Hiện nay Giáo Phận Xuân Lộc do Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật cai quản và có Đức Cha Toma Nguyễn Văn Trâm là giám mục phụ tá. Đây là một trong những giáo phận có số người Công giáo lớn nhất Việt Nam. Hiện cũng có trên 200 giáo xứ, chưa kể các họ lẻ, và một đội ngũ linh mục hùng hậu lo việc mục vụ cho Dân Chúa. Để mở đầu chương trình các Websites cho các Giáo Phận của Giáo Hội Việt Nam, chúng tôi xin bắt đầu cống hiến qúi vị trang Web mới của Giáo Phận Xuân Lộc mà chúng tôi mới hoàn thành, trong đó cũng có đầy đủ lịch sử và sinh hoạt của trên 200 giáo xứ trong Giáo phận, các Dòng Tu, các cơ sở, thống kê nhân sự và các sinh hoạt khác của Giáo Phận. (Chúng tôi còn đang hoán chuyển dạng chữ từ VNI sang Unicode cho Trang Nhà của Giáo Phận Xuân Lộc)

Xin mời qúi vị xem Trang Nhà của -->Giáo Phận Xuân Lộc

* Ðịa Dư

Đức Cha Phaolô Marie Nguyễn Minh Nhật, Giám Mục Xuân Lộc

Khi mới thành lập (1965), Giáo Phận Xuân Lộc bao gồm 3 tỉnh: Long Khánh-Biên Hòa-Phước Tuy. Tòa Giám Mục đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh.

Ngày 01-08-1976, hành chánh được phân phối lại. Toàn giáo phận nằm trong tỉnh mới là Đồng Nai, trừ 3 giáo xứ: An Bình 1, Đông Hoa, Nghĩa Sơn, thuộc tỉnh Sông Bé (Bình Dương).

Năm1979, Thành phố Vũng Tàu thuộc tỉnh Đồng Nai, được tách thành một đơn vị hành chánh biệt lập trực thuộc trung ương, mang tên Đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo. Như thế, giáo phận Xuân lộc gồm: Tỉnh Đồng Nai, - Đặc khu Vũng Tàu Côn Đảo và - một phần huyện Thuân An, tỉnh Sông Bé.

Năm1992, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập gồm:Đặc Khu Vũng Tàu Côn Đảo và một số huyện vùng duyên haỉ của tỉnh Đồng nai.

1.VỊ TRÍ

·
  • Giáo phận Xuân Lộc có hình ngũ giác không đều cạnh
  • · Đông giáp giáo phận Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận).
  • · Đông Bắc giáp giáo phận Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng).
  • · Tây Bắc giáp giáo phận Phú Cường (tỉnh Bình Dương).
  • · Tây Nam giáp giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
  • · Nam giáp với Biển Đông.
Tổng diện tích là 8.414 Km2. Bao gồm trọn vẹn 2 tỉnh: Đồng Nai: 5.886,4 Km2; Bà Riạ Vũng Tàu: 2. 012,65 Km2; và một phần tỉnh Bình Dương: 529,95 Km2.

2. ĐẤT ĐAI VÀ KHÍ HẬU.

a. Đồng Nai: có 23,3% là đất đỏ Bazan (phe-ra-lit). 10% là đất ma-ga-lit. 12,3% là đất pheralit trên phiến sa thạch; phù hợp cho các loại cây công nghiệp và lương thực. Ngoài ra còn có nhiều loại đất khác như: phù sa cổ, đất cát vàng, có độ chịu lực cao, thích hợp cho việc xây dựng các khu công nghiệp.

Nhiều đồi núi nhưng không cao lắm. Cao nhất la núi Chứa Chan (dân địa phương gọi là núi Giá Ray) cao 839m. núi Cam Tiên 441m, núi Bé Bạc 319m, núi Đồng Bác 236m, núi Bửu Long, núi Thùy Vân…Sông ngòi cũng khá nhiều như sông Đồng Nai, sông La Ngà, sông Đồng Tranh, sông Xoài. Sông Đồng Nai dài 460 Km, đoạn chảy qua Đồng Nai dài 290 Km

Khí hậu của Đồng Nai thuộc miền nhiệt đới nóng ẩm đươc chia ra làm hai mùa khá rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến hết tháng 4. Nắng đủ, mưa nhiều, ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lụt. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800-2000 mm.

Đức Cha Toma Nguyễn Văn Trâm

b. Bà Rịa Vũng Tàu: Phần lớn là đất cát: có thể cấy lúa, trồng cây và hoa màu. Có nhiều đồi núi thấp. Nuí Hòn Sụp cao 250m. Núi Lớn cao 249m, núi Vũng Mây 240m, núi Nhỏ (còn gọi là núi Tao Phùng) cao 179m, núi Dung 125m, núi Le 265m, núi Mía 186m, núi Thị Vải 466m, núi Chóp Mao 338m, núi Hồ Linh 164m. Có nhiều đồi cát nhỏ chạy vòng theo bờ biển.

