Chỉ mới hồi đầu tháng 10, một vị Hồng Y đứng đầu một siêu thánh bộ của Tòa Thánh lên tiếng cho rằng nay đã đến lúc “bước ra khỏi” các tai tiếng lạm dụng. Nghĩa là đừng bàn đến chúng nữa.

Thực vậy, theo Elise Harris của tập san Crux Now, Đức Hồng Y Peter Turkson, người Ghana, bộ trưởng Thánh Bộ Cổ vũ Việc Phát triển Nhân bản Toàn diện, trong một bài diễn văn đọc tại Hội nghị Mùa Thu của Hiệp Hội Các Nhà Lãnh đạo Truyền Giáo và Dòng tu Ái Nhĩ Lan (AMRI), đã gợi lại hai biến cố: Đại hội Thánh thể Quốc tế năm 2012 và Cuộc Gặp Gỡ các Gia đình Thế giới năm 2018. Cả hai đều tổ chức tại Dublin. Trong cả hai biến cố ấy, Đức Tổng Giám Mục Diarmuid Martin đều có lời xin lỗi vì nạn giáo sĩ lạm dụng.

Và Đức Hồng Y Turkson có cảm nghĩ “Có lúc, tôi nghĩ việc ấy hơi quá đáng. Tôi nghĩ ngài [Đức Tổng Giám Mục Martin] đang phủ mây mù lên mọi sự”. Đức Hồng Y Turkson cho rằng: ngài hiểu nỗi đau đớn của các nạn nhân bị lạm dụng, nhưng theo ngài “nay chúng ta cần tìm đường để thoát ra ngoài (exit) kinh nghiệm này, [vì] nếu không nó làm ta chết ngạt”.



Thế nhưng tại Mexico City, từ ngày 6 tới ngày 8 tháng 11 vừa qua, lại mới có một hội nghị cũng mang danh là thượng đỉnh, bàn về nạn lạm dụng tình dục, do Trung Tâm Bảo Vệ Trẻ em của Đại Học Công Giáo Mexico (CEPROME) tổ chức.

Người ta đoán lý do gọi nó là “thượng đỉnh” vì các vị tham dự và diễn giả chính đều là những vị đã tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh về việc bảo vệ các vị thành niên trong Giáo Hội hồi tháng hai tại Vatican. Đó là Linh Mục Dòng Tên Hans Zollner, giám đốc Trung Tâm Bảo Vệ Trẻ Em tại đại học Gregorian; Đức Cha Luis Manuel Ali Herrera, Giám Mục Phụ Tá của Bogota, Colombia và là thành viên của Ủy Ban Giáo Hoàng Bảo vể Vị Thánh niên; Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna of Malta, thành viên của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin; và Juan Carlos Cruz, nạn nhân sống sót lạm dụng tình dục người Chile.

Các diễn giả không hẳn đưa ra được bất cứ đường hướng giải quyết nào mới cho bằng lên tiếng chỉ trích và cho rằng mình chưa làm đủ và thậm chí chưa làm gì hết trong chiến dịch tận diệt nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục. Giọng điệu bi quan này, trớ trêu thay, bị chính nạn nhân sống sót là Cruz “chỉnh sửa”. Phải chăng, trong trận chiến tận diệt nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục, chúng ta cũng đang vô tình rơi vào hội chứng “kỹ trị” trong đó các nhà chuyên môn cho rằng các tầm nhìn thông suốt của họ chưa được áp dụng và cần phải được áp dụng ngay.

Ta hãy nghe Linh mục Zollner: “Tôi luôn luôn ngạc nhiên rằng trong Giáo Hội, vốn thiếu một nền thần học hệ thống để đối đầu với việc lam dụng tình dục và việc che đậy nó. Và việc thiếu này vẫn tiếp diễn cho đến nay”.

Theo ngài, “trong Giáo Hội, chúng ta vốn cố gắng ủy trách nhiệm về các vấn đề này cho các nhà phân tâm học, luật sư và giáo luật gia, mà quên không nhìn tới linh đạo và thần học: trái tim của chúng ta”.

Đức Cha Luis Manuel Ali Herrera thì cho rằng ở Châu Mỹ La Tinh, các thay đổi cần thiết để giải quyết nạn lạm dụng “chưa bắt đầu”. Dù ở đây diễn ra những vụ lạm dụng tình dục nổi tiếng thế giới: ở Mexico là cố linh mục Marcial Maciel; ở Peru, là giáo dân Luis Fernando Figari; ở Chile, là cựu linh mục Fernando Karadima.

Nhưng theo Shannon Levitt, nạn nhân sống sót Cruz có cái nhìn tích cực hơn. Anh cho biết “Quả là ấn tượng khi được thấy nhiều điều đang diễn ra. Đã có sự thay đổi ở Châu Mỹ La Tinh và trên toàn thế giới. Trước đây, khi bạn nói bạn bị một linh mục lạm dụng, người ta sẽ hủy hoại bạn, nhưng nay cung cách ấy không còn nữa”.

Anh cho biết má anh luôn nhắc nhở anh nhớ rằng anh đã ra sao trước đây và nay được như thế nào. Anh nghĩ Giáo Hội cũng vậy.

