II.

Nếu chúng ta cố gắng mô tả bản chất của đàn ông và đàn bà như cách chúng ta hiểu thông thường, một mặt, chúng ta sẽ thấy lời giải thích rõ ràng về những gì lời Thiên Chúa nói với chúng ta; mặt khác, lời của Thiên Chúa chỉ là một hướng dẫn cho cuộc sống. Trong đó, chúng ta lại tìm thấy dấu vết của trật tự ban đầu của tạo dựng, của sa ngã và cứu chuộc.



Nhờ ơn gọi nguyên thủy từ Thiên Chúa, người đàn ông được kêu gọi làm chủ thế giới tạo dựng. Do đó, thân xác và linh hồn họ được trang bị để chiến đấu và chinh phục nó, để hiểu nó và nhờ kiến thức biến nó thành của riêng mình, sở hữu và tận hưởng nó, và cuối cùng, theo một nghĩa nào đó, biến nó thành sự tạo dựng của chính mình qua hoạt động có mục đích. Nhưng, tất nhiên, bản chất của người đàn ông có giới hạn, cũng như tất cả mọi thứ được tạo dựng; những giới hạn của họ có nguồn gốc từ tình trạng ban sơ do tội nguyên tổ gây ra; kết quả là hữu thể nhân bản không có quyền lãnh chúa trên trái đất như dự định đầu tiên. Nếu tham vọng muốn có kiến thức còn mạnh mẽ trong họ và nếu họ dùng hết sức lực của họ để thỏa mãn tham vọng này, thì càng ngày họ càng buộc phải từ bỏ việc sở hữu và hưởng thụ những điều tốt đẹp trong cuộc sống; và, ngoài ra, khả năng sáng tạo của họ sẽ bị suy giảm. Nếu mục tiêu cuộc đời họ là sở hữu và thỏa mãn, họ sẽ ít có khả năng đạt được sự hiểu biết thuần túy không vụ lợi và ít có khả năng hoạt động sáng tạo. Nhưng nếu họ hoàn toàn bằng lòng với việc biến đổi một phạm vi nhỏ bằng hoạt động sáng tạo của chính mình (như một nông dân, nghệ sĩ, viên chức chính phủ, v.v.), thì kiến thức trừu tượng và sự hưởng thụ của cải vật chất của cuộc sống sẽ ít quan trọng hơn.

Và chúng ta liên tục được nhắc nhở rằng thành tựu đơn nhất càng hoàn hảo thì phạm vi của nó càng bị hạn chế. Sự hoàn hảo chỉ có thể đạt được qua tính phiến diện (onesidedness) và sự suy giảm của các phẩm tính kia.

Nhưng ngoài ra, với bản chất sa ngã của con người, nỗ lực một chiều để đạt được sự hoàn hảo dễ dàng trở thành một khát vọng đồi trụy ngay trong chính nó; tham vọng của chúng ta muốn có kiến thức không tôn trọng những giới hạn được đặt trên nó mà đúng hơn, tìm cách, bằng sức mạnh, vượt qua những giới hạn này; sự hiểu biết của con người thậm chí không nắm được điều mà về bản chất không bị che giấu đối với nó, vì nó không chịu phục tùng quy luật của sự vật; thay vào đó, nó tìm cách làm chủ chúng một cách võ đoán hoặc cho phép sự rõ ràng của viễn kiến tâm linh của nó bị che lấp bởi những ham muốn và dục vọng. Tương tự như vậy, sự suy tàn quyền thống trị của con người được thấy rõ khi chúng ta xem xét mối liên hệ của họ với sự phong phú tự nhiên của trái đất: thay vì tôn kính hân hoan trong thế giới tạo dựng, thay vì mong muốn bảo tồn và phát triển nó, con người tìm cách khai thác nó một cách tham lam, đến mức tiêu hủy hoặc chiếm hữu một cách vô cảm, không hiểu làm thế nào để tận dụng hoặc tận hưởng nó. Liên quan đến vấn đề này là việc hạ giá của nghệ thuật sáng tạo qua việc bóp méo và biếm họa đầy bạo lực các hình ảnh tự nhiên.

