy Bà là Đấng tinh truyền thanh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi.
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy 15
Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.
Tôi cảm động rưng rưng hai dòng lệ
Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ.
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị… 20
Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí,
Và trong tay nắm một nạm hào quang…
Tôi no rồi, ơn võ lộ hoà chan.
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ,
Ngọc Như Ý vô tri còn biết cả, 25
Huống chi tôi là Thánh Thể kết tinh,
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới…
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong khen. 30
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời 35
Để ca tụng – bằng hoa hương sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh?
Đây rồi! Đây rồi! Chuỗi ngọc vàng kinh,
Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý, 40
Trượng phu lời và tông đồ triết lý.
Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh,
Là nguồn đau chầu lụy Nữ Đồng Trinh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập 45
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyện ước…
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm, 50
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu!
Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu,
Cho đê mê âm nhạc và thanh hương.
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng. 55
Lòng vua chúa cũng như lòng thê thứ
Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ Sầu Bi.
Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu, 60
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang?

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây, 05
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra… 10
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC

Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng! Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò…
Bao giờ đậu trạng vinh qui đã
Anh lại đây tôi thối chữ thơ. 05
Không, không, không! Tôi chẳng bán hòn Trăng.
Tôi giả đò chơi, anh tưởng rằng
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng! 10
Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi
Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
15
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ

Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, 05
Để nghe dưới đáy nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu run trong gió,
Và để xem trời giải nghĩa yêu.
Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm. 10
Hư thực làm sao phân biệt được!
Sông Ngân hà nổi giữa màn đêm.
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm, 15
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng…

ĐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN
(Tặng cả thiên hạ)
Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch,
Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay…
Đây là hương quý trọng thấm trong mây
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm,
Câu tán tạ, khong khen long cả phiếm: 05
Bút xuân thu mùa nhạc đến vừa khi
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi:
Cây bằng gấm, và lòng sông toàn ngọc!
Và đầu hôm một vì sao liền mọc
Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô! 10
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
Ta chấp hai tay quỳ hoan hảo
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân 15
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.
Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ
Của phường trai mê mẩn khí thanh cao;
Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao
Mà ánh sáng không còn khiêm nhượng nữa. 20
Đương cầu xin ọc thơ ra đường sữa
Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau…
Trên chín tầng, diêu động cả trân châu
Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết.
Nhịp song đôi: này đây, cung cầm nguyệt 25
Ướp lời thơ thành phước lộc đường tu.
Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối,
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng 30
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng.

ĐIỀM LẠ

Đức tin thơm hơn ngọc
Thơ bay rồi thơ bay…
Mau gò giai âm lại
Sót bớt nghĩa đương say.
Có tin thôn xa đến 05
Có điềm lạ đêm nay:
Đóng cửa mười phương lại
Dồn ánh sáng vào đây.
Ngoài không gian rất mát
Chim thanh tước ra đời 10
Nêu cao hơn tiếng nhạc
Mùa hát sẽ xanh tươi.
Năm nay tôi thương tuổi,
Sai hẹn với người xa
Năm nay xuân nhắc mãi 15
Nước mắt liền ứa ra.

NHỮNG GIỌT LỆ

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi ?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại, 05
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa…
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ? 10
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?

NGUỒN THƠM

Trí đương no và khí xuân đương khỏe,
Nhạc đương say và rượu vẫn còn thơm.
Nên muôn cánh thủy tiên chưa dám hé
Trong phút giây trân trọng của linh hồn.
Tiếng pháo đi: bao nhiêu kinh cầu nguyện 05
Đều dâng lên cho đến chín từng mây
Hơi xuân ấm mĩ vì hơn dạ yến,
Ta đem ươm trong ý vị đêm nay.
Ta cho ra một dòng thơ rất mát,
Mới tinh khôi và thanh sạch bằng hương. 10
Trời như hớp phải hơi men ngan ngát,
Đắm muôn ngôi tinh lạc xuống mười phương.
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng Tiên Tri muôn thuở 15
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Tứ thời xuân! Tứ thời xuân non nước!
Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,
Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước.
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian. 20
Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt:
Đường thơ bay sáng láng như sao sa…
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.
Ta cao ngâm giọng vô cùng thanh thoát 25
Khiến châu thân rung động thể tơ trăng.
Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc,
Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng…
“- Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá,
Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô, 30
Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ”.