Nhiều rạch như: rạch Bà 7,9 Km, rạch Cây Khế 6 Km, rạch Bến Đinh 5,5 Km, rạch Ông Nhu, rạch Sông Cái… con sông chính là sông Đinh dài 11Km. Ngoài ra còn có các sông khác như: sông Cỏ Chi, sông Ray, sông Tầu Bé, sông Cá, suối Lồ Ô…

Bà Riạ Vũng Tàu có bờ biển trải dài thích hợp cho ngư nghiệp và ngành du lịch

Khí hậu thuộc miền khí hậu gió mùa. Hai mùa chính gió mùa Đông Bắc: từ tháng 11 đến tháng 3, là mùa khô nắng. Mùa gió Tây Nam: từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa mưa. Giữa hai thời kỳ gió mùa này là hai thời kỳ chuyển tiếp: gió yếu và ngoài khơi có sóng nhỏ vào khoảng tháng 4 và tháng 10.

* Giáo phận Xuân Lộc: Qúa trình hình thành

1. Trong bối cảnh Giáo Hội Việt Nam

Sau hơn một thế kỷ (1533-1659), hạt giống Tin Mừng được các nhà truyền giáo Dòng Đaminh Bồ đào Nha và Dòng Tên gieo vải trên quê hương đất Việt, Đức Thánh Cha Alexandrô VII đã công bố Sắc lệnh Super Cathedram Principis đề ngày 9/9/1959 thành lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên là Giáo phận Đàng Ngoài (Bắc Hà) vơí khoảng 80.000 tín hữu và bổ nhiệm Tân Giám mục Francois Pallu làm đại diện tông tòa và Giáo phận Đàng Trong (Nam Hà) vơí khoảng 20.000 giáo dân được trao cho Tân Giám mục Đại diện tông tòa Pierre Lambert de la Motte cai quản.

Hai mươi năm sau (1679), Giáo phận Đàng Ngoài được chia làm hai thành Giáo phận Tây Đàng Ngoài (Hànôị) và Đông Đàng Ngoài ( Hải Phòng). Và mãi gần 2oo năm sau (1844), Tòa Thánh mới chia Giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) giao cho Đức Cha Cuenot Thể đảm trách và Tây Đàng Trong (Sàigòn) được trao cho Đức Cha Miche Mịch cai quản. Lúc bấy giờ Giáo phận Sàigòn gồm Nam Kỳ Lục tỉnh, xứ Cao Miên và các tỉnh phía nam Lào.

Năm 1850, Tòa Thánh thành lập giáo phận mới là Nam Vang, tách ra từ Giáo phận Tây Đàng Trong (Sàigòn), và trao cho Đức Cha Mich Mịch. Năm 1924, khi tên các giáo phận không còn gọi theo miền hay xứ nhưng theo tên hành chính, nơi vị Giám mục có cư sở, thì lúc bấy giờ Giáo phận Tây Đàng Trong mới chính thức đựợc gọi là Giáo phận Sàigòn.

Năm 1954, hiệp định Genève phân chia hai miền Nam-Bắc dựa theo vĩ tuyến 17 và gần 800.000 người công giáo di cư từ Bắc vào Nam. Phần rất doing đã tập họp về vùng đất mầu mỡ của Đồng Nai và Bàrịa-Vũng Tàu tạo nên các xứ đạo toàng tòng công giáo như các khu vực Hố nai, Tam Hiệp, Gia Kiệm, Phương Lâm, Bình Giả, Long Hương, Bàrịa, Vũng Tàu. Số giáo dân tăng từ 8000 đến 160.000 người.

Ngày 24/11/1960 là điểm mốc quan trọng nhất của lịch sử Giáo hội Việt Nam khẳng định sự tiến triển và trưởng thành của Giáo Hội công giáo Việt Nam: Tòa Thánh thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam phân chia thành ba giáo tỉnh: Hànội, Huế và Sài gòn; đồng thời phia chia Giáo phận Sàigòn thành ba: Sàigòn, ĐàLạt và Mỹ Tho.

Và ngày 14/10/1965, Đức Phaolô VI đã thành lập hai giáo phận mới tách ra từ Giáo phận Sàigòn; đó là Phú Cường và Xuân Lộc. Giáo phận Xuân Lộc lúc bấy giờ bao gồm ba tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước Tuy. Toà Giám mục được đặt tại Xuân Lộc.