Sự suy thoái của vương quyền thành quyền lực tàn bạo cũng đúng trong mối liên hệ của người nam với người nữ. Theo trật tự ban đầu, nàng được giao cho chàng như một người bạn đồng hành và trợ giúp. Do đó, nếu nàng đứng về phía chàng trong quyền lãnh chúa trên trái đất, nàng hẳn được phú bẩm những ơn phúc tương tự —hiểu biết, tận hưởng và sáng tạo. Tuy nhiên, thông thường, nàng ít được phú bẩm những ơn phúc này và do đó, ít có nguy cơ đánh mất bản thân chỉ vì tính phiến diện. Nhờ thế, nàng sẽ có thể phục vụ người đàn ông trong bổn phận hỗ tương của họ; nàng bảo vệ người đàn ông khỏi tính phiến diện tự nhiên của chàng bằng sự phát triển hài hòa của chính nàng. Nhưng mối liên hệ của hai giới kể từ khi Sa ngã đã trở thành mối liên hệ tàn bạo chủ nhân và nô lệ. Thành thử, những ơn phúc tự nhiên của phụ nữ và sự phát triển tốt nhất có thể của chúng không còn được xem xét nữa; đúng hơn, người đàn ông sử dụng nàng như một phương tiện để đạt được các mục đích của riêng họ trong việc thực hiện công việc của họ hoặc để làm dịu sự thèm muốn của họ. Tuy nhiên, có thể dễ dàng xảy ra việc này: kẻ chuyên quyền trở thành nô lệ cho dục vọng của mình và do đó trở thành một nô lệ của kẻ nô lệ phải thỏa mãn họ.

Liên hệ thoái hóa giữa nam và nữ được truyền qua liên hệ thoái hóa của họ với con cái. Khởi nguyên, việc chăm sóc liên quan đến sinh sản được chỉ định chung cho họ. Giống như cả hai đều được định hướng để khôi phục các thiên bẩm [predispositions] khác nhau của họ, cũng theo cách đó, và theo cách mạnh mẽ nhất, mỗi người phải bù đắp cho người kia các thiếu sót cố hữu của họ trong tư cách cha mẹ. Một mặt, bản chất chưa huần thục của đứa trẻ cần được chăm sóc, che chở và hướng dẫn trong việc phát triển các khả năng của nó. Vì mối dây ràng buộc chặt chẽ về thể xác giữa đứa trẻ và người mẹ, vì xu hướng chuyên biệt của người phụ nữ là thông cảm và phục vụ cuộc sống khác, cũng như ý thức sâu sắc hơn của họ về cách phát triển các khả năng của đứa trẻ, nên phần chính của việc giáo dục đứa trẻ được giao cho người phụ nữ. Mặt khác, họ cần sự bảo vệ của đàn ông để thực hiện các bổn phận của họ; tuy nhiên, động lực mạnh mẽ hơn và tiềm năng thành tựu của người đàn ông khiến chàng có trách nhiệm hướng dẫn đứa trẻ phát huy hết những tiềm năng đặc thù của nó, “làm điều tốt”. Và, cuối cùng, do bổn phận làm chủ mọi tạo vật, chàng chịu trách nhiệm chăm sóc tạo vật cao quý nhất của tất cả các tạo vật. Hơn nữa, cũng như đàn ông và đàn bà được tạo dựng để bổ túc cho nhau thế nào, thì các thế hệ kế tiếp cũng được kêu gọi để chu toàn cùng một chức năng như thế. Mỗi thế hệ, do đó, được kêu gọi đạt được một điều gì đó mới mẻ và có tính cách cá nhân; nền giáo dục cần nghiêm túc xem xét sự cần thiết phải phát triển các yếu tố mới mẻ và độc đáo trong từng thế hệ mới. Do đó, chức phận làm cha xuất hiện như một lời kêu gọi nguyên thủy của con người được qui cho họ cùng với ơn gọi đặc biệt của họ. Một mặt, khuynh hướng trốn tránh nghĩa vụ làm cha của họ là một dấu hiệu của sự suy đồi; ở bình diện thấp nhất, điều này tự bộc lộ trong liên hệ tình dục chỉ để thỏa mãn ham muốn tình dục mà thôi chứ không quan tâm đến con cái; ở bình diện cao hơn, họ có thể đảm nhận tốt các nghĩa vụ vật chất của mình nhưng có lẽ họ hoàn toàn không quan tâm đến bổn phận chia sẻ việc đào tạo đứa trẻ. Mặt khác, có nguy cơ xảy ra việc thực hiện tàn bạo các đặc quyền của tư cách làm cha, vốn giới hạn tư cách làm mẹ vào việc chăm sóc thể chất mà thôi và tước đi các chức năng cao hơn của nó và hơn thế nữa, có thể đàn áp một cách có thẩm quyền các khát vọng độc đáo của đàn hậu duệ mới.

