WILLIAM HOLMAN HUNT ĐÃ TẠO CHO TÂM LINH MỘT LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

Sáu mươi năm lẻ những bức sơn dầu bởi William H. Hunt, một họa sỹ người Anh trong cuộc triển lãm Tội lỗi và Sự Cứu rỗi: Holman Hunt và Pre-Raphaelite Vision (Raffaello Sanzio, 1483 – 1520, Italian painter whose refined elegant style epitomize the humanistic spirit of the high Renaissance, influenced by Perugino, Leonardo da Vinci, and Michelangelo) hiện được triển lãm tại phòng trưng bày nghệ thuật Ontario, không phải là điều dễ dàng đối với người thường thích tới viện bảo tàng thời nay.

Những họa sỹ của trăm năm qua mà tác phẩm của họ hiện chúng ta đang thưởng thức, từ Monet đến Nhóm Bảy Họa sỹ Châu Âu và Bắc Mỹ hiện hành, đã quen thuộc đối với chúng ta để mặc sức tận hưởng, dùng cọ lông để diễn tả và thể hiện dưới dạng tranh vẽ (khi những bức tranh sơn dầu hoàn toàn không trừu tượng) của những sự việc và không gian hiện đại tầm thường. Những bức họa của Hunt, ngược lại, chính xác hiện thực, hướng tới những chi tiết nhỏ nhất của cỏ cây, y phục hoặc trang trí nội thất. Ông thường minh họa những câu chuyện, vì nghệ thuật ít khi đề cập đến, luôn được lấy từ Thánh kinh hoặc của Shakespeare hoặc đôi khi từ những giai thoại luân lý đạo đức. Và mỗi bức tranh tìm ra một bài học được rút ra theo chủ quan kiên định của Hunt từ thời kỳ văn học mid-Victorian (The Victorian age: one characteristic of Victoria literature – especially prose – is the high moral purpose allied to a Romantic technique: languagr is rich and highly ornamental, a reflection of the new “Gothic” architecture with its – to us – tasteless collaboration of design.), ý thức Thiên Chúa giáo về chính và tà.

Nhưng nếu nghệ thuật của Hunt có vẻ xa lạ đối với những cái nhìn của thế kỷ XXI, cái nhìn tổng quát quan trọng này về tác phẩm của ông thì dường như mọi người đều sẽ bị thu hút từ sức quyến rũ thuộc lĩnh vực hội họa từ năm 1800. Và có lẽ đặc biệt đối với những ai tin rằng một điều gì đó quan trọng – ý nghĩa tôn giáo và luân thường đạo lý, hoặc một cảm nhận lịch sử - đã biến mất từ hội họa hiện đại. Hunt chắc hẳn đã tin rằng nền hội họa trong thời kỳ của ông, đã bén rễ trong các nhà Họa sỹ Tiền bối (Old Master: the famous painters especially from the 15th to 18th century – Europe) đã đánh mất phương thức của nó. Từ những năm giữa thế kỷ XIX cho đến khi cái chết của ông vào năm 1910, ông đã cố gắng truy tìm để khôi phục những câu chuyện kể mang tầm vóc của không gian ba chiều trong nghệ thuật, cùng với sức mạnh của nó (đã bị loại bỏ trong nghệ thuật Châu Âu), trong cái nhìn của ông, thời kỳ Phục hưng để truyền đạt chân lý và đạo đức.

Trong số những thành quả lao động của ông là một trong những bức tranh phổ biến rộng rãi nhất đã được trưng bày bất cứ nơi đâu vào thế kỷ của Hunt. Một phiên bản về bức họa “The Light of the World” (Ánh sáng trần gian” – Chúa Jesus phục sinh, chiếc đèn trong tay, gõ cửa một túp lều giữa tăm tối trời đêm – đã đi nhiều nơi thuộc Đế quốc Anh (gồm Canada) vào giữa năm 1905 – 1907, đã cuốn hút những đám đông khổng lồ. Tiếng tăm của bức tranh này đã mở rộng thông qua vô vàn bức điêu khắc, bưu thiếp, và thậm chí trên những cửa sổ thủy tinh (nhiều) màu.

“Lặng nhìn, Ta đứng bên cửa và gõ”: thông điệp của bức họa biểu tượng này rõ ràng và hoàn toàn trong sáng như những gì Hunt đã thực hiện trong 50 năm trước chuyến đi của “The Light of the World”. Sự tìm kiếm của ông cho cái nhìn trong sáng được thể hiện từ những ngày ngồi trên ghế của trường nghệ thuật, khi ông đã đi đến tan tành mộng tưởng với hội họa cổ điển sau đó trong mốt thời trang. Nhưng thời điểm quan trọng trong việc hình thành với tư cách là một họa sỹ bước vào năm 1848 khi ông tham gia vào những lực lượng cùng với những thi sỹ và họa sỹ Anh có cùng khuynh hướng (gồm John Everett Millais và Dante Gabriel Rossetti) để thành lập Pre-Raphaelite Brotherhood. Nhóm này đã chia sẻ một bất đồng về nghệ thuật Châu Âu từ khi Raphael và Renaissance, và đã tuyên thệ một nghệ thuật canh tân của những ý tưởng đạo đúc và tôn giáo.

Vì những phe phái nghệ thuật luôn luôn hành động, Brotherhood chẳng bao lâu đã “tan đàn sẻ nghé”, nhưng Hunt tiếp tục cái nhìn nghệ thuật của mình trong những ngày còn lại. Những bức họa triển lãm đã biệu lộ chiều sâu tuyệt đối về lời cam kết nồng nàn của Hunt. Những biểu tượng phong phú đang Thức Tỉnh Lương Tâm (1853 – 1854), chẳng hạn, với sự chú ý tinh tế đến từng đường ren trên y phục và chi tiết trang hoàng, nắm bắt được thời điểm đúng lúc khi một thiếu phụ bị ràng buộc đột nhiên nhận thức được sự mất phẩm giá từ cái vỗ của tình nhân. Một Isabella tinh tế, và một Pot của Brasil (1866 – 68) dựa trên một bài thơ của Keats, dạy cho chúng ta làm thế nào để thương tiếc một cách đúng đắn và vị tha trước cái chết bất công của người thân. Và vân vân …, thông qua phạm trù đạo đức một cách qui mô đặc biệt, những đề tài tâm lý và Kinh thánh.

Nếu Humt không thành công trong việc phục hồi truyện kể tới một vị trí cao mà nó đã được hưởng trong nền nghệ thuật trung đại – đã không có những người theo ông và vào lúc ông nhắm mắt thì ông đã được xem như người qua đường bởi những người sành sỏi – nghệ thuật trong cách biểu thị này, tuy nhiên, là một lời phát biểu đặc biệt tới sự khao khát của một họa sỹ đã tạo ra một nghệ thuật tâm linh.

Nguồn “The Catholic Register”