Một hiện thực mới về việc phá thai

Nhiều cuộc nghiên cứu đề nghị rằng những người phụ nữ thuộc gốc thiểu số, những người nghèo và những nạn nhân của các vụ lạm dụng thường phá thai nhiều hơn là những người phụ nữ khác.

Ai là loại khách hàng phá thai tiêu biểu nhất tại Hoa Kỳ? Đại đa số nhiều người Mỹ cứ mãi thắc mắc về câu hỏi đó mà hầu như ai cũng biết câu trả lời, đó là: những thanh thiếu niên của các gia đình thuộc giai cấp trung lưu, những người đã đi quá xa, và giờ đây đang phải lo lắng về việc phải hủy bỏ mọi dự án học lên đại học của họ; hay những người phụ nữ có nghề nghiệp rõ ràng ở vào độ tuổi 30 gì đó, những người đã tính toán sai lầm và giờ đây đành phải bỏ dỡ sự nghiệp mà mình đang đeo đuổi; và những người phụ nữ khác, tức những người muốn tự kiểm soát vận mệnh của họ.

Thì những loại người phụ nữ nêu trên và một số khác chắc chắn đã tìm đến sự phá thai và có lẽ thực hiện quyền chọn lựa của họ. Nhưng với mức độ ngày càng gia tăng, trông có vẽ như hầu hết mọi người phụ nữ nhìn chung, đều là những khách hàng tìm đến sự phá thai, bằng cách này hay cách khác.

Giữa năm 1994 và 2000, tỉ lệ phá thai nhìn chung đã giảm xuống cho hầu hết mọi nhóm dân số tại Hoa Kỳ. Thế nhưng, tỉ lệ đó ngày một gia tăng lên trong số những người phụ nữ có thu nhập thấp và những người phụ nữ thuộc dạng Medicaid. Hơn nữa, mặc dầu nhóm dân thiểu số chỉ chiếm có 30% trong tổng dân số của Hoa Kỳ, thế nhưng những người phụ nữ thuộc dạng thiểu số lại chiếm tới 59% trong số các khách hàng tìm đến sự phá thai tại Hoa Kỳ trong năm 2000 vừa qua.

Cũng nên ghi nhớ rằng, hơn phân ½ trong số 1.3 triệu vụ phá thai hằng năm tại Hoa Kỳ chính là những vụ phá thai lần hai hay lần ba (hoặc lần bốn và cao hơn nữa). Theo Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Dịch (Center for Disease Control hay CDC), 18% vụ phá thai trong năm 2000 là những vụ phá thai lần thứ ba.

Thế ai là những người phụ nữ tìm đến sự phá thai lần thứ hai trở lên? Thưa, hầu hết họ là những nữ thanh thiếu niên thuộc giai cấp trung lưu hay những người phụ nữ có nghề nghiệp ổn định thuộc lứa tuổi 30 gì đó.

“Những cuộc nghiên cứu đề nghị,” đó là kiểu nói của một tác giả trên tờ báo mang tư tưởng trung du, phóng khoáng (liberal) hằng tuần có tên là The New Republic (Cộng Hòa Mới), “rằng con số những người phụ nữ lặp lại so với những người phụ nữ lần đầu tiên phá thai, phần lớn chính là những người phụ nữ thuộc giới thiểu số, những người nghèo, và các nạn nhân của những vụ lạm dụng tính dục – hay nói một cách ngắn gọn hơn, những người dễ bị tổn thương nhất của xã hội….Sự kiện đáng buồn chính là, ba thập niên sau khi việc phá thai được hợp thức hóa, phá thai không còn là một dụng cụ chính yếu nữa cho những người phụ nữ dùng đến để hình thành nên số phận của riêng họ nữa, mà đó là một hiện tượng của một vấn nạn xã hội rộng lớn hơn cần phải đề cập đến.”

