Cũng theo các nhà hiệu đính, bản thảo tiểu luận này dựa vào một loạt 4 bài diễn thuyết của Edith Stein tại Zurich trong tháng Giêng năm 1932 dành cho Tổ chức Phụ nữ Công Giáo.

Một cô gái trẻ biết biện phân gần đây đã hỏi tôi, "Tại sao vào thời điểm này, nhiều điều được nói, kể cả bởi đàn ông, về bản chất và ơn gọi của phụ nữ đến như vậy?" Điều đáng ngạc nhiên là chủ đề này liên tục được các bên đưa ra và cách khác nhau nó được đề cập tới. Các nhà trí thức hàng đầu đang vẽ nên một lý tưởng sáng ngời về bản chất nữ giới, và họ hy vọng rằng việc thể hiện lý tưởng này sẽ là phương pháp chữa trị cho tất cả các bệnh tật và nhu cầu đương thời. Đồng thời, trong văn học của thời nay và của những thập niên vừa qua, chúng ta thấy người phụ nữ được trình bày đi trình bầy lại như một con quỷ của vực thẳm. Cả hai bên đều đặt lên chúng ta một trách nhiệm lớn lao. Chúng ta buộc phải coi tầm quan trọng của người phụ nữ và sự hiện hữu của họ như một vấn đề. Chúng ta không thể trốn tránh câu hỏi chúng ta là gì và chúng ta nên là gì. Và không chỉ có trí suy tư mới làm chúng ta phải đối diện với câu hỏi này; chính cuộc sống đã làm cho sự hiện hữu của chúng ta thành vấn đề.

Một sự biến hóa được một số người cảm nhận trước, được một số ít mong muốn và cố gắng giải quyết, và được phần lớn người ta lấy làm ngạc nhiên hoàn toàn, đã kéo phụ nữ ra khỏi lãnh vực khép kín của gia đình và ra khỏi một lối sống vẫn được coi là đương nhiên, và đột nhiên đẩy họ vào những tình huống đa dạng xa lạ nhất và những vấn đề không lường trước được. Chúng ta đã bị ném xuống sông, buộc chúng ta phải bơi. Nhưng khi sức lực của chúng ta có nguy cơ cạn kiệt, chúng ta cố gắng để ít nhất tới được bến bờ an toàn. Chúng ta muốn suy nghĩ thấu suốt về câu hỏi liệu chúng ta có nên tiếp tục hay không; và nếu chúng ta nên tiếp tục, thì chúng ta nên làm gì để chúng ta không bị chết đuối. Chúng ta muốn xem xét kỹ lưỡng hướng của dòng sông bằng cách xem xét, hướng này so với hướng nọ, sức mạnh của dòng sông và các năng lực cùng khả năng chuyển động của chúng ta.

Bây giờ điều khả thi là xem xét những điều sau đây. Chúng ta cố gắng đạt được cái nhìn sâu sắc về những xó góc sâu thẳm nhất trong con người chúng ta; chúng ta thấy rằng nó không phải là một hữu thể đầy đủ mà là một hữu thể đang ở trạng thái trở thành, và chúng ta đang cố gắng để có được sự rõ ràng liên quan đến diễn trình này. Hữu thể của chúng ta, sự trở thành của chúng ta, không mãi bị giam hãm trong các giới hạn của chính nó; mà đúng hơn, khi tự mở rộng, nó tự hoàn thành chính nó. Tuy nhiên, trọn hữu thể và sự trở thành cũng như hành động của chúng ta trong thời gian đều được xếp đặt từ thuở đời đời, có một ý nghĩa đời đời, và chỉ trở nên rõ ràng đối với chúng ta nếu và bao lâu chúng ta đặt nó dưới ánh sáng vĩnh cửu.



I. LINH HỒN PHỤ NỮ

Chúng ta có thể nói một cách khái quát về linh hồn của người phụ nữ được không? Linh hồn mỗi con người rất độc đáo, không có linh hồn nào giống linh hồn nào. Làm thế nào chúng ta có thể nói về linh hồn nói chung? Nhưng việc suy lý liên quan đến linh hồn thường xem xét linh hồn của con người nói chung, không phải linh hồn này hay linh hồn kia. Nó thiết lập các đặc điểm và quy luật phổ quát; và, ngay cả khi, như trong Tâm lý học dị biệt, nó nói tới các khác biệt, nó cũng mô tả những kiểu loại tổng quát hơn là những kiểu loại cá thể: linh hồn của trẻ em, của thanh thiếu niên, của người lớn, linh hồn của người lao động, nghệ sĩ, vân vân.; với linh hồn của người nam và người nữ cũng thế. Và đối với những người có suy nghĩ về tiềm năng của khoa học, sự hiểu biết về cá nhân dường như trở nên có vấn đề hơn bao giờ hết so với sự hiểu biết về các loài giống nói chung.