RA ĐỜI

Một chiều xanh, một chiều xanh huyền hoặc,
Sáng bao la vây lút cõi thiên không.
Xuất thế gian chưa có tại trong lòng,
Muôn ý tứ say chìm nơi bất giác.
Hương cám dỗ mê người trong khoái lạc. 5
A! A! A!
Thiên địa đắm hoang mang…
Là đương khi thờ lạy cả thiên đàng
Bay những tiếng tung hô thánh đức,
Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực,
Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly. 10
Ôi cao sang khôn ví, trọng ai bì…
Trên nước cả có vô vàn châu báu,
Trí rất ngớp, bởi chưng xuân hồn hậu
Đã ra đời theo lệnh của Ngôi Hai…
Ôi! Thánh tai, thánh tai và thánh tai 15
Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm tho man mác,
Rất phương phi, trên hết cả anh hoa.
Xuân ra đời,
Điềm ngọc ấm như ngà,
Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, 20
Và tâm tư có một điều rất thích,
Không nói ra vì sợ bớt say sưa!
- “Chàng ơi! Chàng ơi, sự lạ đêm qua!
Mùa xuân tới mà không ai biết cả…” 24

SAY THƠ

Bốn mùa thơ xanh xanh như cẩm thạch,
Chim ngàn trăng đem tiếng lạ về ca.
Ca, cầm ca, tơ đồng vọng dang ra
Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.
Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy. 5
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay.
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.
Chưa no sao? Nhân từ êm vô hạn
Do bàn tay Thiên Chúa chảy tuôn ra. 10
Ca, cầm ca, tơ đồng vọng dang ra.
Đức ân ái dồn lên muôn trượng cả.
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,
Cả lòng thơ say tới khí linh thiêng.
Nhạc nồng say mà tình tự còn nguyên. 15
Cơn sốt sắng xinh hơn cầu vàng diệp,
Ngửa tay thôi, ơn trời đà xuống hiệp.
Trăng và trăng cho thấm hết mọi nơi.
Người thế gian, ôi miệng lưỡi đâu rồi?
Và tán tạ và khong khen nức nở. 20
Trăng tờ mờ một trời mơ sớm nở
Bao hoa hồng mầu nhiệm Nữ Vương xưa.
Ôi! đây là đền cao ngự nhà vua
Dòng Đa vít thuở xưa trời sáng cả.
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã, 25
Quê hương thơ đằm thắm biết dường nào.
Đây là vườn nên hoa lá xôn xao.
Gió đổi mới thêm hương cho ánh sáng.
Mùa rộng rãi, trái trăng chao vô hạn,
Ngon thơm hơn thái tảo bữa hôm nay. 30
Điệu đàn xưa không sánh kịp bường dây
Bởi huyền diệu in như màu nguyệt bạch,
Bởi ước ao tuôn tràn vô pho sách,
Bởi Thánh Kinh no chán nghĩa sâu xa
Ca, cầm ca, tơ đồng vọng dang ra. 35
Lần hít trí khôn ngoan người thế.
Người đã khấn say sưa vô cùng để
Hiệp hòa thơ cho yêu mến bâng khuâng,
Bao nhiêu lòng ai trút sạch lâng lâng.
Đây tất cả, hỡi ôi! Mình Thánh Chúa, 40
Của tế lễ là nguồn ơn chan chứa,
Đáng trọng thiên và rất đáng mong ơn.
Ly Tao rằng đàn ngọc cũng theo đờn
Bởi đạo hạnh rung muôn dây tình cảm.
Không mê chi kỳ trân người vàng chạm, 45
Trời cỏ bồng bay thú vị tiêu dao,
Rượu nồng thơm say hoa nguyệt hồng đào.
Đây chỉ mới xe vấn vương lòng dạ.
Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,
Không gì tiên cho sánh kịp bường thơ. 50
Tính chất thanh mà phẩm vật không ngờ,
Rất yêu chuộng màu nhơn đức sạch sẽ.
Hồn vốn ưa phiêu diêu trong gió nhẹ,
Bay giang hồ không sót một phương nào.
Càng lên cao dây đồng vọng càng cao, 55
Quyến rũ biết bao kinh cầu nguyện
Và kết tinh thành hào quang kim tuyến
Theo tràn về cho đến cõi vô biên.
Hân hoan thôi! Thơ dường gặp hương nguyền
Làm sum hiệp với muôn vì cả Thánh. 60
Tôi là kẻ đi đường đêm gió lạnh,
Không mong gì hơn kêu gọi tấm lòng thơ.
Bởi chưng đây là xuân trước đợi chờ,
Hơi ấm áp như một nguồn an ủi.
Trời mở rộng và không ai hờn tủi, 65
Lượng bao dong tha thiết cánh tay êm.
Chao! Tràn trề là phúc hạnh ban đêm,
Và đây chính là cao lương mỹ vị
Của nguồn đạo mà ngày xưa Thánh khí
Thơ với lòng ai phối hiệp nên duyên. 70
Mà ai đâu cầm được nỗi niềm riêng.