Nhà thờ Chính Tòa Xuân Lộc

2. Xuân Lộc và các nét sinh hoạt tôn giáo trước khi được thành lập

Trước khi chính thức trở thành một giáo phận, tại địa bàn của Giáo phận Xuân Lộc đã hiện diện nhiều xứ đạo cổ xưa như: Đất Đỏ, Bà Rịa, Vũng Tàu (thuộc tỉnh Bà Riạ Vũng Tàu ngày nay) và sáu giáo xứ chung quanh Biên Hòa như: Biên Hòa, Mỹ hội, Phước Lý, Phước Khánh, Bến Gỗ, Dầu Giây (thuộc tỉnh Đồng Nai ngày nay) với 8.033 giáo hữu.Kể từ khi chính thức trở thành giáo phận, Xuân Lộc có số giáo dân tăng 160.000. Giáo phận Xuân lộc co nguồn gốc lịch sử khá lâu đời và đã trải qua một quá trình hình thành lâu dài hơn trăm năm.

*Vùng đất Đồng Nai

Từ Mô Xoài-Bà Rịa, các thế hệ người Việt di dân với phương tiện chủ yếu là thuyền xuồng ngược dòng Đồng Nai và cả đi bộ dọc theo sông tiến dần vào Đồng Nai. Các điểm định cư sớm nhất của họ là Nhơn Trạch-Long Thành-An Hòa-Bến Gỗ-Bầu Lâm-Cù Lao Phố-Cù Lao Tân Chánh-Cù Lao Ngô-Cù Lao Kinh- Cù lao Tân Triều.

Các vùng ven núi cũng là nơi lưu dân Việt chọn làm nơi ở, bởi các nơi đó có điều kiện khai thác các nguồn lợi lâm sản như săn bắn, khai thác gỗ... Tiến trình nhập cư của lưu dân người Việt vào đất Đồng Nai đã diễn ra liên tục trong suốt gần một thế kỷ. Năm1698 dưới sự bảo trợ của Chúa Nguyễn số người Việt từ miền Trung di dân vào Đồng Nai ngày càng đông. Năm1790, Nguyễn Ánh ra lệnh lập đồn điền, mộ dân khẩn hoang lập ấp và sử dụng binh lính khai phá đất đai, canh tác ở khu vực trú quân. Chính việc mở rộng khai phá bằng nhiều hình thức (đồn điền, dinh điền) đã tạo điều kiện để dân cư phát triển ở vùng Biên Hòa. Đầu thế kỷ XX, các công ty đồn điền cao su Đồng nai được thành lập. Họ đã chiêu mộ công nhân từ các làng quê miền Bắc và miền Trung,khiến vùng đất này cũng ngày càng đông dân.

* Vùng đất Bà Riạ Vũng Tàu là một vịnh biển lớn trông ra Biển Đông.Bà Riạ Vũng Tàu xưa kia là biển, dần dần do biển bồi đắp trở thành những bãi lầy, trải qua bao ngày tháng đã trở thành đất liền.

Thế kỷ XIII, nơi đây là rừng rậm, có rải rác vài bản người Chàm và Khơme sống bằng nghề trồng lúa, săn bắn và đánh cá.

Thế kỷ XV-XVI nơi đây đã trở thành chỗ tránh bão, cung cấp nước ngọt và đồ gỗ tốt cho các đoàn tàu Tây Phương trên đường đi qua Biển Đông.

Thế kỷ XVII, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh những cư dân miền Trung vào Bà Riạ sinh sống và cư dân Miền Bắc đi đường biển vào Vũng Tàu lập nghiệp ngày càng đông.

Đầu thế kỷ XIX, dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiêu Trị, Tự Đức, tất cả các bổn đạo đều gặp khó khăn thử thách của cuộc cấm đạo, giáo hưũ phải lén lút giữ đạo và khó khăn cực nhọc khi đưa dẫn các linh mục thừa sai hoặc bản xứ đi thăm giáo dân và cử hành bí tích.

Ngày 04-11-1847 sau khi vua Thiệu Trị qua đời, con thứ của vua Thiệu Trị là Hồng Nhậm Dục Tông lên ngôi, niên hiệu là Tự Đức. Vua Tự Đức đã ra chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa trên cả nước (đây là Chỉ dụ thứ 8, kể từ khi Minh Mạng ra chỉ dụ đầu tiên 11-1832) và chỉ dụ cuối cùng14-11-1861 của Tự Đức là khốc liệt nhất, vì đặt ra biện pháp cấm đạo rất nặng là thắt cổ và tống giam tất cả các giáo hữu công giáo.

Phước Tuy là địa điểm tập trung gồm bốn ngục giam: Dinh Phước Lễ, Thành Long Điền-Đất Đỏ tại làng Phước Thọ và Thơm tại Long Kiên. Các tín hữu kitô bị tập trung giam giữ từ tháng 9-1861 (Phước Tuy máu lửa, Họ đạo Bà Rịa- xb. 1962).

Ngày 07-01-1862, những người công giáo bị giam tại các ngục thất trên đã bị thiêu sống. ("Quốc triều chính biên" Sử Địa- xbSG 1971).

