DI THẢO SỐ 27: TÁM VIỆC CẦN LÀM GẤP

(Tế cấp bát điều) (*)

(Ngày 20 tháng 10 năm Tự Đức 20, tức ngày 15 tháng 11 năm 1867)

Tôi Nguyễn Trường Tộ xin đem những điều tạm thời cần phải làm để giải quyết những việc khẩn cấp thưa rõ như sau:

Trộm nghĩ đến cái thế lớn trong thiên hạ cũng giống như con người ta vậy. Con người từ thuở nhỏ rồi đến tuổi thiếu niên, tráng niên đến già lão kể là một đời. Phàm những việc làm lúc nhỏ, đến lúc thiếu niên mới biết những việc làm ấy là đáng buồn cười. Những việc làm trong lúc thiếu niên, đến tuổi tráng niên mới biết đã có nhiều lầm lạc. Duy những việc làm trong thời tráng niên mới là những việc làm định đoạt sự đựơc mất. Nếu những việc làm ấy thành đạt được, mới có thể xóa bỏ những lỗi lầm trong thời thơ ấu và để lại hiệu dụng cho lúc tuổi già. Như thế mới làm tròn bổn phận con người.

Vận hội trong thiên hạ cũng thế. Những việc làm thời xưa chỉ đủ đem lại những nhu cầu cần thiết cho nhân loại, nhưng chưa đủ tập họp để làm nên công dụng hay ho gì. Những việc sửa sang giúp đời trị thế, cũng chẳng qua thời thế lúc bấy giờ phải làm như vậy, mới đủ dùng được như vậy mà thôi. Nhưng đến đời sau xem lại, những việc làm ấy không khác nào trò nghịch đất khi còn bé.

Người thời nay phần nhiều không hiểu được sự thế xưa nay đời đổi ra sao, cứ ca tụng thời xưa, cho rằng đời sau không thể nào bằng được. Làm việc gì họ cũng đều muốn đi ngược lại theo xưa. Bọn Tống Nho sở dĩ làm hại đất nước, làm đất nước hèn yếu không phát đạt đều do tư tưởng này mà ra cả.

Đem thế hệ ra mà bàn, chắc con cháu không được chê bai ông cha mà phải đem những việc làm của tiền nhân ra ca ngợi. Điều đó về lý thì cũng đúng. Nhưng nếu bàn về việc phải làm thức thời, mà bảo rằng tổ tiên xưa nghèo nay ta cũng phải nghèo không được bắt chước kinh doanh làm ăn, tổ tiên xưa là thường dân, nay ta cũng phải làm người dân thường, không được học hành để mưu cầu quan chức. Thế chẳng đáng buồn cười lắm sao? Người xưa làm cung tên để chống giặc, sử dụng giỏi có thể thắng. Nhưng nếu nay đem ra đối địch với đại pháo thì cung tên cũng chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh khỏi thua bại. Suy một việc này, bao nhiêu việc khác cũng thế. Tại sao người thời nay cứ rảnh rang giảng giải luận bàn, bắt chước cái trò chơi trẻ con đó? Như thế có được gì chăng cũng chỉ là dùng tạm, ích gì cho tuổi trưởng thành và tuổi già được? Nước ta từ triều Lê trở về trước cũng như con người ở tuổi đồng niên vậy, từ Trần trở về trước như tuổi thiếu niên vậy, đến nay mới là tuổi cường tráng sức lực dồi dào, có cơ hội làm được nhiều việc. Thời đại nào có chế độ ấy. Con người sinh vào thời đại nào cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa. Rồi dần dần thời thế đổi đời, làm sao có thể mỗi mỗi ôm giữ phép xưa mãi được?

Con người ta ở tuổi ấu thơ suy nghĩ không quá khỏi cái sân nhà, dạo chơi không ra khỏi vườn nhà, chưa tính kế gì lâu dài, chưa mong cầu cái gì sâu sắc, chưa ra khỏi xóm làng để dong ruổi bốn phương, đến lúc trưởng thành mới nghĩ đến chuyện rời nhà cửa mà dấn bước tang bồng. Thành hay bại là ở thời kỳ này vậy.