CÔ LIÊU

Gió lùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai
Buồm trắng phất phơ như cuống lá
Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.
Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ, 05
Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ,
Tiếng rú hồn tôi xô vỡ sóng,
Rung tầng không khí bạt vi lô.
Ai đi lẳng lặng trên làn nước,
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi ? 10
Mà sao ngậm kín thơ đầy miệng
Không nói không rằng nín cả hơi ?
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng,
Một vũng cô liêu cũ vạn đời!
Chao ôi ghê quá! Chao ghê quá! 15
Cảm thấy hồn tôi ớn lạnh rồi!

CUỐI THU

Lụa trời ai dệt với ai căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
Mây vẽ hằng hà sa số lệ, 5
Là nguồn ly biệt giữa cô đơn.
Sao không tô điểm nên sương khói,
Trong cõi lòng tôi buổi chập chờn.
Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ,
Với buồn phơn phớt, vắng trơ vơ. 10
Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
Điềm báo thu vàng gầy xác xơ.
Thu héo nấc thành những tiếng khô.
Một vì sao lạ mọc phương mô ?
Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ ? 15
Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ ?

BIỂN HỒN TA

Máu tim ta tuôn ra làm bể cả
Mà sóng lòng rần rật như mây trôi
Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ
Dâng cao lên, cao tột tới trên trời.
Ôi ta đã mửa ra từng búng huyết 05
Khi say sưa với lượn sóng triền miên
Khi nhận lấy trong thâm tâm cay nghiệt
Giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng.
Ta muốn níu hồn ai đương hiển hiện
Trong lòng và đang tắm máu sông ta 10
Ta muốn vớt ai ngoài sóng điện
Để nhìn xem sắc mặt với làn da.
Ôi ngông cuồng! Ôi rồ dại rồ dại!
Ta đi thuyền trên mặt nước lòng ta
Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại 15
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta.

XUÂN ĐẦU TIÊN

Mai sáng mai, trời cao rộng quá
Gió căng hơi và nhạc lên mây
Đôi lòng cũng ấm như xuân ấm
Chỉ có áo xuân trắng trẻo thay!
Mai này thiên địa mới tinh khôi 05
Gió căng hơi và nhạc lên trời
Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết
Hoa lá hồ nghi sự lạ đời
Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm
Còn mặt trời kia tợ khối vàng 10
Có người trai mới in như nguyệt
Gió căng hơi và nhạc lên ngàn
Thuở ấy càn khôn mới dựng nên
Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy 15
Nào đã ra đời ngọc biết tên
Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời
Mùi thơm ngây dại sóng con ngươi
Hãy hoan hô, lời cao như sấm
- Vạn tuế, bay ơi! Nắng rợp trời! 20

