Một Cây Đại Thụ về Sự Sống

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị Là Một Nhà Quán Quân Về Sự Sống, Thế Nhưng Di Sản Lớn Nhất Của Ngài – Một Nền Văn Hóa Sự Sống – Vẫn Còn Đợi Chờ

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã nói khá nhiều về “nền văn hóa sự sống” và đã cảnh cáo những gì chống lại “nền văn hóa sự sống,” và Ngài kêu gọi nhân loại con người hãy chống lại “nền văn hóa sự chết.” Thế những điều đó có nghĩa là gì?

Cây đại thụ của nền văn hóa sự sống
Ngài đã từng chứng kiến rất nhiều cái chết trong thời đại của Ngài. Ngài đã sống trong một thời đại có nhiều vụ chết chóc nhất trong lịch sử nhân loại, đã mất rất nhiều bạn bè trong cuộc chiến; và vào lúc Ngài bước vào lứa tuổi 20, Ngài đã mất đi hết những người có ý nghĩa nhất đối với Ngài, tất cả mọi thành viên trong gia đình thân yêu của Ngài. Sự chết đã bủa vây Ngài quá nhiều. Thế nhưng nền văn hóa tức thời mà Ngài được nuôi nấng, và nền văn hóa của những người Công Giáo thuộc tầng lớp lao động và trung lưu tại Ba Lan, lại là một nền văn hóa yêu thương và tôn trọng sự sống. Khi Ngài còn là một cậu bé, Ngài đã từng nói, những người phụ nữ được “nâng cao” và “được kính trọng.” Không có sự phá thai; người bệnh được cho phép sống mãi cho đến khi thân thể của họ chết đi, và người già cũng như vậy. Mọi người đều biết trong xương tủy của họ rằng chính Thiên Chúa mới thật sự là người tạo dựng nên họ, và tất cả chúng ta thật sự là những con cái đặc biệt của Ngài. Thì đó chính là những gì mà Ngài được khởi điểm, được nuôi nấng và được nên người.

Trong suốt triều đại giáo hoàng của Ngài, Ngài nhận thấy được khuynh hướng mà thế giới này đang hướng tới và lớn dần lên. Có quá nhiều cuộc cách mạng thế nhưng có rất ít người thật sự cảm nghiệm được sự tự do; có quá nhiều việc hiện đại hóa, thế nhưng lại có quá ích sự liên kết nhau. Càng ngày càng có nhiều phương tiện đại chúng và nhiều sự cổ võ hơn cho bạo lực; càng ngày càng có nhiều sự tách biệt giữa tính dục và tình yêu, và giữa tình dục và hôn nhân.

Ngài đã hành động những gì mà Ngài muốn làm: Ngài suy nghĩ về những gì đang xảy ra, và rồi sau đó Ngài viết và nói về nó. Những gì mà Ngài đã cho xuất bản vào tháng 3/1995 chính là một Hiến Chế vĩ đại, Hiến Chế thứ 11 của Ngài có tên “Phúc Âm Của Sự Sống” (Gospel of Life). Và qua đó, Ngài thể hiện quan điểm rất rõ ràng, và trong suốt thời đại của Ngài, việc phá thai, việc trợ tử, và phẩm giá bất khả xâm phạm của một mạng sống con người là chuyện thật sự làm nhức nhối và đau lòng Ngài. Chính qua Hiến Chế đó, lần đầu tiên Ngài sử dụng đến thành ngữ “nền văn hóa sự chết.”

Thế đó có nghĩa là gì?

Thưa, đó là một nền văn hóa vốn xem những suy đồi về luân lý lại là những quyền của con người, vốn xem việc chấm dứt mạng sống con người trong cung lòng người mẹ như là một sự chọn lựa hợp lý và được bảo vệ; hay việc chấm dứt đi mạng sống của bào thai là điều có thể chấp nhận được, và được coi là thực tiển dẫu việc đó mất hẳn đi tính con người. Thế nhưng con người không được phán xét như là “hữu dụng” hay “vô dụng.” Một xã hội không coi trọng mạng sống con người, tức là một xã hội tự nó đựng chứa trong đó một sự diệt vong rồi.