Xét ra phong khí vận hội trong thiên hạ, từ khi bắt đầu đến hồi kết cuộc, khác nào một đời người. Một nước ví với thiên hạ, cũng giống như một người. Từ xưa đến nay các nước không nào không như thế. Nói chung các nước nổi tiếng ở phương Đông như Trung Quốc, Mông Cổ, Ả Rập, Ba Tư tuy đã có lần quấy động xâm lấn các nước chung quanh nhưng cũng tựa hồ như những anh láng giềng đánh đấm lẫn nhau thôi chứ chưa có khả năng dọc ngang bốn bể như người phương Tây ngày nay. Châu Mỹ cũng thế, trước đây ba bốn trăm năm các bộ lạc sống rời rạc chưa thống thuộc nhau lại, đến khi bị người phương Tây đánh phá mới thức tỉnh, ngược xuôi chống trả, từ đó quen thạo chiến đấu, hăng hái khai thác, dần dần đến ngày nay thành lập quốc gia, kiến thiết đô thị, tất cả đều tự lập được. Họ đã đến lúc trưởng thành. Xem thế thì thời thế vận hội trong thiên hạ đã đến lúc tiến dần đến thời tráng thịnh, tung hoành bốn phương. Giả như có một nước nào ngày nay muốn đóng cửa không tiếp khách để hưởng yên vui một mình cũng không thể được. Bởi vì ta không đến người, người cũng sẽ đến ta. Nếu ta không thể chận bước người tiến tới thì chính ta cũng phải cất bước tiến lên để làm cân bằng cái lễ qua lại với nhau. Không thế, người đến ta ắt sẽ yêu sách một số lễ vật đem về, mà ta thì không thể đến người để uống một chén rượu đáp lễ. Thế chẳng phải là bị khách lấn áp chủ sao? Ví như những bọn cướp, nếu bọn này không thể kêu gọi bè đảng đến đánh bọn kia, thì chắc chắn bọn kia sẽ dẫn đồng bọn đến đánh bọn này. Đó là thế tất nhiên. Chỉ khi nào bọn này có thể sang đánh được bọn kia, thì mới khỏi bị bọn kia đến đánh mình. Chỉ vì nay ta không thể phát huy vũ lực ra các nước chung quanh, nên mới bị các nước mang binh đến ta. Dù ta không chủ tâm đánh ai, nhưng cũng phải sửa sang biên thuỳ, siết chặt hàng ngũ trong nước, để có một lực lượng có thể đánh được người ta, nhưng chỉ chờ ai đến thì đánh mà thôi. Như vậy mới khỏi hoạn nạn.

Hiện nay chúng kết bè nhau sang đây, mở đường mà đến ngày một thêm nhiều. Người Anh đã xin nhà Thanh cho lập một quân cảng ở Quỳnh Châu là ý muốn gì? Y Pha Nho còn hậm hực chuyện cũ, chưa thôi dòm ngó. Tướng Pháp thì thường hỏi những người đi thuyền từ Bắc vào Gia Định xem động tĩnh của vua ta ra sao? Đã lập người kế vị chưa? Câu hỏi ấy có thâm ý chớ không phải không có lý do, cũng chẳng phải cảm tình chân thật tốt đẹp gì cả. Nay họ lại thấy người Anh áp sát đường phía Bắc nước ta. Như vậy nước ta chẳng khác nào mảnh đất Kinh Châu đang nằm trong cái thế tương tranh. Cho nên họ không khỏi có âm mưu như Khổng Minh đối với Tam Quận xưa kia vậy. Dù tạm thời có hòa ước cũng không thể trông cậy lâu dài được. Hơn nữa họ chưa một ngày nào bỏ quên con đường Vân Nam – Tây Tạng. Còn các binh thuyền của họ ở phương Đông thì lần lượt kéo về Gia Định để chiếm giữ thế trọng yếu. Họ sẽ làm gì đây? Điều đó cũng có thể đoán biết trước được, như tôi đã từng trình bày trong bài Lục lợi từ năm trước. Lại như trong nước ta, từ Quảng Nam trở ra phần nhiều có những bọn bất mãn lần lượt trốn vào Nam có ý muốn được giúp binh mã để âm mưu phế lập như Thạch Kính Đường đời Hậu Tấn. Ta đã có những chỗ sơ hở có thể xen vào, còn người Pháp thì từ lâu lo sợ cái thế lực lớn mạnh của người Anh ở phương Đông. Nay lại thấy người Anh sắp ra tay, họ sợ bị người Anh đoạt mất. Âm mưu của họ, như tôi đã nói trong tờ trình trước, là sẽ thi hành 5 kế độc (1. Giúp bọn làm loạn chia cắt nước ta. 2. Giả hòa ước rồi đánh ta bất thình lình. 3. Lập ngôi soán vị rồi chuyên quyền. 4. Mượn đường diệt giặc. 5. Lấy êm bằng cách hối lộ). Ta phải gấp rút đối phó. Ngày xưa người Anh lấy Ấn Độ và Hạ Châu (bán đảo Mã Lai) như thế nào thì ngày nay đối với ta, người Pháp cũng bắt chước như thế. Hãy thử xem mới trong vòng 6 năm, chân đứng chưa vững mà họ đã lấy được 6 tỉnh mau lẹ như vậy, thì sau mười năm dồn lại sẽ như thế nào đây? Đó là nói về chuyện cấp bách ở nước ta, nếu đem tình hình phương Đông ra mà bàn thì người phương Tây đều cho rằng bất quả 50 năm nữa chắc chắn phải thay cũ đổi mới. Giả sử có một vài người ngoan cố cứ muốn nằm dài ngủ mãi chắc chắn cũng sẽ bị họ quất roi cho thức dậy để sai bảo. Như năm xưa Ấn Độ là một bằng chứng.