Theo bản "Phúc trình của Cha Errard", số giáo dân bị thiêu sống trong 4 nhà giam như sau:

Ngục Phước Lễ: giam 300 người, thiêu sống 288 người. Long Kiên: 135 người, chết thiêu 86 người. Long Điền: 140 người, chết thiêu 48. Phước Thọ: 125 người, chết thiêu 22.

Tổng số chết thiêu là 444 người trong 4 nhà giam, đàn ông là 288 và đàn bà trẻ em là 156 người.

* TÒA GIÁM MỤC XUÂN LỘC

Tòa Giám Mục Xuân Lộc

Ngày 14-10-1965, Tòa Thánh đã ban sắc lệnh thành lập Giáo phận Xuân Lộc và bổ nhiệm Đức cha Giuse Lê Văn An làm Giám mục tiên khởi.

Với một giáo phận non trẻ, chưa có Tòa Giám Mục, nên thời gian đầu Đức cha Giuse tạm thời ở tại nhà thờ chánh tòa và từng bước ngài xây dựng cơ sở nhà chung nhằm đáp ứng những sinh hoạt của giáo phận.

Sau gần ba tháng thành lập giáo phận, được công ty cao su Siph sang nhượng cho giáo phận một khu đất để xây dựng Toà Giám Mục, với diện tích 6 hecta nằm trên đường Hùng Vương, cách nhà thờ Chánh Tòa 500 m.

Ngày 13-01-1967, kỷ niệm một năm chấp chánh giáo phận, Đức cha Giuse đã đặt viên đá đầu tiên để khởi công xây dựng Tòa Giám Mục và chủng viện Thánh Phaolô.

a.Khu vực Tòa Giám Mục.

Gồm hai công trình : nhà ở Đức cha và cơ sở quản lý của Tòa Giám Mục. Trung tâm của Tòa Giám Mục là tượng đài Thánh Giuse. Với cấu trúc này như muốn nói lên sự tin tưởng và phó thác của toàn thể giáo phận trong sự bảo trợ, chở che của Thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu và là Đấng bảo trợ của giáo phận.

Tiểu Chủng Viện Xuân Lộc

b. Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô Xuân Lộc

Song song với cơ sở Tòa Giám Mục la khu Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô. Đây là một kiến trúc mang tính biểu tượng. Các dãy nhà được thiết kế theo hình năm ngón tay xoè ra, được nối liền với dãy nhà ba tầng dài 90m làm phòng học và nhà ở. Tất cả kết cấu thành bàn tay, biểu hiện một sức sống tươi trẻ, tràn đầy hy vọng của một giáo phận mới được thành lập. Bàn tay xoè ra là biểu hiện của sự đón nhận và trao ban. Giáo phận luôn nhận lãnh ân sủng của Chúa và không ngừng trao ban lời Chúa và ân sủng của Chúa tới muôn người. Bàn tay xòe ra cũng nói lên tinh thần của chủng viện luôn ân cần đón nhận các ơn gọi trong tình thương của người mẹ, và rồi từ trong mái ấm chủng viện, các con cái lại nối tiếp nhau ra đi để gieo rắc tình thương trên mọi nẻo đường của địa phận.

Giữa lòng bàn tay là hồn bán nguyệt, với tượng Đức Mẹ ở giữa luôn in bóng giữa lòng chủng viện, khi chiều buông hay khi bình minh ló rạng. Đây không đơn thuần là một cảnh quang mà là một thể hiện niềm tin đã được hội nhập văn hóa Á đông.

Nếu “mất mẹ là mất cả bầu trới”, thì nơi này, giữa lòng chủng viện luôn có bóng hình Mẹ soi dẫn, nâng đỡ và luôn đi cùng với các chủng sinh suốt cuộc đời dài sống ơn gọi.

*Hoa trái từ Tiểu Chủng viện PhaoLô

Sau 10 năm khai sinh và phát triển, đã có hơn 40 linh mục xuất thân từ Chủng viện Phaolô (1965-1975). Họ là những người đã sinh trưởng trên mảnh đất Xuân Lộc, nay họ tiếp tục gắn bó với sứ mạng mục tử trên cánh đồng truyền giáo tại quê hương của mình.

Sau năm 1975, tiểu chủng viện không còn những sinh hoạt như thửa ban đầu, nhưng nơi này vẫn là điểm hẹn, là nơi dừng chân cho các chủng sinh sau những ngày tháng lặn lội, vất vả gian nan trong mọi môi trường tông đồ. Họ về nơi này để được sưởi ấm ơn gọi, và tìm sự nâng đỡ, chia sẻ từ các bậc cha anh và anh em cùng chung chí hướng.