Nhưng ngay cả khi chúng ta có ý định coi thường các cá tính, thì liệu có một kiểu phụ nữ hay không? Có điểm chung nào cần phát hiện trong nguyên mẫu phụ nữ như được thấy trong cuốn Glocke [Chuông] của Schiller hay cuốn Frauenliebe und -leben [Tình yêu và đời sống củ người đàn bà] của Chamisso, và trong những hình ảnh mà Zola, Strindberg và Wedekind đã vẽ cho chúng ta không? Liệu sự đa dạng hoàn toàn mà chúng ta gặp trong cuộc sống có thể được giản lược thành một thể thống nhất đơn nhất, và thể thống nhất này có thể được phân biệt với linh hồn của con người hay không? Đây không phải là nơi cung cấp bằng chứng triết học để chứng minh rằng có một điều gì đó trong lãnh vực hiện hữu mà chúng ta có thể gọi là giống loài [species], linh hồn của phụ nữ và có một chức năng tri thức đặc biệt có khả năng tri nhận được nó. Do đó, có lẽ sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta không bắt đầu bằng cách phác thảo hình ảnh chung về giống loài này mà phác thảo một loạt các loại hình [types] càng khác nhau càng tốt, và sau đó cố gắng khám phá xem liệu chúng ta có thể tìm thấy một giống loài chung nơi chúng hay không. Vì nhờ thi ca mà linh hồn được mô tả thỏa đáng nhất, nên bây giờ tôi sẽ phân tích các loại hình lấy từ các tác phẩm văn học mà tôi vẫn gán cho một giá trị biểu tượng đặc thù.

Thí dụ, hãy lấy nhân vật “Ingunn Steinfinnstochter” từ cuốn Olaf Audunssohn của Sigrid Undset. Cuốn tiểu thuyết này dẫn chúng ta vào một quá khứ xa xôi và đến một đất nước xa xôi, một nền văn minh hoàn toàn xa lạ. Ingunn lớn lên tự do và không bị trói buộc trong một trang trại Bắc Âu thời Trung cổ. Nàng đã được hứa hôn từ khi còn nhỏ với Olaf, người thực tế là anh nuôi của nàng. Nàng đi lang thang tự do với chàng và đồng bọn của chàng; Nàng không có hoạt động nào bị quy định cả, không có kỷ luật bên ngoài hoặc bên trong cho ý chí. Những đứa trẻ trông chờ sự nâng đỡ lẫn nhau vì chúng không có sự nâng đỡ nào khác. Các thèm khát bừng dậy trong chúng khi chúng lên mười lăm, mười sáu tuổi; chúng sa cơn cám dỗ ngay từ cơ hội đầu tiên. Từ thời điểm đó, toàn bộ cuộc sống của Ingunn là một niềm thèm khát vô độ. Nàng và Olaf tự coi như cột chặt vào nhau một cách không thể tháo gỡ theo luật giáo hội. Nhưng gia đình phản đối cuộc hôn nhân, và hai trẻ phải ly thân trong nhiều năm. Cuộc sống của chàng trai trẻ đầy ắp những cuộc chiến đấu, những trải nghiệm và khám khá khác nhau ở những vùng đất xa xôi. Nàng tìm kiếm sự đền bù cho hạnh phúc đã mất trong những giấc mơ; đôi khi, cơn cuồng loạn buộc nàng phải tạm dừng mọi hoạt động bên ngoài. Nàng chiều theo một kẻ quyến rũ mặc dù nàng chỉ khao khát một mình Olaf. Tuy nhiên, việc nhận ra sự sa ngã của nàng đã bừng nở thành một thực tại tâm linh mờ mờ ảm ảm này giống như một ánh sáng siêu nhiên; và nàng vực bản thân mình dậy với một sức mạnh đáng kinh ngạc và cắt đứt mối liên hệ tội lỗi. Olaf, lúc trở về nhà, không muốn phá vỡ mối dây thiêng liêng gắn bó họ chỉ vì tội lỗi mà nàng đã thú nhận. Chàng đưa nàng trong tư cách vợ về trang trại của mình và nuôi đứa con trai ngoài giá thú của nàng làm người thừa kế của mình. Nhưng hạnh phúc mong muốn vẫn chưa đến. Ingunn bị trầm cảm khi nhận thức được tội lỗi của mình, và nàng sinh ra hết đứa con này đến đứa con khác, tất cả đều chết. Nhưng càng coi mình là nguồn bất hạnh cho chồng, nàng càng bám lấy chàng; và nàng càng kịch liệt khao khát có thêm bằng chứng chàng yêu nàng. Và mặc dù nàng lãng phí cuộc sống này, tiêu hao cả sức lực của chàng nữa, nhưng Olaf vẫn luôn nhường nhịn nàng. Trong nhiều năm, nàng chịu đựng sức khỏe yếu của mình một cách kiên cường; nàng im lặng chấp nhận nó như một sự đền tội. Olaf ngay lập tức nhận ra rằng linh hồn của Ingunn sở hữu một điều gì đó khác với sự phụ thuộc ủ rũ như một con vật. Chàng nhận ra rằng nó sở hữu một tia lửa thần linh chỉ thiếu sự hỗ trợ và một quan niệm về một thế giới cao hơn; thế giới này chưa đạt được sự rõ ràng đầy đủ để có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của nàng. Quá theo nghĩa đen, chàng đã sống đúng lời lẽ của Thánh Tông đồ: “Người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình” (Êph 5:28). Và vì điều này, hai cuộc đời đã bị hủy hoại.