Trong tờ nghị hòa năm trước tôi đã nói rằng người Nga từ Đông Bắc tiến về Đông Nam, Anh Pháp thì do Tây Nam tiến về Đông Bắc chúng đã bao trọn phương Đông rồi, gời đây sẽ cùng nhau tóm lấy. Nay kênh đào Xu Ách của Ai Cập hoàn thành, các nước phương Tây vừa mới hưng thịnh chắc chắn sẽ sửa soạn tay chân, nối gót đàn anh, mà quấy động can qua. Như thế liệu phương Đông có thể an nhiên vô sự được không? Nay bọn họ lại muốn họp nhau làm con đường phía Đông, từ phương Tây thẳng đến Quảng Đông. Người Pháp nay muốn đặt đường dây điện tín dưới biển từ Quảng Đông đến Cần Giờ, rồi từ đó qua Hạ Châu đến Tích Lan rồi tiếp tục nối liền đến phương Tây (Hiện đã có đường điện tín từ Tích Lan sang Tây). Người Nga đã có đường điện tín từ thủ đô vượt Trường thành ở phía Đông vào Bắc Kinh. Như vậy phương Đông có cử động gì không đầy một ngày người phương Tây đều biết hết để bàn tính với nhau. Lại như các đảo lớn thuộc phía Bắc nước Nhật và Mông Cổ, Ngoại Minh giáp với Triều Tiên đều đã nhập hết vào bản đồ nước Nga. Người Nga còn toan mở xa lộ bọc ra ngoài phía Đông Bắc sông Hắc Long, đóng thuyền duyệt binh tính muốn cùng Anh Pháp thả câu đánh lưới các nước trong vùng Biển Đông để chia nhau vơ vét hết lợi lộc. Người Pháp còn đang tính ngược sông Cửu Long chiếm Tây Tạng rồi sau đó phía Đông sẽ xuôi dòng sông Kim Sa xuống Tứ Xuyên vào giữa lòng Trung Quốc, phía Bắc sẽ dùng kỵ binh vượt Thanh Hải men theo phía Bắc Âm Sơn chiếm vùng thượng lưu sông Hoàng, từ phía Tây sẽ theo dòng Sở Hà vượt Nộ Giang đổ xuống, cướp lấy chặn đường phía trên của Miến Điện, rồi sang sông Tạng dòm ngó Mạnh Lạp Gia. Bởi vì con đường Tây Tạng bao gồm các vùng thượng du của phương Đông, nơi phát nguyên của những núi to sông lớn. Chiếm được nơi đây thì phía Đông có thế nắm đầu Trung Quốc, phía Tây thúc lưng năm xứ Ấn Độ, phía bắc trói tay các rợ Hung Nô còn mặt Nam thì Miến Điện, Xiêm La và nước ta đều là cửa ngõ ra vào. Như vậy liệu có thể cự tuyệt không cho họ mượn đường ra vào được chăng?