Tại chủng viện này, từ hơn 30 năm nay, nhiều đợt tĩnh tâm linh mục cũng được tổ chức hàng năm, nhiều đợt bồi dưỡng chủng sinh, nhiều dịp tĩnh tâm ban hành giáo và các giới, những cuộc họp mừng xuân những dịp đầu năm… Điều này nói lên mái ấm chủng viện không chỉ là nơi đào tạo mà là ngôi nhà chung của giáo phận. Một ngôi nhà mà ai đi xa cũng luôn mong trở về để tìm lại những giây phút an bình hạnh phúc bên mẹ hiền thân yêu.

* Cơ sở II tiểu chủng viện thánh Phaolô

Ban đầu khi thành lập giáo phận, mỗi năm giáo phận tuyển lựa hằng trăm tiểu chủng sinh. Vì chủng viện chính tại Long Khánh chưa xây dựng xong, nên Đức cha Giuse đã quyết định xây dựng cơ sở hai của Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô tại xứ Phước Lâm, hạt Phước Lễ(nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bàrịa-Vũng Tàu)

Từ 1967-1970 cơ sở hai Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô đã bắt đầu đón nhận các tiểu chủng sinh từ lớp sáu vào nhập học để được tập sống đời tu.

Nơi này dù chỉ là những dẫy nhà cấp bốn đơn sơ, nhưng vẫn là những cái nôi chan chứa tình thương và chất chứa bao kỷ niệm êm đẹp cho biết bao tâm hồn. Những kỷ niệm này hồn nhiên, đơn sơ và trong trắng bên mái ấm chủng viện đã in sâu vào tâm khảm của nhiều thế hệ. Có những người đã trở thành linh mục và cũng có nhiều người đã bước chân vào đời trong nhiều môi trường sống khác nhau. Dù là những buớc chân vào đời với kế sinh nhai đầy ưu tư lắng lo hay những buớc chân theo Chúa, tất cả vẫn mang trong mình lòng biết ơn, cảm mến với mái ấm chủng viện đã xây dựng cho họ một nếp sống trưởng thành và đạo đức.

* Nhà hưu dưỡng các linh mục giáo phận

Từ năm 1970, cơ sở hai của Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô được sửa sang lại thành nhà hưu dưỡng các linh mục giáo phận.

Sau năm 1975, Tòa Giám Mục cũng là nơi để các cha nghỉ không làm việc và hưu dưỡng ở. Cho đến năm 1998, Đức Giám mục giáo phận đã chính thức dành một khu vực riêng cho các cha hưu dưỡng.

Tuy nhiên, với lòng yêu mến các vị chủ chăn, nhiều giáo xứ đã xin các ngài ở lại tại xứ cũ để nâng đỡ và chăm sóc trong lúc tuổi già.

* Đất Thánh Mẹ Sầu Bi và Đất Thánh Chúa Chiên Lành.

“Hạt lúa mì gieo vào long đất mới trổ sinh hoa trái”, thì điều phải ghi lòng tạc dạ cho thế hệ con cháu là “uống nuớc nhớ nguồn”. Qủa thực, ngay đầu khuôn viên Tòa Giám Mục là đất thánh Mẹ Sầu Bi, nơi an táng các Đức Giám mục giáo phận: Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn (17-06-1974) và Đức Cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng (22-02-1988) và một số linh mục.

Tại khu vực nghiã trang giaó xứ Thái Hòa, hạt Hòa Thanh, Giáo phận có đất thánh Chúa Chiên Lành, nơi đây an táng các linh mục giáo phận. Các ngài là những nguời tông đồ đã sống và chết trên mảnh đất này, nay thân xác cũng được yên nghỉ nơi chính mảnh đất mà các ngài đã tận hiến hy sinh, để đợi chờ ngày phục sinh.

* Những kỷ niệm ghi dấu thời gian tại Tòa Giám mục Xuân Lộc

Thời gian là yếu tố làm nên những kỷ niệm vui buồn. Thời gian càng dài kỷ niệm càng chồng chất. Và kỷ niệm cũng là yếu tố để ghi dấu thời gian cho sự trưởng thành và phát triển.

Vâng, chính nơi đây đã diễn ra biết bao những biến cố vui buồn của giáo phận.

+ Nhậm chức của Đức Giám mục tiên khởi.

Ngày 13 tháng 01 năm 1966, Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn về nhận giáo phận tại nhà thờ Chính Tòa Xuân Lộc. Lúc bấy giờ chưa có cơ sở vật chất nào, chưa có tòa giám mục, Ngài phải ở tạm tại một dãy nhà nhỏ cạnh nhà xứ Chính Tòa.

Lễ nhận chức do Đức Khâm Sứ Angelo Palmas chủ sự, có nhiều Đức Giám mục và đặc biệt có hầu hết các linh mục trong số 157 linh mục trong giáo phận lúc bấy giờ.

+ Khánh thành Tòa Giám Mục và Tiểu Chủng Viện Phaolô.