Như trong các tác phẩm khác của Sigrid Undset, hai thế giới, hay đúng hơn hai thế giới tiền sử, đứng đối lập nhau: thế giới u ám, theo bản năng của hỗn mang nguyên thủy và thế giới của thần trí Thiên Chúa bay lượn trên sáng thế. Linh hồn của Ingunn, đứa con của thiên nhiên, giống như mảnh đất hoang sơ chưa cày xới. Trong đó có những hạt giống mạnh mẽ đầy năng lực nẩy mầm, và sự sống trong chúng được khuấy động thành những chuyển động rung rinh nhờ tia sáng từ phía bên kia các đám mây. Nhưng điều cần thiết là đất thô phải được cấy cày để ánh sáng xuyên thấu tới các hạt giống.

Nora của Ibsen không phải là đứa con của thiên nhiên; đúng hơn, nàng đã trưởng thành hơn trong khuôn khổ văn hóa hiện đại. Tâm trí nàng tỉnh táo dù mới chỉ được đào tạo rất ít về phương pháp cũng như ý chí của nàng vậy. Nàng là con búp bê yêu quí của cha nàng, và bây giờ nàng là con búp bê yêu quí của chồng nàng cũng như những đứa con của nàng là búp bê của nàng. Với một phê phán sắc bén, nàng tự nói điều này ra khi đôi mắt của nàng sáng ra. Đứa con được chiều chuộng phải đối đầu với những quyết định mà nàng chưa hề được chuẩn bị. Chồng nàng bị bệnh nặng và thiếu phương tiện cho chuyến đi có thể cứu chàng. Nàng không thể nhờ cha mình giúp đỡ vì ngài cũng bị bệnh. Vì vậy, cô tự mình ký nhận một lệnh phiếu [note] có tên chàng như người cùng ký. Lương tâm nàng không bối rối vì điều này - thực ra, nàng còn tự hào về hành động mà nhờ đó, chồng nàng đã bình phục. Nàng giấu cả hành động của mình với vị luật sư hay lưu ý, vì biết rõ ông này sẽ không chế tài hành động đó. Nhưng khi chủ nợ bị rơi vào thế cùng cực bởi nhu cầu riêng của họ và đe dọa sẽ phơi bày, thì không phải vì sợ bị chồng chỉ trích mà nàng đã phải tuyệt vọng quyết định bỏ trốn. Nàng vừa lo sợ vừa hy vọng rằng giờ đây “phép lạ” sẽ diễn ra - chồng nàng sẽ lãnh lấy tội lỗi của nàng vì tình yêu lớn lao của chàng. Nhưng câu chuyện lại xảy ra hoàn toàn khác. Robert Helmer chỉ biết lên án vợ mình; chàng cho rằng nàng không còn xứng đáng để nuôi nấng con cái chàng. Nora nhận ra nàng và chàng, vì điều họ đang vỡ mộng trong giây phút này, vì sự trống rỗng của cuộc đời họ với nhau, không còn xứng đáng với danh hiệu hôn nhân. Và khi nguy cơ tai tiếng xã hội đã tan đi, khi chàng nhân từ muốn tha thứ mọi điều và tái lập cuộc sống của họ một lần nữa, nàng không thể chấp nhận sự tha thứ của chàng. Nàng biết rằng trước khi có thể cố gắng trở lại làm vợ và làm mẹ, nàng phải trở thành một con người cái đã. Chắc chắn, Robert Helmer cũng sẽ phải phát triển từ nhân vật xã hội thành một con người để cuộc sống chung của họ có thể trở thành một cuộc hôn nhân.