TRÍCH TUYỂN VĂN HÀN MẠC TỬ

LỜI TỰA ĐAU THƯƠNG

Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói đến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng; xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến - làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai… Gió phương mô đẩy đưa Người đến bờ xa lạ, đầy trinh tiết và đầy thanh sắc. Người dừng lại để hái những lá tinh hoa. Người nín lặng để mà nghe tiếng trăng reo vang vang như tiếng châu báu vỡ lở. À ra Người cũng dại dột, hốt vàng rơi bọc trong vạt áo. Trí Người đã dâng cao và thơ Người dâng cao hơn nữa. Thì ra Người đang say sưa đi trong Mơ Ước, trong Huyền Diệu, trong Sáng Láng và vượt hẳn ngoài Hư Linh….
Tôi làm thơ ?
- Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng…
Anh sẽ thấy hơi đàn lả lướt theo hơi thở của hồn tôi, và chiều theo những sóng điện nóng ran trút xuống bởi năm đầu ngón tay uyển chuyển.
Anh sẽ run theo khúc ngân nga của tơ đồng, sẽ để mặc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng.
Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chớp mắt khi một tia sáng xôn xao tại có vì sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rền vang dưới ngòi bút.
Tôi làm thơ ?
- Nghĩa là tôi yếu đuối quá. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú… Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi ?
+
Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.
+
- Thôi, mời cô cứ vào….
Ánh sáng lạ trong thơ tôi sẽ làm cho gò má cô đỏ gấc. Và một khi cô đã vào là cô sẽ lạc, vì vườn thơ rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh…….
(1938)

LỜI TỰA “XUÂN NHƯ Ý”

Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào đây… Lời thơ ta sẽ sáng trưng như thất bảo. Tình cảm ta sẽ nóng ran như mặt trời. Ý ta sẽ cao cường như ngọn núi. Lạy Chúa Trời tôi! Hãy ban cho tôi hằng hà sa số là ơn lành, ơn cả… Thơ tôi sẽ rất no, rất ớn, rất nư, trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói chang vô vàn phước lộc…
Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép tắc mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung?
Đưa ra nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…
Đưa ra nào là gió chia biệt, trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng nhũ hương, niềm mộc dược.
Vẫn chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao…!
Phải mời cho được Xuân thiêng ra đời…
Bình an cả và thiên hạ…
Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mỹ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho, tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc Như Ý, tên xuân là Dạ Lan Hương.
Và xuân là phong thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời, châu lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc dải cát Hà sa, chen lấn vô tận hồn tạo vật…
Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng. Và loài người hãy cám ơn Thi nhân đã đổ ra biết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng…
Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió,
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao…
Thi nhân sẽ vừa say sưa, vừa điên cuồng, ọc ra từng búng thơ sáng láng, phương phi như một mùa XUÂN NHƯ Ý.
Sau Thiên Chúa giáng sinh năm 1939
Viết tại Quy Nhơn trong một ngày
rất say, rất dại và rất nhớ, rất thương.

CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG

Trăng là ánh sáng ? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc say say gió xé rách lả tả… Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghĩa là trăng rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước, xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán…Phải không hở chàng Ngưu và ả Chức?

Sông? Là một dải lụa bạch, không, là một đường trăng trải chiếu vàng, hai bên bờ là động cát và rừng xanh và hoang vu và thanh tịnh. Chị tôi và tôi đồng cầm một mái chèo con, nhẹ nhàng lùa những dòng vàng trôi trên mặt nước.
Chị tôi cười nả nớt, tiếng cười trong như thủy tinh và thanh khiết lạ thường, luôn luôn cứ hỏi tôi và đố tôi cho kỳ được: “Này chị đố em nhé, trăng mọc dưới nước hay mọc trên trời, và chúng mình đi thuyền trên trời hay dưới nước?”. Tôi ngước mắt ngó lên trời rồi ngó xuống nước và cũng cười đáp lại” “Cả và hai chị ạ”. Sướng quá, chao ôi, hai chị em lại thỉnh thoảng rú lên cười làm náo động luồng tinh khí của hạo nhiên.

Vây chúng tôi bằng ánh sáng, bằng huyền diệu chưa đủ, Ngưu lang và Chức nữ, chúa của đêm trung thu còn sai gió mang lại gần chúng tôi một thứ mùi băng phiến: trong ấy biết đâu lại không phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa… Thuyền đi êm ái quá, chúng tôi cứ ngờ là đi trong vũng chiêm bao, và say sưa ngây ngất vì ánh sáng, hai chị em như đê mê, không còn biết có mình và nhận mình là ai nữa. Huyền ảo khởi sự. Mỗi phút trăng lên mỗi cao, khí hậu cũng tăng sức ôn hòa lên mấy độ, và trí tuệ, và mộng, và thơ, và nước, và thuyền dâng lên, đồng dâng lên như khói… Ở thượng tầng không khí, sông Ngân Hà trinh bạch đương đắm chìm các ngôi sao đi lạc đường. Chị tôi bỗng reo to: “Đã gần tới sông Ngân rồi! Chèo mau lên em! Ta cho thuyền đậu ở bến Hàn Giang!”.