Ngày 19 tháng 03 năm 1970 khánh thành Tòa Giám Mục Xuân Lộc và Tiểu Chủng Viện Thánh Phaolô. Đây là ngày vui mừng của toàn thể giáo phận. Trong ngày vui này cũng có sự tham dự của Đức khâm Sứ Angelo Palmas, một số Đức Giám mục và nhiều qúi khách.

+ Lễ An táng Đức cha Giuse Lê Văn Ấn

Sau tám năm tận tụy với giáo phận mới Đức cha Giuse đã lâm trọng bệnh và vĩnh viễn ra đi vào hồi 2 giờ 45 phút ngày 17tháng 06 năm 1974 tại bệnh viện Cộng Hòa, Sài Gòn. Hưởng dương 58 tuổi, để lại một niềm thương tiếc ngỡ ngàng cho toàn thể giáo phận. Ngài đã được chôn cất ngay trên phần đất mà cuộc đời mục tử Ngài đã gắn bó xây dựng cho tới hơi thở cuối cùng.

+ Cuộc thăm viếng của Đức Hòng Y Angelo Rossi

Nhân dịp sang thăm Giáo Hội Việt Nam, và tấn phong cho các giám mục Việt Nam, Đức Hồng Y Angelo Rossi, Bộ Trưỏng Thánh Bộ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc, đã được Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận( lúc bấy giờ là Giám Mục Giáo Phận Nha Trang) hướng dẫn đến thăm Giáo Phận Xuân Lộc vào ngày 09 tháng 08 năm 1974.

+ Nhậm chức cuả Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng

Ngày 04 tháng 09 năm 1974, toàn thể giáo phận hân hoan vui mừng tham dự thánh lễ nhận chức Giám Mục Chánh Tòa Xuân Lộc với sự hiện diện của Khâm Sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre, và một số đông Giám mục Viêt Nam. Đức cha Đaminh đã tiếp nối công việc dang dở của đức cố Giám mục Giuse được 14 năm.

+ Lễ Tấn phong Giám mục cho Đức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật.

Ngày 16 tháng 07 năm 1975, được quyền của Tòa Thánh, Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng đã truyền chức Giám mục cho Đức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật tại nhà nguyện Tòa Giám Mục trước sự chứng kiến của một số linh mục đại diện và các đại chủng sinh trong giaó phận.

+ Bế mạc Năm Thánh 1975.

Sự qui tụ của các tín hữu trên khắp nẻo đường địa phận nhân dịp lễ bế mạc Năm Thánh, đã nói lên sự trưởng thành của giáo phận. Hàng ngàn người đã nối đuôi nhau tiến về giáo phận để tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho tinh thần Năm Thánh luôn hâm nóng tinh thần mọi tín hữu của giáo phận.

+ Lễ An táng Đức cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng

Ngày 22 tháng 02 năm 1988 Đức cha Đaminh Nguễn Văn Lãng đã qua đời đột ngột taị bệnh viện Hố Nai, thọ 67 tuổi. Ngài đã được chôn cất bên cạnh Đức cha Giuse để tiếp tục bầu cử cho giáo phận mà ngài đã dìu dắt trong những ngày tháng đầy khó khăn và thử thách.

+ Kỷ niệm 25 năm thành lập giáo phận

Trong suốt năm 1990, tại Tiểu Chủng viện Thánh Phaolô đã có những cuộc triển lãm về sự “hình thành và phát triển giáo phận” nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập giáo phận. Kể từ ngày Đức cha cắt băng khánh thành (14-10-1989) cho đến hết năm 1990 đã có tới hơn 40.000 lượt người đến thăm viếng.

+ Lễ Phong chức Giám mục Phụ tá Tôma Nguyễn Văn Trâm

Ngày 07 tháng 05 năm 1992 tại khuôn viên chủng viện, Đức cha chánh Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật đã cử hành nghi lễ tấn phong giám mục cho Đức cha Phụ tá Tôma Nguyễn Văn Trâm, có sự hiện diện của 20 giám mục, khoảng 400 linh mục, hàng ngàn tu sĩ và hàng chục ngàn giáo dân khắp nơi tuôn về tham dự.

+ Năm Thánh 2000

Mọi sinh hoạt Năm Thánh 2000 được cử hành tại nhà thờ Chánh Tòa, nhưng các đoàn hành hương đều đã đến Tòa Giám Mục để thăm viếng và dừng chân. Sự yêu mến của đoàn dân Chúa trong giáo phận đã chứng tỏ nơi đây mãi mãi là con tim của giáo phận.

Cùng với Bãi Dâu và 15 nhà thờ hành hương của các giáo hạt, suốt Năm Thánh 2000, những nơi hành hương này đã đón nhận khoảng hơn 2.000.000 lượt người đến cầu nguyện và kính viếng để lãnh ơn toàn xá.