Và mặc cho những nền dân chủ hiện đại phóng khoáng của thế giới có các luật lệ gì đi chăng nữa, một khi biến việc phá thai trở nên hợp pháp ở một mức độ nào đó, và việc theo đuổi luật lệ hòng cho phép việc trợ tử là hợp pháp, thì “việc phá thai và trợ tử chính là những tội ác mà không có một luật lệ nào đó của con người có thể cho là hợp pháp được. Thì chẳng có một sự ràng buộc nào về mặt lương tâm để tuân theo những qui luật kiểu đó, mà thay vào đó, có một trách nhiệm luân lý rõ ràng là phải chống đối lại những điều đó bằng chính sự từ chối khách quan của lương tâm.”

Việc phá thai, như Đức Cố Giáo Hoàng đã tuyên bố, là một điều vô luân lý trầm trọng nhất bởi vì nó chủ yếu cướp lấy đi mạng sống con người vô tội. Cũng tương tự như vậy, đối với việc trở tử, vì cả hai chối từ “tình đoàn kết.” Cả hai trái ngược với sự tôn trọng và sự bảo vệ mà chúng ta còn thiếu nợ cho các anh, chị em của chúng ta trong sự sống.

Nền văn hóa sự chết “được tích cực ủng hộ bởi những dòng tư tưởng văn hóa, chính trị và kinh tế mạnh mẽ nhằm khuyến khích một xã hội cực kỳ nhạy cảm với sự hữu hiệu… Một người nào đó vì tật bệnh, vì bị tàn tật, hay đơn giản hơn là vì sự hiện diện của họ nơi trần gian này, làm tổn thương đến sự phồn vinh hay cung cách sống của những ai có khuynh hướng nhìn đến họ như là những kẻ thù để chống lại hay cần phải loại bỏ đi.”

Thiên Chúa Quyết Định Chứ Không Phải Con Người

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị nói rằng tất cả mọi người đều có quyền sống. Những trẻ em trong cung lòng của những người mẹ có quyền được sống, được sinh ra và được bước đi với dòng đời. Tất cả chúng ta có quyền để bệnh hoạn, được hủy hoại hay bị đau yếu đi. Chúng ta không phải trở nên quá hoàn hảo để xứng đáng với cuộc sống; mà chúng ta có thể là không hoàn hảo hay vụng về cho lắm. Tất cả chúng ta đều có quyền để trở nên già nua nếu như chúng ta có được cơ hội để lớn lên. Thì những tình huống này - tức sự tổn thương ngây thơ, bệnh tật, tuổi già - là thường thôi, không có gì lá khác thường hay đặc biệt gì cả, và nó cũng chẳng phải là điều gì đó đe dọa đến việc hưởng thụ cuộc sống của chúng ta nhưng đó lại là một phần trong cuộc sống của chúng ta nơi trần thế, đó là một phần của tấm thảm, và là một cách diễn đạt về những ước muốn của Thiên Chúa: rằng chúng ta được sống.

Ngài cũng đã từng nói rằng một khi mà bạn đi xuống con đường mà một số người kém may mắn có thể bị kết liểu đi, chúng ta sẽ không biết được cuộc hành trình sẽ kết thúc tại nơi đâu. Một khi chúng ta quyết định về một số mạng sống mà chúng chẳng còn đáng sống hay quan trọng nữa, thì lúc đó bạn sẽ bước qua một chặng đường mới để đến một nơi mới lạ mà bạn quyết định ai sẽ lấy được sự sống, và ai sẽ phải chết đi.

Đó chính là một nơi mà nó để lại trong chúng ta nhiều sự thô tục, biến cho lương tâm của chúng ta ngày càng chai cứng và lì lợm thêm đi, khiến chúng ta không được cởi mở để mà yêu thương và kêu khấn. Một khi mà bạn đến đó, thì trạm dừng kế tiếp của bạn, hay một chặng nữa sau đó, chính là sự diệt chủng, hay sự giết người không hề nao núng nhằm đánh dấu lấy thời đại của chúng ta, hay một phòng hơi ngạc.

Đức Cố Giáo Hoàng nói, đừng để bị lún sâu vào con đường đó. Mà hãy tránh khỏi con đường đó đi, ra khỏi chiếc xe bus, vì nó chẳng dẩn bạn tới được bất kỳ nơi nào cả.

Sau đó Ngài nói rằng: “Quyền được sống có nghĩa là quyền được sinh ra và tiếp tục sống mãi cho đến lúc chết đi một cách tự nhiên.” Và rằng, chỉ có Thiên Chúa mới có thể quyết định được “lúc nào chính là lúc chết đi” mà thôi.

Một Người Có Đầu Óc Thực Tế Không Nhượng Bộ

Những quan điểm của Đức Cố Giáo Hoàng không những mang tính không thỏa hiệp, không nhượng bộ; mà còn cho chúng ta thấy được một sự chú ý đến những hiện thực của sự sống như được sống trong thế giới hiện đại.