Về đường thuỷ, người Pháp tuy không giỏi bằng người Anh nhưng đường bộ họ chẳng thua gì người Y Pha Nho đối với các nước Nam Mỹ. Cho nên họ đã biết rõ con đường mặt sau nước ta có hai dải núi lớn, tứ núi Côn Luân chạy xuống, bao hai mặt Đông và Tây cảu dòng Cửu Long. Nước ta trở thành bình phong phía Đông, Xiêm La là thành luỹ phía Tây. Cả hai đều có thể mượn để sử dụng làm căn cứ sào huyệt. Bởi hình thế hiểm yếu trong thiên hạ, chưa có nơi nào hơn đây. Hơn nữa hai dãy núi chạy từ Bắc thấp dần về phía Nam (phàm các dãy núi nào chạy dài về Nam phần nhiều đều có khoáng sản) có nhiều nguồn lợi lâm sản và khoáng sản nhất phương Đông, đủ cung ứng kinh phí cho họ hưởng dụng. Cho nên vừa mới đến Gia Định, ngồi chưa yên chỗ, họ đã mưu tính ngay. Thực ra họ đã ôm ấp trong lòng từ trước khi đến đây, nên mới hành động mau lẹ như vậy. Còn nước Xiêm tuy đã hòa hiếu với Anh Pháp, nhưng vốn là nước giàu mà kém trí lực, nên hai nước vẫn luôn luôn rình cơ hội phỗng tay trên. Người Anh thì muốn chiếm trọn phía Tây để cho năm xứ Ấn Độ ở phương Đông được mạnh thêm nên mới đào kênh Ma Lục Giáp để thông qua Vọng Các. Người Pháp muốn thu trọn phía Đông, hợp với nước ta làm cửa ngõ, để củng cố căn cứ ở Tây Tạng, Vân Nam. Vì vậy mà họ hết sức bảo hộ vua Miên, để có thể thông với biên thuỳ phía Đông của Xiêm. Thế mà người Xiêm có mắt như mù chẳng rõ mối manh, tự cho là yên ổn có thể phó thác trọn đời cho hai nước. Mặc dầu chúng cũng có chút ít lo lắng, như cho người sang du học phương Tây, và mở các lãnh sự quán ở các thương cảng lớn (như Hương Cảng, Thượng Hải, Ba Lê Tư, Lông Đôn). Nhưng người Tây cho người Xiêm thiếu thông minh, chắc chắn không thể tiến bộ lâu dài được. Chẳng qua cũng chỉ là bắt chước học đòi như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ mà thôi. Nước Xiêm nay tuy muốn bỏ cũ theo mới, nhưng chính việc đó cho thấy cái quê mùa ngu ngốc của chúng. Chúng vốn muốn học cái thuật tung hoành để củng cố thế lực, nhưng chúng có biết đâu rằng hai tên chúa cướp kia mừng thầm, vì tài chủ của bọn họ đóng cửa tài then, là giữ của giùm cho bọn họ. Cho nên hai nước ấy vui mừng thấy nước Xiêm như món đồ trong túi, không sớm thì muộn cũng lấy được thôi. Nếu không ai ôm trọn vào một tay mình thì lấy dải Mê Nam cắt chia đôi cho nhau. Ý nghĩ của bọn họ đã định như vậy. Còn bốn nước lớn thuộc vùng Tây Vực như Ba Tư, A Phú Hãn, Ti Lộ Chi, Ả Rập thì Ả Rập tuy là con đường qua lại, nhưng đất xấu dân nghèo, lại quen tính cướp bóc khóc thuần dưỡng, hơn nữa nghe đến đạo Hồi là người ta không dám gần gũi. Cho nên từ lâu người phương Tây chán bỏ, chẳng qua chỉ dùng nó làm con đường tiếp viện cho đường phía Đông mà thôi.

Còn ba nước kia như Ba Tư v.v… xưa nay vốn là bãi chiến trường, nay đã kề sát phía Nam người Nga. Ngừơi Nga mới từ Lý Hải (biển Caspienne) đóng thuyền tập binh để thọc vào phía Bắc Ba Tư, lại từ sông A Mẫu (Amou-Daria) đào đường ăn thông với phía Tây núi Thông Lĩnh (Himalaya), phía Tây thì cướp mặt Đông của biển Đỏ dùng làm cái ao của phía Nam. Như vậy ba nước này chẳng khác nào Tam Xuyên của Tần ngày xưa, nó như cái bờ ao của nước Nga vậy. Anh Pháp cũng khó đóng vai như Tề Sở mà tranh lấy đất Trung Sơn của Tấn. Đó là do ở địa thế xa gần mà ra.

