Một Tu Huynh Salesian và hai vị tử đạo thời Đức Quốc xã sắp được phong thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chuẩn y các sắc lệnh công nhận phép lạ của thầy sư huynh Salesian Don Bosco người Ý, và công nhận sự tử đạo của hai linh mục người Ý đã hy sinh trong thời Thế Chiến thứ hai, và các nhân đức anh hùng của năm Tôi Tớ mới, trong đó có hai giám mục truyền giáo và ba nữ giáo dân.

(Tin Vatican - Alessandro De Carolis)

Hôm thứ Bảy, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Thánh Bộ Phong thánh, và châu phê các sắc lệnh liên quan đến tiến trình tuyên thánh khác nhau cho thấy rất nhiều gương bác ái khôn lường và những gương anh hùng khi đối diện với bạo lực.

Sắc lệnh đầu tiên về Chân phước Artemide Zatti, một sư huynh Salesian người Ý, gốc Boretto ở Thung lũng Po, nơi ngài sinh vào năm 1880.

Gia đình thầy di cư đến Argentina khi Artemide 17 tuổi và định cư ở Bahia Blanca. Tại đó, cậu thanh niên này đã tiếp xúc với các tu sĩ Salêdiêng và gia nhập Tu Hội và được khấn dòng, nhưng thầy bị bệnh lao. Khi hồi phục, thầy đã chọn bậc sư huynh và dâng hiến cuộc sống cho các bệnh để chu toàn lời ước lệ mà thầy đã hứa với Đức Maria. Thầy đã phục vụ tại bệnh viện trong suốt quãng đời còn lại của mình tại Bệnh viện Viedma với tư cách là phó giám đốc, quản trị viên và y tá, và được các bệnh nhân và gia đình của các bệnh nhân quí mến… Thầy đã qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1951.

Phép lạ của Thầy Zatti

Thánh Giáo Hoàng John Paul II đã phong chân phước cho thầy Artemide Zatti vào năm 2002. Phép lạ được công nhận vào thứ Bảy (9/4/2022) để thầy được nâng lên hàng hiển thánh, xảy ra vào năm 2016 với việc chữa lành cho một người Phi ở Tanauan Batangas, ông này bị đột quỵ thiếu máu cục bộ nặng gần chết. Gia đình ông ta không có đủ phương tiện để trả bệnh phí cho ca phẫu thuật, nên đưa ông ta về nhà vào ngày 21/8.

Nhưng vào ngày 24 tháng 8, ông ta đột ngột rút ống thông vào mũi để chuyển đồ ăn vào dạ dày và oxy, và đòi ăn uống; sau đó, ông ta được sống một cuộc sống bình thường. Anh trai của ông, là một sư huynh Salêdiêng ở Rôma, người cũng bị nhập viện cùng ngày, đã cầu nguyện cùng Chân phước Artemide Zatti.

Sự tử đạo của hai linh mục

Hai Chân phước tử đạo là các linh mục Giuseppe Bernardi và Mario Ghibaudo đã dũng cảm, tuyên xưng đức tin trước sự căm thù tàn bạo của những kẻ xâm lược.

Sau hiệp định đình chiến năm 1943, thị trấn Boves, thuộc tỉnh Cuneo của Ý, nằm ở điểm giao thoa của các lực lượng Đức và các thế lực chống lại Đức Quốc Xã. Ngày 19 tháng 9, sau một cuộc đụng độ làm mỗi bên bị thiệt mạng một người và hai người bị bắt làm tù binh, Thiếu tá Đức Peiper đe dọa sẽ phá hủy thị trấn nếu hai người bị bắt của ông không được thả tư do, cùng với thi thể của một người bị chết.

Cha Giuseppe Bernardi và một người khác đã dàn xếp thành công cuộc trao đổi, nhưng lính Đức đã không giữ lời hứa. Sau đó, viên thiếu tá Đức ra lệnh tấn công và đưa linh mục cùng một người khác là Antonio Vassallo, lên một chiếc xe bọc thép và buộc họ phải chứng kiến các cuộc hành quyết và phóng hỏa tiêu hủy nhà cửa...

Trong cuộc xâm lăng này vào khoảng 16 giờ 30 chiều, cha chánh xứ là Mario Ghibaudo bị giết. Sau khi cứu các em gái của trung tâm trẻ mồ côi, Cha đã đến thăm một người đã bị trúng đạn của Đức để ban Bí tích xức dầu, nhưng cha bị bắn chết. Khoảng 6 giờ chiều, Linh mục Bernardi và người đàn ông khác bị bắt và bị điệu ra một sân để hành quyết và bị thiêu sống.

Sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng

Các sắc lệnh châu phê các nhân đức anh hùng của các vị sau đây được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn hôm thứ Bảy của năm Tôi tớ Chúa, được Giáo hội nâng lên bậc Đáng kính là:

1. Giám mục Martino Fulgenzio Elorza Legaristi người Tây Ban Nha, sinh năm 1899, một thành viên của Tu hội Thương khó Chúa Giêsu Kitô, làm việc truyền giáo tại Peru. Ngài thường đến thăm các giáo xứ địa phương, đi bằng ngựa và ca nô. Ngài xây dựng các nhà thờ và các thí điểm nơi các làng mạc xa xôi, Ngài cũng tham gia các Phiên họp đầu tiên của Công đồng Vatican II. Ngài mất ở Lima năm 1966.

2. Giám mục Francesco Costantino Mazzieri, một thành viên của Tu hội Ít-ra-en, gốc Abbadia di Osimo (1889), cũng là một nhà truyền giáo. Năm 1930, ngài cảm được lời mời gọi ra đi truyền giáo ở một nơi rất xa nước Ý, và được phái đến Zambia, tỉnh Ndola (Bắc Rhodesia), một thuộc địa của Anh cùng với 6 hội viên nữa. Trong 36 năm, Ngài đã không ngừng truyền bá Phúc Âm làm cho Giáo hội phát triển bất chấp những điều kiện khó khăn và thiếu thốn ngay cả nước nôi. Ngài đã sống ở những vùng nông thôn hẻo lánh như Santa Teresa (Ibenga-Zambia) và khiêm hạ làm việc một cách anh dũng để chăm sóc những người phong cùi. Ngài được mọi người yêu mến và ngài mất vào năm 1983, trong sự thánh thiện tốt lành.

Hai trong số ba người nữ khác được công nhận là Tôi tớ cũng cùng độ tuổi là:

- Cô Aurora Calvo Hernández-Agero, người Tây Ban Nha, sinh năm 1901, sống ở Béjar suốt đời. Xuất thân từ một gia đình đạo truyền thống, anh cô là một linh mục và cô ước muốn trở thành một cư sĩ Dòng Cát Minh, nhưng vì phải chăm sóc mẹ già nên cô phải sống ngoài đời, trở thành một giáo lý viên và thánh hóa đời sống mình, dâng hiến cho Đức Trinh Nữ Maria và đào sâu đời sống thiêng liêng. Cô chết vì bệnh viêm phổi vào năm 1933.

- Cô Rosalia Celak sinh năm 1901 tại Jachówka, Ba Lan. Năm 17 tuổi, cô tự khấn giữ mình đồng trinh, và năm 23 tuổi, cô chuyển về Krakow, làm giúp việc cho một bà lớn tuổi. Sau này ở Krakow, cô làm công việc cung cấp hàng phẫu thuật cho bệnh viện thánh Lazarô và hai tháng sau, cô cung cấp hàng cho khoa hoa liễu. Năm 1927, cô phục vụ Trung tâm người vô gia cư ở Krakow, nhưng vì sức khỏe không cho phép cô phục vụ ở đó nên năm sau, cô trở lại làm việc tại bệnh viện thánh Lazarô, cô được mọi người tin tưởng và kính trọng. Cuối đời, đức tin cô thật vững mạnh, cô kết hợp thần bí với Chúa Giêsu. Cô qua đời vào tuổi 43 tại Krakow vào năm 1944.

- Cô Maria Aristea Ceccarelli sinh năm 1883 tại Ancona, Ý, trong một gia đình bình dân. Mẹ cô không biết chữ, khép kín và rất nghiêm khắc, trong khi người cha cô thì lại bạo lực, cờ bạc và rượu chè, rất ác cảm với Aristea. Cô lớn lên trong một thế giới cô đơn, nghèo cả về tâm lý lẫn vật chất. Cô thường phải nhịn đói và chịu giá rét, từ khi còn nhỏ đã phải làm thợ may lúc mới 6 tuổi cho đến năm 11 tuổi, cô bắt đầu làm việc trong một nhà hàng. Cha mẹ cô ép buộc cô kết hôn với Igino Bernacchia, và cả hai đồng ý sống chung với mẹ chồng, nơi Aristea làm công việc nội trợ và làm trong tiệm bánh, tiệm thịt và cửa hàng tạp hóa của gia đình. Cha chồng và chồng của cô bạo hành và không may vào năm 1902, cô mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo và đau đớn dẫn đến việc phải cắt bỏ đi một con mắt phải. Aristea tìm thấy niềm an ủi khi không ngừng cầu nguyện. Vì công việc của chồng khiến họ phải chuyển về Rome, cô đã giao phó mình cho sự hướng dẫn tinh thần của hai cư sĩ dòng Camillian, sống sứ mệnh của mình trong các bệnh viện, đặc biệt tại Viện điều dưỡng Umberto I, lo cho những người bị lao, đặc biệt là trẻ em, và thăm hỏi các bệnh nhân tại nhà, an ủi và giúp đỡ họ về vật chất. Cô qua đời tại Rome vào đêm Giáng sinh năm 1971.