Phản ứng của tham dự viên

Theo Ines San Martin, trong số 450 tham dự viên hội nghị đến từ Argentina, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Ecuador, Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Paraguay, Panama, Peru, Puerto Rico and Venezuela, một vị linh mục đứng ở phía sau phòng hội nghị đã làm cho toàn thể hội nghị “nóng lên” khi ngài cho rằng các diễn giả đã quên không nhắc đến điều mà theo ngài là cội rễ của nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục: đồng tính luyến ái.

Đức Cha Luis Manuel Alí Herrera đã chỉ biết căn cứ vào hai tài liệu được ngài trưng dẫn trong bài diễn văn của ngài là Phúc Trình của Trường Cao Đẳng John Jay về Công Lý Hình Sự và Phúc Trình của Ủy Ban Hoàng Gia Úc. Cả hai bác bỏ đồng tính luyến ái là nguyên nhân của ấu dâm.

Ngài cho nguyên nhân chính là “lỏng lẻo về luân lý” (moral laxity): “khi các giáo sĩ không chấp nhận một cách có ý thức cam kết sống độc thân của họ”. Nhưng sao đa số lại chọn con trai? Điều này được cả Phúc Trình John Jay lẫn Đức Cha Herrera nhìn nhận. Nhưng ngài cho hay: chỉ vì “sẵn có” con trai hơn con gái gần gũi với các linh mục.

Đó cũng là nhận định của Cha Zollner. Nhưng Cha cho biết thêm: Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hiện đang nhận được các vụ lạm dụng cách nay 25 năm và khuynh hướng đang thay đổi với số trẻ gái bị lạm dụng gia tăng nhiều hơn.

Cha cũng đồng ý với nhận định của Đức Cha Herrera khi cho rằng các dữ kiện khoa học cho thấy đa số các vụ lạm dụng giữa các năm 1970-1980 do các linh mục được thụ phong trong thập niên 1950 vi phạm. Họ là những linh mục được giáo dục rất nghiêm ngặt, nhấn mạnh nhiều đến kỷ luật. Nhưng sự nghiêm ngặt ấy bị cuộc cách mạng tình dục năm 1968 cho nổ tung.

Các giải thích ấy không làm vừa lòng vị linh mục đặt câu hỏi.

Câu hỏi khác khiến cử tọa lưu ý là câu hỏi về những lời tố cáo gian. Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna chỉ biết trả lời: hệ thống giáo luật có dự liệu các điều khoản chống lại những lời cáo gian này! Chúng là các tội ác theo giáo luật. Và điều sau mới đáng lưu ý: ngài bảo 90 phần trăm các lời tố cáo đều chứng tỏ là đúng sự thật.



Đức Hồng Y Cupich và con đường thanh tẩy Giáo Hội

Ines San Martin cho hay: tham dự hội nghị trên, còn có Đức Hồng Y Cupich, Tổng Giám Mục Chiacago, người được cô mô tả là “thân tín” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, theo nghĩa, ngài được Đức Phanxicô mời điều hợp Hội Nghị Thượng Đỉnh về Bảo vệ Vị thành niên tại Vatican hồi tháng Hai, 2019.

Theo Đức Hồng Y, con đường thanh tẩy Giáo Hội bắt đầu bằng việc thừa nhận sự can đảm của các nạn nhân chịu lên tiếng. “Chính nhờ lòng can đảm của họ mà Giáo Hội bắt đầu diễn trình thanh tẩy chân chính”.

Diễn trình trên, theo Đức Hồng Y, gồm 4 nhân tố: liên đới (nối kết với các nạn nhân, dù chỉ là một em bé 9 tuổi, gặp gỡ họ); đồng nghị ([synodality] Giáo Hội phải cùng nhau bước đi trong việc bảo vệ trẻ em); hoán cải, điều ngài tin các Giám Mục Hoa kỳ đã thất bại sau Hiến chương Dallas năm 2002 (rất hay nhưng không đem ra áp dụng hay theo dõi, một thứ “thanh tẩy rẻ tiền”); minh bạch (cởi mở, thừa nhận sai lầm).

Điểm cuối được Đức Tổng Giám Mục Rogelio Cabrera, của Monterrey, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Mexico và là thủ qũy của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh (CELAM) khai triển.

Ngài bảo: “Các Giám Mục chúng ta cần nhìn nhận các lỗi lầm quá khứ”, bác bỏ chủ nghĩa giáo sĩ trị, coi Giáo Hội là uy quyền, có lời nói cuối cùng, coi Giám Mục và linh mục là những nhân vật quan trọng. Chính đó là nguyên nhân của nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục.

Một nhận định khác của Đức Tổng Giám Mục Cabrera cho thấy ta phải vâng theo luật lệ nhà nước: “Chúng ta là các công dân nơi ta sinh sống, và luật pháp là một phần của viễn kiến mình là thành phần của thế giới”, trong khi có nhiều linh mục tin rằng mình không nợ ai bất cứ lơi giải thích nào.

Có một nhận định đáng lưu ý: theo Đức Tổng Giám Mục, về việc tiết lộ danh tính các linh mục phạm tội, Giáo Hội Công Giáo ở Mexico bị luật lệ cấm trừ khi nạn nhân thực sự đã công khai hóa vụ việc.