Ấn Độ đã thuộc Anh không phải bàn nữa. Miến Điện và Xiêm La là thân cá chậu. Còn lại nước ta và Nhật Bản coi như đô thị lớn của vùng Biển Đông, Triều Tiên bên cạnh như một cái phố nhỏ chỉ đủ cho bọn chúng điểm tâm buổi sáng, chẳng quan trọng gì. Nhật Bản tuy cứng mạnh hung hãn, nhưng các tiểu hầu phân chiếm từng mảnh ý chí sức lực không đều nhau, trở ngại cho việc tiếp ứng. Hơn nữa nước này bốn mặt bể bao bọc, chẳng có hàng xóm láng giềng với ai, rốt cuộc cũng khó tranh hơn với ba bốn địch thủ lớn, chuyên vẫy vùng trên biển. Mới đây Hợp Chủng Quốc lại mở đường xe lửa qua phía Tân Kim Sơn (San Francisco), thuyền bè của họ phần nhiều tụ tập về đây. Họ còn tính đào một con kênh tại eo đất nước Mễ Tây Cơ để thông ra Thái Bình Dương. Vì nước này giàu có nhất thiên hạ mà trong 80 năm trở lại đây các nước Nga Anh Pháp không dám xem thường. Sức mạnh của nước này chưa nước nào hơn được. Nay người Nga lại bán cho họ một phần đất phía Bắc, Mễ Tây Cơ lại phụ họa theo ở phía Nam thì nghiễm nhiên đã trở thành một địch thủ to lớn. Hợp Chủng Quốc xưa nay đối với thế giới có tiếng là “Ông già hòa bình” nhưng nay họ đã bỏ đường lối ấy. Họ lại thấy Nga và Pháp sắp rửa áo giáp ở Thái Bình Dương thì lý nào họ lại ngồi yên để xem miếng mồi ấy lọt vào tay ai. Chắc chắn họ cũng sẽ hươi gươm vác súng vào cái chợ lớn Trung Quốc mà đánh chén với các nước phương Tây. Còn nước ta và Nhật Bản như là hai con đường lớn của hai đầu chợ ấy, chắc chắn sẽ là nơi bọn chúng buông gánh nghỉ vai. Điều đó sớm muộn sẽ xảy ra không sao tránh khỏi.

Nhật Bản và Trung Quốc dần dần đã rõ cơ hội đó, nên Nhật Bản đã cho nhiều người sang các nước phương Tây du học, đồng thời để dò xét tình hình. Hiện có một hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba Lê và đã thiết lập ở đó một Đại học xá để phái người sang học. Nhà Thanh Trung Quốc trước đây có mời hai người Pháp ở Gia Định sang làm việc tại Thượng Hải (trong lúc chúng tôi đi Pháp). Nay họ lại đặt một viên quan tại thành Ba Lê (giám mục Hậu có tiếp chuyện với viên quan này) để trông coi việc mua và chuyên chở máy móc về nước. Viên quan này đựơc Triều đình nhà Thanh cấp lương thực mỗi năm 15 vạn quân (Viên quan này đã về Bắc Kinh). Họ còn mời người phương Tây đến thiết lập một xưởng máy lớn tại tỉnh Giang Tô. Thanh triều xuất cho những người này 25 triệu quan tự do sử dụng, lại mời các học giả phương Tây đến Bắc Kinh, như việc Khang Hy ngày xưa, dạy các môn thiên văn, địa lý, cách trí v.v… và cho tranh luận so tài với các văn thân Trung Quốc. Vua Thanh hiện có ra một đạo dụ rằng: “Nhiều văn nho cho việc học người nước ngoài là sỉ nhục. Còn theo trẫm thì không bằng người ta mới là nhục. Nếu học người mà bằng được người mới tỏ ra mình cũng có tài không thua gì người, khiến người không dám xem khinh mình, như thế có gì là nhục? Nếu không học kẻ dưới để cho người ta mãi mãi đem tài trí kiêu ngạo mình, thử hỏi đàng nào xấu hổ hơn!”. Trong đạo dụ ấy có dẫn rất nhiều sự lý để khuyên răn, chỉ tóm tắt đại yếu như vậy.