Những biện pháp phi thường trong việc điều trị y học đối với những người bệnh tại các bệnh viện, chẳng hạn, không phải lúc nào cũng là như vậy cho dẫu với bất kỳ những phương tiện nào đi chăng nữa. Nếu một bệnh nhân đang chết đi, cũng chính là nạn nhân của căn bệnh không thể tránh khỏi, chẳng hạn, và nếu các thủ tục là “bất cân xứng với những kết quả mong đợi nào đó,” thì việc chữa trị có thể được chấm dứt đi một cách hợp pháp. Cũng tương tự như vậy, thuốc và những thứ thuốc giảm đau có thể thâu ngắn đi một mạng sống thế nhưng chúng được trù định sử dụng để giảm đau, thì điều đó là hợp lệ.

Án tử hình, phần nào đó cũng tương tự như vậy. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, người đã chứng kiến không biết bao nhiêu sự lạm dụng man rợ về uy quyền để giết người, đã mạnh mẽ đứng lên tố cáo chống lại án tử hình trong hầu hết tất cả mọi trường hợp.

Giáo Hội Công Giáo xem việc tù chung thân chính là một hình phạt hợp lý của xã hội hòng để cố bảo vệ sự sống và để làm nhụt chí những ai cố tình phạm tội. Ngài nói án tử hình chỉ được dùng như là cách để bảo vệ xã hội trong những trường hợp “có sự chắc chắn tuyệt đối.” Ngài nói các nhà tù đã và đang trở nên một hình thức bảo vệ xã hội, và rằng những trường hợp tử hình vì lý do “chắc chắn tuyệt đối” là rất hiếm nếu như không muốn nói là “không có về mặt thực tế.”

Can Đảm Trở Nên Người Bảo Vệ Phụ Nữ

Năm năm sau, trong cuốn sách gồm có những bài phỏng vấn, cuốn sách được bán chạy nhất của Ngài có nhan đề “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Của Niềm Hy Vọng” (Crossing The Threshold of Hope), Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, lại một lần nữa được hỏi về vấn đề phá thai, và đã dẫn đến một lối rẽ khác thú vị trong cuộc trò chuyện của Ngài.

Ngài nói: “Điều cần thiết để nhận ra rằng… chúng ta hiện đang chứng kiến những tấn thảm kịch thật sự đang xảy đến cho nhân loại con người. Vẫn thường khi những người phụ nữ lại chính là những nạn nhân của sự ích kỷ nơi nam giới, theo một nghĩa rằng, chính người nam đã góp phần vào sự khai bông, nở nhụy về một sự sống mới, lại không muốn gánh lấy gánh nặng đó, và để cho người nữ phải chịu trách nhiệm, giống như thể đó chỉ là ‘lổi của cô ta’ vậy.”

Ngài tiếp tục: “Do đó, vào lúc mà những người phụ nữ thật sự cần đến sự hổ trợ nhất của những người nam, thì những người nam lại chứng tỏ họ chỉ là những người ích kỷ đáng chê trách nhất, có đủ khả năng để khai thác sự yêu mến và điểm yếu của những người nữ, để rồi ngang bướng chối từ trách nhiệm về chính hành động của riêng mình. Thì đó chính là những vấn nạn được biết đến không những trong các tòa giải tội, mà còn cả nơi các tòa án trên khắp thế giới, và ngày hôm nay, càng ngày càng có nhiều tòa án, có liên quan đến những người chưa trưởng thành.”

Việc chối từ “sự tự do chọn lựa” không thôi vẫn chưa đủ, mà chúng ta phải “trở nên can đảm để ủng hộ những người phụ nữ,” để cổ võ một sự chọn lựa nào thật sự đứng về phía người phụ nữ. Những người phụ nữ phải trả cái giá đắt nhất cho “sự đàn áp về sự sống của đứa trẻ, người đã được thụ thai.” Quan điểm “thành thật” duy nhất của xã hội, đối với hầu hết tất cả mọi người trong chúng ta, chính là một “sự đoàn kết triệt để” và mới mẽ với những người phụ nữ trong thảm kịch này.

Một Bài Học Về Lòng Dũng Cảm

Tại đây, tôi muốn lưu ý rằng Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, qua việc khẳng định về những sự thật này, khiến Ngài hoàn toàn trở nên một người trái ngược hẳn với tinh thần của thời đại mà Ngài đã sống.