Trong Iphigenie của Goethe, một sắc lệnh kỳ lạ đã bứng Iphigenie thuở còn trẻ khỏi vòng gia đình thân yêu của nàng và dẫn nàng đến với một dân tộc man rợ xa lạ. Bàn tay của các vị thần đã giải thoát cô khỏi cái chết nào đó để cô phục vụ cõi thánh thiêng trong cảnh yên tĩnh của một ngôi đền. Nữ tư tế bí ẩn được tôn vinh như một vị thánh. Nhưng nàng không hạnh phúc ở đây. Nàng luôn khao khát được trở về nhà mình. Nàng kiên quyết từ chối sự tán tỉnh của nhà vua để không tự cắt đứt khỏi cuộc trở về này. Đất nước đã có một phong tục mà sức mạnh của nó đã chính thức bị hủy bỏ bởi các nỗ lực của nàng; bây giờ, theo phong tục xưa này, nàng phải hy sinh hai người xa lạ vừa được tìm thấy trên bờ biển như một trừng phạt. Họ là người Hy Lạp, một trong số họ là anh trai của nàng. Mong muốn của nàng được nhìn thấy một trong những người thân của mình một lần nữa đã được nên trọn. Nhưng anh ta bị ô nhục vì tội giết mẹ, sầu khổ vì hối hận đến mức phát điên. Anh ta bị kết tội chết dưới tay nàng. Lời nguyền rủa xưa của nhà nàng, mà cho đến nay dường như nàng đã thoát khỏi, đang đe dọa sẽ được ứng nghiệm cả cho nàng nữa. Đứng trước sự lựa chọn nên cứu anh trai, bạn của anh ấy và bản thân mình bằng dối trá và lừa đảo hay để mặc tất cả bị hủy hoại, trước tiên nàng tin rằng mình phải chọn "điều ít ác hơn". Nhưng linh hồn trong trắng của nàng không thể chịu đựng được sự không trung thực và phá vỡ lòng tín thác; nàng tự bảo vệ mình chống lại những điều này giống như bản nhiên lành mạnh chống lại mầm mống của bệnh tật chết người. Tín thác vào tính chân thực của các vị thần và tính cao quý của nhà vua, nàng tiết lộ kế hoạch trốn chạy với nhà vua và nhận được phần thưởng là mạng sống của những người đang gặp nguy hiểm và việc nàng được trở về quê hương. Anh trai của nàng đã khỏi bệnh nhờ lời cầu nguyện của nàng. Giờ đây, nàng đem niềm vui và sự hòa giải với các vị thần trở lại ngôi nhà quý tộc cổ xưa.

Trước khi chúng ta tiến hành việc tìm kiếm một giống loài chung ở cả ba loại hình phụ nữ khác nhau, điều có thể hữu ích là thảo luận ngắn gọn về mối liên hệ của những loại hình này với thực tại. Ở đây, há chúng ta đang không bàn tới các nhân vật hư cấu thuần túy của trí tưởng tượng thi ca đó sao? Vậy thì với những gì đúng, chúng ta có thể sử dụng chúng để có được cái nhìn sâu sắc về sự hiện hữu tâm linh [psychic] thực sự hay không? Để có được giải đáp khó khăn này, trước hết chúng ta sẽ cố gắng làm rõ những gì mà tinh thần thi ca đã muốn chuyển tải trong mỗi loại hình này.

Ít ai quan niệm công trình của Sigrid Undset là “l’art pour l’art” [nghệ thuật vị nghệ thuật]. Tính sáng tạo của bà là sự thú nhận liều lĩnh. Thật vậy, người ta có ấn tượng rằng bà buộc phải phát biểu điều áp đặt lên bà như một thực tại tàn khốc. Và tôi tin rằng bất cứ ai nhìn vào cuộc sống một cách chân thành và tỉnh táo như bà sẽ không thể phủ nhận rằng những loại hình bà trình bầy là có thật, dù chúng được chọn lựa với một thiên kiến nào đó. Rõ ràng là có một phương pháp trong tính một chiều này: bà muốn nhấn mạnh bản năng động vật để bộc lộ rõ hơn những điểm bất cập của chủ nghĩa duy tâm dối trá hoặc chủ nghĩa duy trí [intellectualism] cường điệu trong việc đối đầu với thực tại trần thế.