Đi trong thuyền chúng tôi có cái cảm tưởng lý thú là đương chở một thuyền hào quang, một thuyền châu ngọc, vì luôn luôn có những vì tinh tú hình như rơi rụng xuống thuyền…
Trên kia, phải rồi, in hình có một vì tiên nữ đang kêu thuyền để quá giang.

Thình lình vùng mộng của chúng tôi bớt vẻ sáng lạn. Chị tôi liền chỉ tay về phía bến đò thôn Chùa Mo và bảo tôi rằng: “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát ra được, biết làm thế nào, hở Trí”. Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn”. Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân dẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa. Nước suối chảy ở hang đá trắng, tinh khiết như mạch nước ngọc tuyền, chồm lên những vừng lá, hễ trông đến là kinh hãi vì ngó giống con bạch hoa xà như tạc…
Sao đêm nay kiều diễm như bức tranh linh động thế này? Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong một ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng? Chị tôi làm thinh – mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng. Động là một thứ hòn non bằng cát trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá của tiết trinh – một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát…

Hai chị em đồng dang tay níu áo gượng vào nhau dấn bước lên cao… Thỉnh thoảng mỏi hai đầu gối quá, cả chị liền em đồng ngã lăn ra. Lại một dịp cho tiếng cười của chị tôi được nở ra giòn tan trong không khí. Lên tới đỉnh là hao mòn đi một ít. Nhưng mà ngợp quá sáng quá, hứng trí làm sao? Đây có phải là nước Nhược non Bồng, động phủ thần tiên ngàn xưa còn sót lại? Nhìn xuống cát cố tìm dấu tích gì lưu lại một vết chân của Đào Nguyên Tiên nữ, nhưng tấm cát phẳng lờ của lụa căng, trinh bạch làm sao.

Bất tri thử địa quy hà xứ
Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân?

Bây giờ chúng tôi đương ở giữa mùa trăng, mở mắt cũng không thấy rõ đâu là chín phương trời, mười phương Phật nữa. Cả không gian đều chập chờn những màu sắc phiêu diêu đến nỗi đôi đồng tử của chị tôi và tôi lờ đi vì chói lói… ở chỗ nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như cả bầu thế giới chở chúng tôi đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầu nào khác.

Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu… Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là đức tinh tuyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng quỳ lạy mong ơn bào chữa. Nhưng trời ơi, sao đêm nay chị tôi đẹp đẽ đến thế này. Nước da của chị tôi đã trắng, mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh bạch quá đi.
Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu hỏi tức cười làm sao: “Có phải chị không hở chị?”. Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”.

Ngó lại chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt. Chị tôi hí hửng như xuân, chạy nhảy xênh xang cơ hồ được dịp phát triển hết cả ngây thơ của người con gái mười lăm tuổi, tôi ngắm mãi chị tôi, và tự vui sướng trong làng vô hạn. Có lúc tôi đã kiêu ngạo thay cho sắc đẹp nhu mì ấy, mà chỉ dưới trời thu đêm nay tôi mới biết thưởng thức. Những phút sáng láng như hôm nay, soi sáng linh hồn tôi, và giải thoát cái “ta” của tôi ra khỏi nơi giam cầm của xác thịt… Tôi bỗng rú lên một cách điên cuồng, và chực ngửa tay hứng một vì sao đang rụng. Chị tôi đằng xa chạy lại bảo tôi:

- Em la to quá, chị sợ âm thanh rung động đến khí trời, rồi những ánh trăng sẽ tan ra bọt mất…
- Không, không, chị ơi! Rồi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi…

QUAN NIỆM THƠ

Gửi Trọng Miên
Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Trí, quan niệm rất khác thường, không giống Baudelaire lắm. Theo Baudelaire thì va lấy passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu Miên lấy tập Thơ Điên của Trí ra, Miên sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nồng và rất say sưa… Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc. Chỗ ấy hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi, vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói “ la pasion est chose naturelle”… nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy.