Những người Công Giáo của Phương Tây vẫn thường phát biểu trong những cuộc bỏ phiếu thăm dò rằng họ không chấp nhận những giảng dạy của Giáo Hội, tức những giảng dạy của Ngài, về việc phá thai, về tính thánh thiêng bất khả xâm phạm của sự sống. Và Ngài đã biết rất rõ về điều này. Ngài đặc biệt biết đến tầng lớp trí thức của Tây Phương không chú ý một cách nghiêm túc cho lắm đối với những lời thông báo và căn dặn của Ngài. Thế nhưng, Ngài cứ mãi nói, và lặp đi lặp lại đối với họ, đến nổi Ngài đã từng bị tố cáo là quá bị ám ảnh vào những vấn đề đó – và Ngài đã từ chối lời lên án đó, bằng việc nói rằng, Ngài đề cập đến những vấn đề đó trong tư cách là một con người, và trong tư cách là một người lãnh đạo, về “mệnh lệnh cơ bản của con người” là phải bảo vệ mạng sống của những người khác, những người “không thể tự họ bảo vệ cho chính bản thân họ được.”

Trong cuốn sách cuối cùng của Ngài, được xuất bản vào năm mà Ngài mất đi, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị lại một lần nữa đề cập đến những gì mà Ngài quan tâm nhất. Ngài nói là Ngài biết mình đang phải chiến đấu với những người mang sự chết và khuyến khích về sự chết chóc, những người tiến lên phía trước và tự nhân danh là sự tha thứ, khoan dung, thế nhưng, hoa trái thật sự của họ lại chính là sự đau buồn và khổ ải. Ngài nói, chúng ta phải chiến đấu. Chúng ta phải lên tiếng.

Chúng ta phải nói rằng: “Việc im lặng trước sự hiện diện về những mục đích của kẻ thù chỉ là cách để cổ võ kẻ thù lên mà thôi. ‘Dùng sự sợ hãi để lấn áp sự im lặng’ chỉ là mục tiêu đầu tiên trong chiến thuật của ma quỷ. Sự khiếp sợ được dùng trong tất cả mọi chế độ độc tài tùy thuộc vào sự sợ hãi của các môn đệ. Sự lặng thinh chỉ mang tính bác ái tông đồ khi nào mà nó không ngoảnh mặt đi trước những ai tấn công nó. Thì đó là trong trường hợp có liên quan đến sự im lặng của Chúa Kitô.”

Chính vì thế giờ đây chúng ta biết được đó là một chiến thuật. Và dĩ nhiên, chiến thuật đó, đòi hỏi phải có sự can đảm, phải có một quyết định mang tính cá nhân để đặt sự nổi tiếng của cá nhân mình xuống làm thứ yếu, sự không thích về những lời chỉ trích về chính mình làm thứ yếu, và đặt cam kết của chính mình trong việc nói về sự thật luôn là ưu tiên hàng đầu. Và Ngài đã làm như vậy.

Và thêm một điều mang tính hài hước nữa về Ngài chính là: con người không nói rằng là họ để ý mà người ta nói rằng họ khâm phục; rằng họ không nói rằng họ đồng ý với bạn, và họ không nói rằng là họ đang biết bạn đang nói ra những sự thật quan trọng nhất. Thế nhưng họ luôn lúc nào cũng dõi theo, và suy nghĩ.

Và cuối cùng, những đám đông cuồn cuộn đổ về Rôma khi Ngài qua đời, có lẽ, họ đang đáp trả cho sự dũng cảm của một người cha chung già yếu, họ đến để tiển đưa thi thể của Ngài, và việc đó đã công bố ra rằng Ngài đã chiến thắng được tình yêu thương và lòng biết ơn sâu đậm nhất của con người, một người luôn lúc nào cũng nói và đề cao về sự thật.

Và khi có một người nào đó làm như vậy, thì tận trong đáy thẳm tâm sâu của chúng ta, chúng ta biết rõ được người đó là ai.

Nguyên bản tiếng Anh bài viết trên là của Peggy Noonan có nhan đề “A Giant For Life” được trích từ tạp chí Columbia số ra Tháng 04/2006 ở trang 10-12 của Hội Hiệp Sĩ Columbus.

Cô Noonan chính là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times. Cô cũng viết cho tờ The Wall Street Journal, và là trợ tá đặc biệt dưới thời của Cựu Tổng Thống Ronald Reagan tại Tòa Bạch Ốc.