* TRUNG TÂM HÀNH HƯƠNG ĐỨC MẸ BẢI DÂU

Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu – Vũng Tàu, một trong những điểm tham quan của khách du lịch trong cũng như ngoài nước mỗi khi có dịp dừng chân ghé thăm thành phố du lịch Vũng Tàu, có chiều dài lịch sử hơn 70 năm qua. Cùng với những bước thăng trầm đổi thay của đất nuớc, Đền Thánh đã trải qua biết bao biến chuyển để hình thành nên một nơi tham quan thắng cảnh thiên nhiên, nghỉ ngơi an dưỡng,và cầu nguyện của mọi người hiện nay.

VÀI NÉT LỊCH SỬ

Trước khi có tên gọi là Bãi Dâu, vùng đất này có tên gọi là Vũng Mây. Ngay từ nhũng năm tháng đầu tiên của thế kỷ XX, đã có một số bà con thưa thớt quanh vùng này, và chủ yếu sinh sống bằng nghề chài lưới.

Năm 1926, gia đình ông bà Nguyễn Hồng Ân, một gia đình đạo hạnh và có lòng yêu mến Chúa cách đặc biệt, đã xây dựng một nhà nguyện nhỏ tại đây. Đến ngày 01-12-1927, ông bà đã dâng đất này cho Hội Thừa Sai Paris.

Ngày 22 tháng 11 năm 1956, Hội Thừa Sai lại chuyển vùng đất này cho giáo phận Sài Gòn. Đến cuối năm 1965, khi giáo phận Sài Gòn được tách làm ba, vùng đất Bãi Dâu đã chính thức thuộc về Giáo phận Xuân Lộc.

Ngày 15 tháng 05 năm 1969, Đức Cố Giám mục Giuse Lê Văn Ấn đã ra quyết định thành lập khu hành hương. Đến năm 1972, Đức cha Giuse lại đặt nơi đây làm “Trung tâm hành hương kính Đức Maria” với tước hiệu : Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Khi nói về trung tâm hành hương này, mọi người nghĩ ngay đến hai công trình kiến trúc có tầm vóc qui mô : Tượng đài Đức Mẹ và Đền Thánh Đức Mẹ.

TƯỢNG ĐÀI ĐỨC MẸ BÃI DÂU

Vị Trí :

Tượng đài và khu vực Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, tọa lạc tại số 176/26 đường Trần Phú, Bãi Dâu, phường 5, Tp. Vũng Tàu, thoai thoải bên sườn núi lớn,

Sự thành lập :

Trung tâm Hành Hương Đức Mẹ Bãi Dâu

Trước khi thành lập giáo phận(24-10-1965) đã có một tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cao 7m, do cha Nguyễn Minh Trí xây dựng trên sườn núi lớn, Bãi Dâu.

Ngày 12 tháng 07 năm 1988, Đức Giám mục Giáo phận Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật đã quyết định trùng tu Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Bãi Dâu, và trong thư luân lưu gủi cho giáo phận ngày 18 tháng 01 năm 1991, Đức cha có nói đến vấn đề này. Nhưng mãi đến ngày 01 tháng 01 năm 1992, mới khởi sự đặt viên đá đầu tiên xây dựng tượng đài.

Sau ba năm miệt mài thực hiện (1992-1994), tượng đài Đức Maria Mẹ Thiên Chúa được hoàn thành và Đức cha Phaolô Maria dâng lễ tạ ơn khánh thành tượng đài ngày 31 tháng 12 năm 1994.

Có thể nói, tượng đài là một công trình có giá trị nghệ thuật rất cao, do nghệ nhân Xuân Thu thực hiện. Tượng cao 32m kể cả giá đỡ. Nếu tính riêng từng phần thì tượng Đức Mẹ cao 25m (với ý nghĩa kỷ niệm 25 năm, thành lập giáo phận) tượng Chúa Con cao 4,7m. Toàn thân tượng nặng 500 tấn. Đặt trên độ cao cách mặt biển 60m. Trong lòng tượng, có một phòng rộng phía dưới gọi là NHÀ AN NGHỈ, nơi đặt tro cốt của những người đã qua đời muốn được nằm bình yên trong lòng Đức Mẹ đợi ngày phục sinh.

Tượng đài Đức Mẹ bồng con dâng lên Thiên Chúa như muốn nói lên hình ảnh Đức Maria dâng lên Thiên Chúa Người Con Chí Ai. Mặt khác, khi đưa con lên cao, cũng chính Mẹ đang giới thiệu Con Thiên Chuá, Đấng cứu độ duy nhấr cho nhân loại.

ĐỀN THÁNH ĐỨC MẸ BÃI DÂU

Vị Trí :

Đền Thánh Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa tọa lạc trên sườn núi lớn, phiá bên trái tượng đài đức Mẹ, với độ cao 28m so với mặt biển.