Tình cảm – hay cảm hứng (enthousiasme) – với dục tình (passion) khác nhau nhiều. Tình cảm là sự thanh bạch hồn nhiên, không một chút gì bợn nhơ, tội lỗi, còn dục tình là cả một sự ham muốn phi thường, ngoài điều răn của Đức Chúa Trời … Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ (éléments de la poésie) nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng chí tôn. Vì thế trừ hai loài trọng vọng là thiên thần và loài người ta, Đức Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: Loài thi sĩ. Loại này là những bông hoa quý và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mệnh rất thiêng liêng: Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi những quyền phép của Người và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê, nhưng rất thơm tho, rất tinh sạch (but de poésie). Bởi muốn cho loài thi sĩ làm trọn nhiệm vụ ở thế gian này, nghĩa là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh lại muôn đời, Người bắt chúng mua bằng giá máu, luôn có một định mệnh tàn khốc theo riết bên mình:
“Không rên siết là thơ vô nghĩa lý.”
Hay:
“Ta hiểu chi trong ánh gió nhiệm mầu
Những hạt lệ của trích tiên đày đọa.”

Cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thủy vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt. Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, ngỡ ngàng và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình. Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất cả những lương thực ngọt ngào mỹ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng, làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ (genèse d’un poème). Song le miệng lưỡi của thi sĩ ra vẫn còn nóng ran, vẫn còn khát khao thèm thuồng những vật lạ muôn đời (génie créateur, aimant toujours le nouveau). Của thế gian nếm mãi chưa bưa, chưa ớn, chưa hả hê chút nào. Thi sĩ vẫn đi tìm mãi, vẫn còn kêu rên thảm thiết, để đi đến cõi ước mơ hoàn toàn. Trong đời thi sĩ, thi sĩ đã sống cô độc, những người con gái rất xinh đẹp cũng không làm cho thi sĩ vui đặng, vì thi sĩ nhận thấy ở người con trai cũng như người con gái, đều có một tâm thuật nhỏ nhoi, tầm thường không hợp với tính tình thanh cao của thi sĩ. Vì thế thi sĩ cứ kêu rên thảm thiết là để tìm một người tri kỷ. Mà than ôi, không bao giờ thi sĩ tìm đặng. Người tri kỷ của thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn tài, toàn năng, một đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết mọi sự - Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Thi sĩ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng, anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian này, nhưng thi sĩ là người khao khát vô tận, cứ nhất định muốn hưởng cái thơ trên cái thơ khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ. Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường. Với một sứ mệnh của Trời, thi sĩ phải biết đem tài năng ra ca ngợi Đấng Chí tôn và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng. Những thi sĩ nào không biết đem tài ứng dụng vào chỗ tốt đẹp thì sẽ bị Đức Chúa Trời lấy tài lại một cách nhãn tiền!

Miên ơi, như thế là Miên đã hiểu thế nào là quan niệm của Trí về thơ. Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt. Câu này ăn ý với câu: thơ là những tiêng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ cảnh chiêm bao, giải thích bằng hai mặt lạc quan và bi quan.

Trí đã tóm tắt những ý đã nói. Có điều này nữa, Trí khác hẳn với Baudelaire. Baudelaire nói: thơ văn không thể dung hòa với khoa học hay luân lý (hoặc tôn giáo cũng thế) và thơ văn không thể lấy chân lý làm chủ đích được, thơ chỉ là thơ (La poésie ne peut pas sous peine de mort ou de déchéance, s’assimiler à la science ou à la molale. Elle n’a pas la vérité pour objet, elle n’a qu’elle même). Baudelaire nói trái nghịch với lẽ tự nhiên. Sở dĩ thơ văn được phong phú, dồi dào, pháp triển hết cả anh hoa, huyền bí và vượt lên những tầng biên giới tân kỳ, mới lạ, cũng nhờ khoa học điểm chuyết cả. Còn luân lý là tiêu chuẩn cho văn thơ, không có nó thì thơ văn chẳng còn ra cái mùi mẫn gì nữa. Nếu để thơ trơ trọi một mình, thơ sẽ lạt lẽo vô duyên, không có phong vị gì nữa. Baudelaire thuộc về phái vô thần, nên không tin Chân lý, không nhận Chân lý làm tiêu chuẩn cho thơ văn. Còn Trí phải lấy Đức Chúa Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Văn thơ không phải bởi không mà có.
Quy Nhơn, juin, 1939