Nhân vật Nora được tạo ra bởi một người đàn ông muốn hoàn toàn tiếp nhận quan điểm của phụ nữ, một người đàn ông đã biến chính nghĩa của phụ nữ và phong trào duy nữ thành của riêng mình. Người nữ anh thư của ông được chọn theo quan điểm này - nhưng nàng được chọn và mô tả chính bằng sự phân tích sắc sảo nhất; nàng không được phát minh một cách tùy tiện cũng như không được xây dựng một cách duy lý. Sức mạnh và hậu quả của suy nghĩ và hành động nơi nàng có thể gây ngạc nhiên tương phản với những gì đã xảy ra trước đó; nàng có thể khác thường, nhưng hành động của nàng không phải là bất cái nhiên hoặc hoàn toàn bất khả.

Những nét mặt cổ điển, vẻ hùng vĩ đơn giản và sự giản dị được đề cao của nhân vật nữ cao quý nhất của Goethe thoạt nhìn gần như hết sức xa rời thực tế đối với con người hiện đại. Và chủ nghĩa duy tâm chắc chắn đang được xem xét ở đây; nhưng một lần nữa, đây không phải là việc xây dựng của tưởng tượng mà đúng hơn, là một hình ảnh lý tưởng hóa được hình dung, trải nghiệm và cảm thông từ chính cuộc sống. Từ những tầng sâu nội tâm của mình và thoát khỏi mọi quan điểm thiên lệch, nhà nghệ sĩ vĩ đại đã trình bày dưới dạng gần như điêu khắc một tầm nhìn bao trùm cả “reine Menschlichkeit” [nhân tính thuần khiết] lẫn “Ewig-Weibliches” [nữ tính muôn thuở] (1). Và chúng ta bị thu hút như chỉ có sự thuần khiết hoàn toàn và chân lý trường cửu mới có thể thu hút chúng ta như vậy.



Rất nhiều điều phải nói về "thực tại" của những loại hình này. Ba người phụ nữ này có điểm chung nào không? Họ xuất thân từ các thế giới khác nhau trong chính các trước tác; ngoài ra, họ cũng là sự sáng tạo của các nhà văn rất khác nhau. Không có kỷ luật truyền thống nào đã lên khuôn linh hồn của Ingunn, một đứa con của thiên nhiên; Nora, con búp bê của Ngôi nhà búp bê, bị kìm hãm bởi các quy ước xã hội giả tạo, tuy nhiên vẫn khẳng định được bản năng lành mạnh của nàng để vứt bỏ các gông cùm này nhằm nắm lấy mạng sống của mình trong tay và tự do định hình lại nó. Iphigenie, nữ tư tế trong ngôi đền thánh thiêng, đã vượt quá thiên nhiên qua sự kết hợp với thần tính và đi vào sự sáng tỏ siêu nhiên. Ba người phụ nữ này có chung một đặc điểm: khao khát được cho đi tình yêu và nhận được tình yêu, và về mặt này, khao khát được nâng mình lên trên sự hiện hữu hạn hẹp ngày qua ngày để đi vào lãnh vực hữu thể cao hơn.

Giấc mơ của Ingunn là được sống bên cạnh Olaf trong một trang trại và có nhiều con. Trong trạng thái lờ đờ, nàng không thể hình dung được bất cứ khuôn mẫu hiện hữu nào khác và có ý thức lựa chọn một khuôn mẫu khác. Và khi sự kết hợp bên ngoài với người phối ngẫu của nàng cuối cùng xuất hiện như một thành toàn duy nhất, thì chính khía cạnh thể lý của mối liên hệ được nàng bám lấy với tất cả năng lực sống của nàng. Khi làm như vậy, nàng không tìm thấy hạnh phúc khao khát đã lâu; nhưng nàng không biết cách nào khác để tìm thấy nó hoặc thậm chí là tìm kiếm nó, và nàng đành ở lại với những gì nàng hiện có.