Sự thành lập :

Năm 1926, một nhà nguyện nhỏ đã được xây dựng nơi đây do ông bà Nguyễn Hồng Ân, một gia đình Kitô giáo sinh sống tại vùng đất này.

Sau qúa trình dài thuộc về Hội Thừa Sai Paris, rồi đến giáo phận Sài Gòn và Xuân Lộc, vào ngày lễ kính Thánh Giuse quan thầy giáo phận 19 tháng 03 năm 1994, Đức cha Chính Giáo phận Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, cùng vời Đức Giám mục Phụ tá Tôma Nguyễn Văn Trâm và hầu hết các cha trong giaó phận, đã dâng thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng lại ngôi thánh đường hiện nay.

Ngày 22 tháng 07 năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 20 năm giám mục của Đức cha Chánh Phaolô Maria (16-7), nhà thờ và bàn thờ đã được xức dầu thánh hiến để tôn vinh Thiên Chúa và dâng kính ĐỨC MARIA MẸ THIIÊN CHÚA.

Đền thánh có chiều dài 49m, rộng 38m, với hình dáng của một con thuyền buồm đang căng gió, mà ngọn tháp cao 27,5m như là một cột buồm nhẹ nhàng nhưng vững chắc để hứng gió đưa con thuyền lướt sóng về bến bình an. Đó cũng là hình ảnh của Hội Thánh, mà Đức Maria là người tín nữ đầu tiên và là Mẹ Thiên Chúa, mẹ chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho nhân loại.

NHỮNG CÔNG TRÌNH KHÁC CỦA ĐỀN THÁNH ĐỨC MẸ BÃI DÂU

Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu được xây dựng với mục đích cổ võ lòng tôn sùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa-Mẹ nhân loại. Tất cả những ai có lòng sùng kính Đức Mẹ, trong hay ngoài giáo phận, đều có thể đến đây tham quan, cầu nguyện. Ngoài tượng Đức Mẹ và nhà thờ, khu vục tượng đài tại Bãi Dâu còn có các công trình khác như :

Nhà Truyền Thống Dâng Kính Các Thánh Tử Đạo:

Tại đây có căn nhà nhỏ được thiết kế theo hình dáng của ngôi nhà nguyện lúc ban đầu. Dưới chân núi phiá bên phải của tượng Đài Đức Mẹ. Đức Giám mục Giáo phận đã cho phép được đặt Mình Thánh Chúa để chầu suốt ngày vào ngày 31 tháng 12 năm 1994. Gọi là Nhà Truyền Thống dâng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vì dưới chân bàn thờ có lưu giữ hài cốt của 50 vị Thánh Tử Đạo.

Cuối nhà nguyện có tượng các thánh Tử Đạo Việt Nam nói lên đặc tính lữ hành của Giáo Hội : mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội có Chúa Kitô la Đầu dẫn dắt đang vượt biển tiến về nhà cha.

Bên cạnh nhà nguyện kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam là con đường lên núi với 14 chặng đàng Thánh Giá hai bên lối đi. Những chặng đường Thánh giá này đã được dựng trên sườn núi từ năm 1972 cho khách hành hương khi có dịp về Đền Thánh Đức Mẹ cùng nhau cầu nguyện.

Năm 1992 khi đặt vị trí cho tượng đài Đức Mẹ hiện nay, những chặng cuối đã được đưa cao lên và thêm vào chặng thứ 15 nói lên niềm tin Kitô giáo : Qua đau khổ – tiến vào vinh quang

Đường Mân Côi

Từ những năm 1972, khách hành hương thường đi lần hạt mân côi trên sườn núi, phiá trái tượng đài. Với năm tháng đã tạo nên một con đường mòn thuận lợi cho các nhóm tĩnh huấn tìm sự yên tĩnh tự nhiên trong những vưòn cây hai bên lối mòn tiến lên tượng Đài Đức Mẹ. Ngày nay nơi đây đã mặc nhiên trở thành con đường đến với Mẹ, con đường này được tô điểm bởi những hy sinh, những cánh hoa hồng dâng kính Mẹ, và được sửa sang lại đễ dễ dàng lên đến chân tượng đài với ngắm thự mùa Mừng.

Nhà Hành Hương

Năm 1972 Đức cha Cố Giuse chọn nơi đây trở thành khu hành hương, và dãy nhà nghỉ đã được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu cho khách hành hương xa gần đến kính viếng Đức Mẹ. Bên cạnh đó, Ngài cũng muốn đây là nơi các linh mục, tu sĩ và anh chị em tông đồ giáo dân đến để bồi dưỡng, cầu nguyện và nghỉ ngơi. Sau nhiều năm tháng, dãy nhà này đã thực sự trở thành ngôi nhà chung bồi dưỡng về đời sống đức tin và tìm sự thư giãn nghỉ ngơi sau những vất vả trong bổ phận hằng ngày.

(Tài liệu của Tòa Giám Mục Xuân Lộc)