HỒN THANH KHIẾT

1 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin mang xuống cho tôi một triều thiên.
2 Tôi những muốn tắm gội trong Đại dương ánh sáng và tình yêu Thiên Chúa.
3 Vì nơi dương thế đã thể hiện những phép lạ khiến con người ngất ngây thán phục công trình huyền nhiệm của Đấng Tối Cao.
4 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, kìa các vị thấy chăng, hào quang đang rạng tỏ… màu tuyết trắng tinh…, hình hài trinh nguyên vô nhiễm…, hồn thiêng hiển hiện chốn dương trần… Thoạt nhìn, tưởng là hồn các thánh, là chất thơ, là tinh hoa kinh nguyện, đáng lẽ tỏa thành thanh hương, thanh khí, nhưng lại khiêm tốn nhận thân phận làm người!
5 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin vỗ tay mừng: Vì đấy là các Mẹ và các Chị dòng Phan Sinh, vào đời để thoa dịu những đau thương sầu khổ của người trần yếu đuối, người bệnh hoạn và cả những người phong cùi như chúng tôi.
6 Tôi muốn ca lên bài ca tán tụng, muốn uống thỏa thích những lời ngọt ngào khi các bà hát: Hosanna! Hosanna! (Hoan hô Chúa! Hoan hô Chúa!)
7 Tôi muốn đời đời cảm mộ vẻ trong trắng tinh tuyền và tươi mát ấy, hào quang ấy, chất thơ ấy, vì tất cả đấy là biểu hiệu của
HỒN THANH KHIẾT.
8 Hỡi các thiên thần trên trời, thiên thần của Chúa, thiên thần bình an hoan lạc, xin cùng nhau tung lên những hoa hồng, hoa súng, cất lên những khúc hát du dương, tấu lên những điệu nhạc thơm, và hãy tuôn đổ chan hòa các nhân đức, lòng dũng cảm và nguồn hạnh phúc giữa các nữ tì của Chúa ”.
Phanxicô Trí
Deo gratias! (Tạ ơn Chúa!)
Đêm thứ tư, 24 tháng Mười 1940

(Bản Việt ngữ của Phạm Đình Khiêm)


NỘI DUNG

VÀI NÉT VỀ HÀN MẠC TỬ 5

HÀN MẠC TỬ, NGƯỜI KITÔ HỮU TRẺ TRÊN LỐI VÀO NỘI TÂM 1
1. ĐƯỜNG VÀO NỘI TÂM 9
2. NÉT ĐỒNG DẠNG GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM 13
1. KINH NGHIỆM CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ 13
3. TƯƠNG QUAN GIỮA NGHỆ THUẬT VÀ TÂM LINH 16
4. BƯỚC NHẢY QUYẾT ĐỊNH Ở VŨ MÔN 22
5. KINH NGHIỆM HÀN MẠC TỬ 24
6. CHIÊM NIỆM GIỮA ĐỜI THƯỜNG 34
7. CHIÊM NIỆM VÀ THƠ 39
8. CHẤT TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ 43
9. ĐƯỢC NÊN GIỐNG ĐỨC KITÔ 46
10. DẠO ĐẦU KHÚC LINH CA 51
11. RÚT BÀI HỌC CHO CHÍNH MÌNH 56
LỜI KẾT 71

TRÍCH TUYỂN THƠ HÀN MẶC TỬ 72
THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA 73
ĐÂY THÔN VĨ DẠ 75
TRĂNG VÀNG TRĂNG NGỌC 75
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ 76
ĐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN 77
ĐIỀM LẠ 78
NHỮNG GIỌT LỆ 78
NGUỒN THƠM 79
RA ĐỜI 80
SAY THƠ 81
CÔ LIÊU 84
CUỐI THU 85
BIỂN HỒN TA 86
XUÂN ĐẦU TIÊN 87

TRÍCH TUYỂN VĂN HÀN MẠC TỬ 88
LỜI TỰA ĐAU THƯƠNG 88
LỜI TỰA “XUÂN NHƯ Ý” 89
CHƠI GIỮA MÙA TRĂNG 91
QUAN NIỆM THƠ 95
HỒN THANH KHIẾT 98