Tất cả những khiếm khuyết trong bản chất người đàn ông khiến họ thất bại trong thiên chức nguyên thủy của họ đều bắt nguồn từ mối liên hệ lệch lạc với Thiên Chúa. Con người có thể hoàn thành ơn gọi cao quý nhất của họ, là trở thành hình ảnh của Thiên Chúa chỉ khi họ tìm cách phát triển các khả năng của họ bằng cách khiêm tốn tùng phục sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Là hình ảnh hữu hạn của đức khôn ngoan, sự tốt lành và quyền năng của Thiên Chúa có nghĩa là con người phải tìm cách biết từ bên trong mô thức và các giới hạn do Thiên Chúa quy định, vui hưởng một cách biết ơn sự vinh hiển của Thiên Chúa như được biểu lộ trong các tạo vật của Thiên Chúa, giúp hoàn thiện tạo thế trong một hành vi nhân bản tự do như ý định của Thiên Chúa. Câu non serviam [tôi không phục vụ] của con người ngỏ với Thiên Chúa, đến lượt nó, tạo ra mối liên hệ biến thái của họ với tất cả các tạo vật.

Chúng ta có sự song hành chính xác trong bản chất của phụ nữ. Theo trật tự dự kiến từ khởi đầu, vị trí của họ là ở bên cạnh người đàn ông để làm chủ trái đất và chăm sóc con cái. Nhưng thân xác và linh hồn họ được tạo ra ít để chiến đấu và chinh phục hơn là để nâng niu, bảo vệ và gìn giữ. Trong thái độ cặp ba đối với thế giới - biết nó, tận hưởng nó, để hình thành nó một cách sáng tạo - thái độ thứ hai làm họ quan tâm trực tiếp nhiều nhất: có vẻ họ có khả năng hơn người đàn ông trong việc cảm thấy niềm vui tôn kính hơn nơi các tạo vật; hơn nữa, niềm vui đó đòi hỏi một kiểu tri nhận đặc thù về điều tốt, khác với kiểu tri nhận thuần lý ở chỗ là một chức năng tâm linh cố hữu và là một chức năng đặc biệt của nữ giới. Hiển nhiên, phẩm tính này có liên quan đến sứ mệnh làm mẹ của người phụ nữ, bao gồm sự hiểu biết về toàn bộ hữu thể và các giá trị chuyên biệt. Nó giúp họ hiểu và cổ vũ sự phát triển hữu cơ, số phận đặc biệt, cá thể của mỗi hửu thể sống động. Ý thức được nhu cầu của hữu thể sống động không những mang lại lợi ích cho hậu thế của họ mà còn cho mọi tạo vật nữa. Nó đặc biệt có lợi cho người đàn ông trong việc khiến nàng trở thành người bạn đồng hành và trợ giúp biết đánh giá cao các khát vọng của chàng. Mối liên hệ bổ túc cho nhau của người nam và người nữ xuất hiện rõ ràng trong trật tự nguyên thủy của tự nhiên: ơn gọi đệ nhất đẳng của người đàn ông dường như là ơn gọi của người cai trị và ơn gọi làm cha là ơn gọi đệ nhị đẳng (không phụ thuộc vào ơn gọi làm người cai trị của họ nhưng là một phần không thể thiếu của nó); ơn gọi đệ nhất đẳng của người phụ nữ là làm mẹ: vai trò người cai trị của nàng chỉ là ơn goi đệ nhị đẳng và được bao gồm cách nào đó trong ơn gọi làm mẹ của nàng.