Cuộc sống thực của Nora, được che giấu đằng sau sự hiện hữu của "búp bê" mà thoạt đầu nàng hiếm khi ý thức được, hệ ở việc chờ đợi phép lạ, vốn không là gì khác ngoài việc kết thúc của sự hiện hữu đầy tính con rối của nàng, sự bừng nổ của tình yêu vĩ đại sẽ biểu lộ hữu thể của người phối ngẫu của nàng và của chính nàng. Và khi không có đáp ứng từ chồng, khi nàng nhận ra rằng không có gì hiện hữu đằng sau lớp mặt nạ quy ước xã hội của chàng, nàng quyết tâm cố gắng một mình đột phá vào tận hữu thể đích thực của mình, vào tận cốt lõi của nó.

Với Iphigenie, vấn đề không còn là vấn đề đột phá vào tận hữu thể đích thực nữa; nàng đã đạt được hữu thể đích thực, khi đạt đến mức độ hoàn thiện cao nhất của con người; nàng chỉ phải đưa nó vào thử nghiệm và cho phép nó phát huy tác dụng. Nàng mong mỏi rằng bình diện hữu thể mà nàng đã đạt được sẽ đóng vai trò như một công cụ của tình yêu cứu chuộc kia vốn là số phận thực sự của nàng.

Những điển hình này có minh họa thích đáng yếu tính của linh hồn phụ nữ không? Tất nhiên, ở đây, chúng tôi có thể cung cấp nhiều loại hình phụ nữ như các bạn mong muốn; tuy nhiên, tôi tin rằng, chỉ cần bao lâu họ là loại hình phụ nữ, thì trong căn bản chúng ta sẽ luôn thấy mình buộc phải trở thành điều linh hồn nên là, động lực cho phép nhân tính tiềm ẩn, vốn được đặt để trong nàng, trong chính dấu ấn cá nhân của nó, chín muồi đến độ phát triển hoàn hảo cao nhất có thể. Niềm khao khát sâu sắc nhất của phụ nữ là đạt được sự kết hợp yêu thương, một sự kết hợp, trong diễn trình phát triển của nó, vốn công nhận giá trị của sự trưởng thành này, đồng thời kích thích và thúc đẩy khát vọng hoàn thiện nơi người khác; sự khao khát này có thể tự phát biểu dưới những hình thức đa dạng nhất, và một số hình thức này dường như bị bóp méo, thậm chí thoái hóa. Như chúng tôi sẽ trình bày, niềm khao khát như thế là một khía cạnh thiết yếu của số phận vĩnh viễn của người phụ nữ. Nó không chỉ là niềm khao khát nhân bản mà đặc biệt là niềm khao khát nữ tính và đối lập với bản chất chuyên biệt nam tính.

Những mong muốn thiết yếu của người đàn ông tự bộc lộ trong hành động, việc làm và những thành tựu khách quan. Họ ít quan tâm đến các vấn đề hiện hữu [being], dù là của mình hay của người khác. Chắc chắn hiện hữu và hành động không thể tách biệt hoàn toàn. Linh hồn con người không phải là một hiện hữu hoàn chỉnh, tĩnh tụ, bất biến, nguyên khối. Nó đang ở trong trạng thái trở thành và đang trong diễn trình trở thành; linh hồn phải mang đến chỗ sinh hoa kết trái các thiên hướng mà nó được ban tặng khi đi vào thế gian; tuy nhiên, nó chỉ có thể phát triển được chúng qua việc được kích hoạt [activation]. Vì vậy, người phụ nữ chỉ có thể đạt được sự phát triển nhân cách hoàn toàn qua việc kích hoạt năng lực tâm linh của mình. Đàn ông cũng vậy, ngay cả khi không coi đó như mục tiêu, họ vẫn làm việc theo cách tương tự như khi họ cố gắng thực hiện bất cứ điều gì một cách khách quan. Trong cả hai trường hợp, cấu trúc của linh hồn trong căn bản y hệt như nhau. Linh hồn được chứa trong một thân xác mà sức sống và sức khỏe của nó phụ thuộc vào sức sống và sức khỏe của thân xác — dù không chuyên nhất hay tuyệt đối. Mặt khác, thân xác nhận bản chất của nó như thân xác — sự sống, chuyển động, hình thức, cấu trúc (gestalt) và ý nghĩa tinh thần — là nhờ linh hồn. Thế giới tinh thần được xây dựng trên tính cảm giới (sensuousness) vừa thiêng liêng vừa thể lý: trí hiểu [intellect], nhờ biết hoạt động của nó hợp lý, tiết lộ một thế giới; ý chí can thiệp một cách sáng tạo và đào tạo [formative] trong thế giới này; cảm xúc tiếp nhận thế giới này vào bên trong và thử nghiệm nó. Nhưng qui mô [extent] và mối liên hệ của những năng lực này khác nhau từ cá nhân này tới cá nhân nọ, và đặc biệt là từ đàn ông tới đàn bà.