Một cuộc nghiên cứu về phá thai tại Canada tìm thấy rằng những người phụ nữ lặp lại sự phá thai trong các năm từ 1998 đến 1999 phần lớn là những người phụ nữ bị lạm dụng về tình dục hay thể xác. Tất cả những người phụ nữ này thường không phải là những người nói rằng họ “có rất nhiều bạn bè” và “có rất nhiều kế hoạch cho tương lại.” Phần lớn trong số họ cũng đã từng cảm nghiệm được sự mâu thuẩn rõ ràng với những người bạn đời nam của họ.

Xã hội không dễ gì có được những giải pháp cho những người phụ nữ thuộc vào những tình huống vừa kể. Trong những trường hợp như vậy, họ phải tự diện đối với một loạt các vấn nạn đan chéo nhau về mặt tâm lý, kinh tế và văn hóa, hay nói cách khác, không có một vấn nạn nào là mang tính đạo đức luân lý thuần tuý vốn cần phải đem ra bàn luận trên một bình diện rộng lớn hơn cả. Thậm chí là như vậy, có người ngờ vực rằng, sự thành công chỉ là mang tính may rủi mà thôi, và có ít bằng chứng cho thấy rằng một nổ lực tối đa nào đó cần được đem ra thực hiện.

Trong lúc này, một lời đáp trả dễ dàng hơn cho những vấn nạn vừa kể, tự cho rằng hầu hết đối với những người có tín ngưỡng thật sự thì việc ngừa thai lại chính là một giải pháp chữa trị hết cho những thứ bệnh tật của xã hội. Điển hình chính là một bản báo cáo vào năm 1997 từ Học Viện Guttmacher, tức một chương trình nghiên cứu hợp tác với Tổ Chức Kế Hoạch Hóa Gia Đình, kêu gọi “việc tư vấn và cung cấp các dịch vụ về việc ngừa thai tăng cường” để tránh những vụ phá thai được lặp đi lặp lại. Những nhà nghiên cứu của Canada cũng đề nghị đến việc tư vấn và giới thiệu về các phương cách ngừa thai.

Thế nhưng nền văn hóa ngừa thai được phản ánh trong kiểu suy nghĩ như vậy lại chính là một kiểu ma trận mà qua đó vấn nạn này được hình thành nên và bị ung thối đi.

Như Bryce Christensen, một nhà văn kỳ cựu về các vấn đề có liên quan đến hôn nhân và gia đình, người thường hay viết về đề tài có liên quan đến truyền thống đạo đức, luân lý học nói: “Trong khi sự sung túc che chở cho sự giàu có từ rất nhiều hệ quả của tình trạng ‘tình dục lơi lõng và bừa bãi’, thì những người nghèo lại bị đẩy vào những hệ quả như vậy.”

Như kểu mà Christensen nói, “sự chểnh mảng về tính đạo đức của những cuộc cách mạng tình dục” phối hợp với việc ngừa thai và phá thai lan tràn đã tạo ra “một chiều hướng bất công mới giữa các giới tính. Xét về mặt luân lý, một khi đã làm chuyện đó, thì người đàn ông phải chịu trách nhiệm về mặt luân lý lẫn tài chánh cho bất kỳ vụ mang thai nào mà mình đã tạo ra, thì nay trách nhiệm đó bị phai nhạt đi… những cuộc cách mạng tính dục đã viết ra một kiểu kịch bản cho xã hội này qua đó người đàn ông chơi đùa, và người phụ nữ phải trả giá.”

Cứ nghĩ về điều này trong lần tới khi mà bạn nghe có ai đó nói về quyền được tự do chọn lựa của một người phụ nữ cũng chính là vấn đề trọng điểm của việc phá thai.

Nguyên bản tiếng Anh bài viết trên là của Russell Shaw có nhan đề “The New Reality of Abortion” được trích từ tạp chí Columbia số ra Tháng 04/2006 ở trang 6-7 của Hội Hiệp Sĩ Columbus.