Người phụ nữ chia sẻ với người đàn ông những khả năng hiểu, tận hưởng và hành động; nhưng nàng cũng chia sẻ cùng một thèm khát suy đồi muốn sở hữu mọi sự bằng bạo lực, một mong muốn làm sai lệch, bóp méo và hủy hoại. Tuy nhiên, cuộc Sa ngã ảnh hưởng đến đàn ông và đàn bà cách khác nhau; điều này trở nên rõ ràng khi khảo sát ý nghĩa và định hướng khác nhau của ba chức năng (hiểu biết, tận hưởng và sáng tạo) trong toàn bộ nhân cách và toàn bộ cuộc sống của người nam và người nữ. Ta đã đề cập đến việc, vì thiên bẩm của họ, phụ nữ được bảo vệ tốt hơn nam giới khỏi tính phiến diện và khỏi việc mất nhân tính. Mặt khác, tính một chiều mà họ giáp mặt là một tính một chiều đặc biệt nguy hiểm. Suy nghĩ trừu tượng và hành động sáng tạo ít được họ quan tâm hơn là việc sở hữu và tận hưởng cuộc sống tốt đẹp. Vì vậy, mối nguy hiểm là ở chỗ nàng sẽ chỉ dấn thân vào điều đó và chỉ điều đó mà thôi. Và giờ đây, thêm vào đó, niềm vui tôn kính của nàng đối với những sự vật của thế giới này có thể biến chất thành lòng tham, một mặt dẫn họ đến việc lo lắng nhặt nhạnh tham lam và tích trữ những thứ mà nàng không dùng đến; và mặt khác, rơi vào một cuộc sống vô tâm, nhàn rỗi đầy nhục dục.

Điều này dẫn đến một mối liên hệ thoái hóa với người đàn ông: vốn bị đe dọa bởi nhu cầu thống trị của người đàn ông, sự đồng hành tự do của nàng ở bên cạnh chàng sẽ càng bị nàng làm cho suy yếu hơn nữa trong việc chiều theo các ham muốn của chính nàng. Mặt khác, sự lo lắng của nàng để bảo vệ tài sản của mình có thể khiến nàng cố gắng thống trị đàn ông. Và các trường hợp tương tự có thể được nhìn thấy trong mối liên hệ với con cái. Người phụ nữ sống cuộc sống chỉ dựa trên sự buông thả bản thân sẽ cố gắng trốn tránh nghĩa vụ làm mẹ giống như một người đàn ông có định hướng tương tự sẽ trốn tránh nghĩa vụ làm cha của mình. Tất nhiên, nàng có thể bị ngăn ngừa khỏi điều này nhờ động lực có tính bản năng muốn có con. Người phụ nữ lảng vảng lo lắng về con cái như thể chúng là tài sản của riêng mình sẽ cố gắng bằng mọi cách ràng buộc chúng với mình, thậm chí bằng cách hết sức loại bỏ quyền của người cha. Nàng sẽ cố gắng hạn chế quyền tự do phát triển của con cái; nàng sẽ kiểm tra sự phát triển của chúng và phá hủy hạnh phúc của họ thay vì phục vụ người đàn ông, con cái và mọi tạo vật theo cách yêu thương tôn kính nhằm cổ vũ việc đào tạo tự nhiên của họ vì vinh quang Thiên Chúa và qua đó phát huy hạnh phúc tự nhiên của họ.

Căn nguyên của điều ác, một lần nữa, hệ ở mối liên hệ đồi trụy của nàng với Thiên Chúa. Vì người phụ nữ nổi loạn chống lại Thiên Chúa vào lúc có cuộc Sa Ngã và đồng thời chiếm ưu thế trên người đàn ông bằng cách quyến rũ chàng, nên hình phạt của nàng là tùng phục quyền thống trị của người đàn ông. Vì tội lỗi mà nàng đã khuyến khích chàng phạm rất có thể là tội nhục dục, nên người phụ nữ càng phải đối diện với nguy cơ trở thành xác thịt hoàn toàn. Và khi điều này xảy ra, nàng luôn một lần nữa trở thành kẻ quyến rũ xấu xa, trong khi nghịch lý thay, Chúa đã ra lệnh một cách đặc biệt cho nàng chống lại cái ác.

Còn tiếp