Tôi cũng muốn tin rằng ngay cả mối liên hệ của linh hồn và thể xác cũng không hoàn toàn giống nhau nơi người nam và nơi người nữ; nơi phụ nữ, sự kết hợp của linh hồn với thể xác được coi là thâm hậu hơn một cách tự nhiên. (Tôi muốn nhấn mạnh chữ “một cách tự nhiên”, vì — như tôi đã tỏ bầy — vẫn có khả thể linh hồn được giải phóng cao độ khỏi thể xác, điều mà bây giờ, kỳ lạ thay, dường như dễ dàng thực hiện một cách bình thường hơn trong trường hợp phụ nữ). Linh hồn phụ nữ hiện diện và sống mãnh liệt hơn trong mọi phần của thân xác, và nó bị ảnh hưởng bên trong bởi điều xảy ra với thân xác; trong khi đó, với đàn ông, thân xác có đặc tính rõ ràng hơn như một công cụ phục vụ họ trong việc làm và được đi kèm với một sự thờ ơ [detachment] nào đó. Điều này có liên quan mật thiết với ơn gọi làm mẹ. Nhiệm vụ đồng hóa trong chính mình một hữu thể sống động đang biến hóa và lớn lên, chứa đựng và nuôi dưỡng nó, có nghĩa một một cùng đích dứt khoát trong chính nó. Hơn nữa, diễn trình mầu nhiệm trong việc hình thành một tạo vật mới trong cơ thể mẹ tiêu biểu một sự hợp nhất mật thiết giữa thể chất và tinh thần đến nỗi người ta có thể hiểu rằng sự hợp nhất này tự áp đặt lên toàn bộ bản chất của người phụ nữ. Nhưng một mối nguy hiểm nào đó có can dự vào đây. Nếu có một trật tự đúng đắn và tự nhiên hiện hữu giữa linh hồn và thể xác (nghĩa là trật tự tương ứng với bản chất chưa sa ngã), thì sự nuôi dưỡng, chăm sóc và thi hành cần thiết phải được cung cấp cho việc vận hành trơn tru của cơ thể lành mạnh. Ngay khi thân xác được dành cho nhiều thoả mãn thể lý hơn, và bản chất đồi bại của nó có xu hướng đòi hỏi thêm, kết quả sẽ là việc suy sụp của hiện hữu tâm linh. Thay vì kiểm soát và tâm linh hóa thân xác, linh hồn bị nó điều khiển; và do đó, thân xác mất đi tính cách là một thân xác nhân bản. Mối liên hệ của linh hồn và thể xác càng mật thiết, thì nguy cơ suy sụp tâm linh càng lớn. (Mặt khác, ở đây, chắc chắn cũng có khả thể lớn hơn là linh hồn sẽ tâm linh hóa thân xác).

Bây giờ, sau khi xem xét mối liên hệ của linh hồn và thể xác, chúng ta hãy chuyển sang mối liên hệ qua lại của các khả năng tâm linh. Chúng ta thấy rằng chúng ở trong trạng thái phụ thuộc lẫn nhau — điều này không thể hiện hữu mà không có điều kia. Nhận thức thực tại của trí hiểu là điểm khởi hành cần thiết cho đáp ứng cảm xúc. Khích động cảm xúc là động lực của ý chí; mặt khác, quan tâm của ý chí là điều chỉnh hoạt động trí hiểu và đời sống xúc cảm.

Nhưng các khả năng không hề được phân bổ và phát triển bằng nhau. Đàn ông luôn cố gắng hữu hiệu trong hành động nhận thức và sáng tạo. Sức mạnh của đàn bà nằm ở đời sống xúc cảm. Điều này phù hợp với thái độ của nàng hướng tới hữu thể có bản vị. Vì linh hồn họ tri nhận hữu thể của chính nó trong các chuyển động sôi nổi của cảm xúc. Qua các cảm xúc, nó tiến tới chỗ biết nó là gì và nó ra sao; cũng qua các cảm xúc, linh hồn phụ nữ nắm được mối liên hệ với một hữu thể khác vào chính nó, và nhờ đó, cả ý nghĩa của giá trị nội tại của các sự vật bên ngoài, của những con người xa lạ và những sự vật vô ngã. Các cảm xúc, cơ năng thiết yếu để thấu hiểu điều hiện hữu trong tính toàn diện và tính đặc thù của nó, chiếm giữ tâm điểm hữu thể của họ. Chúng đặt điều kiện cho cuộc đấu tranh để phát triển bản thân đạt tới toàn bộ và giúp người khác đạt được sự phát triển tương ứng, điều mà trên đây chúng ta đã phát hiện như là đặc điểm của linh hồn người phụ nữ. Do đó, họ được thiên nhiên bảo vệ tốt hơn chống lại sự kích hoạt và phát triển một chiều các khả năng của mình hơn là đàn ông. Mặt khác, phụ nữ ít có khả năng đạt được những thành tựu xuất sắc trong một lĩnh vực khách quan, những thành tựu luôn có được bằng việc tập trung một chiều mọi năng lực tinh thần; và cuộc đấu tranh để phát triển đặc trưng này cũng khiến phụ nữ phải đối diện với nguy cơ phân mảnh một cách gay gắt hơn. Và tính một chiều, tính mà do bản chất, họ vẫn nghiêng về, hết sức nguy hiểm: sự phát triển xúc cảm đơn phương.

Chúng ta đã gán nhiều tầm quan trọng cho cảm xúc trong toàn bộ "sinh thể" [organismus] của hữu thể tâm linh. Nó có một chức năng nhận thức thiết yếu: nó là trục chính qua đó việc tiếp nhận điều hiện hữu được chuyển thành quan điểm và hành động bản thân. Nhưng nó không thể thực hiện chức năng của nó nếu không có sự hợp tác của trí hiểu và ý chí, cũng như không thể đạt được hiệu suất nhận thức nếu không có sự chuẩn bị của trí hiểu. Trí hiểu là ánh sáng soi đường cho nó, và không có ánh sáng này, cảm xúc sẽ thay đổi tới lui. Thực thế, nếu cảm xúc chiếm ưu thế hơn trí hiểu, nó có thể che khuất ánh sáng và bóp méo bức tranh toàn thế giới cũng như các sự vật và sự kiện cá thể và khiến ý chí trở nên sai lầm trong thực hành. Các sôi nổi xúc cảm cần sự điều khiển của lý trí và sự chỉ đạo của ý chí. Ý chí không đạt đến bất cứ năng lực tuyệt đối nào để khêu gợi hoặc ngăn chặn các phản ứng cảm xúc, nhưng nó tự do cho phép hoặc hạn chế sự phát triển của các cơn kích động đang dâng lên này. Khi thiếu kỷ luật của tâm trí và ý chí, đời sống xúc cảm trở thành một cưỡng lực không có định hướng an toàn. Và vì nó luôn cần một số kích thích nào đó để hoạt động, nên nó trở thành ghiền vui thú nhục dục, thiếu sự hướng dẫn của các các năng lực tâm linh cao hơn. Do đó, vì sự kết hợp mật thiết giữa thể xác và linh hồn, nó kết liễu ở chỗ đời sống tâm linh suy sụp, trở thành đời sống của một con người chỉ biết vui hưởng nhục dục kiểu thú vật.

Thành thử, chỉ khi nào các khả năng của nó được đào tạo một cách tương ứng thì linh hồn nữ giới mới có thể trưởng thành tới trạng thái phù hợp với bản chất thực sự của nó. Loại hình phụ nữ cụ thể mà chúng ta đã trích dẫn trình bầy cho chúng ta không những các thiên hướng tự nhiên đa dạng mà còn các mức độ hình thành [formative] đa dạng của linh hồn phụ nữ. Chúng ta đã thấy nơi Ingunn một linh hồn phụ nữ gần giống như một chất thể chưa thành hình nhưng vẫn cho phép ta trực giác các khả năng của nó. Một linh hồn khác, Nora, nhờ ảnh hưởng của cơ may và các quy ước xã hội, đã tìm thấy một sự hình thành nhất định nhưng không phù hợp với nàng. Và cuối cùng, Iphigenie giống như một tác phẩm hoàn hảo của bàn tay lão luyện của Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta thấy nhiệm vụ điều tra đâu là các sức mạnh hình thành qua đó linh hồn người phụ nữ có thể được dẫn dắt đến bản chất mà nó được dự tính và có thể được bảo vệ khỏi sự thoái hóa mà nó đang bị đe dọa.

Còn tiếp