Vừa mới sắp sửa mở trường dạy học, các văn thân đã nhất tề dâng sớ lên nói: “Đường đường một nước Trung Quốc mà không có nhân tài làm thầy được hay sao phải đi rước người Tây dương về làm thầy mình, không sợ thiên hạ chê cười?” Triều đình trả lời: “Đã nói thế tức cũng có tâm huyết. Vậy một mặt cho những người trong liên danh dâng sớ ấy cứ mở trường quy tụ học sinh, dạy dỗ theo lối cũ của Trung Quốc. Thầy trò được cấp bổng y như trường kiểu phương Tây. Nhất thiết phải tiến hành không được rút lui. Một mặt mời các học giả phương Tây mở trường dạy theo phương pháp mới. Mỗi năm họp học sinh hai bên lại để khảo sát sự hơn kém”.

Ngoài ra nhà Thanh còn mời các kỹ sư phương Tây đóng thuyền máy lớn, cho người Hoa đi theo để học tập. Đó là những công cuộc chấn hưng của nhà Thanh hiện nay như vậy. Có thế mới hợp với cái lẽ tuỳ thời thay đổi cho đúng đường lối vậy.

Xưa nay phương Đông chưa nước nào ngạo mạn tự túc, chê khắp thiên hạ là mọi rợ như nước Trung Quốc đã ngạo mạn. Thế mà nay họ đã bác bỏ luận điệu của các nhà Nho xưa, chẳng đếm xỉa lời nói của người thời bấy giờ, hăng hái tu chỉnh được như thế, là vì hiểu rằng đối với dân chúng chỉ có thể cùng vui hưởng khi thành công, chứ không thể cùng mưu tính lúc mới bắt đầu được. Hơn nữa tình thế đã đến lúc không thể không làm. Nếu biết sẽ phải lệ thuộc người, bị người sai khiến, thì chi bằng hãy đãi họ như khách. Nếu không chịu coi nhau như chủ khách, chắc chắn sẽ bị người sai khiến. Chỉ có một trong hai trường hợp ấy thôi.

Phàm kẻ có trí trong thiên hạ là người không phải không có lầm lạc ban đầu, mà là người biết thay đổi hành động, không phải không có sai lạc, nhưng biết sửa điều sai thành đúng đắn, không xấu hổ vì phải sửa đổi cái cũ, mà xấu hổ vì không làm được điều gì mới, không nhìn lui dĩ vãng, mà chuyên mưu việc tương lai, không nghĩ đến bảo toàn tên tuổi riêng mình, mà lo ích lợi chung cho đất nước. Thế mới gọi là trí. Nếu sợ rằng trước kia chủ trương sai lầm mà nay phải sửa đổi công việc thì sẽ bị người chê cười nên xấu hổ không làm, thế là không biết chính vì chịu thay đổi chủ trương mới phải mãi mãi cam chịu sai lầm. Như vậy có đáng hổ thẹn hơn không? Chính vì vậy mà nhà Thanh đã tỉnh ngộ, mạnh mẽ, gấp rút tiến hành theo đường lối mới.

Những điều trình bày trong nửa đầu của đoạn trên là những điều cuối trong bài “Phân hợp luận” của tôi. Nay xin nói thêm về tình thế cấp bách hiện thời để thấy những bọn âm mưu dòm ngó nước ta từ bốn phía kéo đến rồi. Thật là nguy cấp! Tuy nhiên, nếu ta đón trước thời cơ làm hết sức mình cũng có thể cứu vãn được.

Vì vậy tôi xin kính cẩn đem một vài điều trong bài Tế cấp luận trình bày sơ lược như sau:

Điều thứ nhất: Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị.

(Mười khoản dưới đây so sánh sự khó và dễ giữa văn và võ. Đó là nói chung các nước chuộng võ chứ không phải chỉ riêng nước ta)

Việc võ thực là rất khó! Học khó, hành khó so với văn gấp mấy lần. Xin phân biệt như sau:

1. Cái khó của môn học này là người học võ học các sách binh thư đồ trận. Học sách xong phải thể nghiệm tập tành. Học cái gì tập luyện cái nấy. Óc phải sáng suốt, cái nhìn phải nhanh như thần mới nắm vững được cốt cách mau lẹ. Không như phép làm văn, câu nào chữ nào thấy không xếp đặt được thì tìm chữ khác câu khác điền vào.

2. Kẻ học võ học các phép động tĩnh đánh đâm đúng chân truyền mới không sai khi ứng dụng. Không như kẻ tập văn chương trau chuốt lời suông chuyện cũ, du di chữ nọ xọ chữ kia.

3. Kẻ học võ đối với những nơi hiểm yếu có tính cách sinh tử, những hình thế có tính cách quyết định thắng bại, phải giả tạo hiện địa, lập trận đồ, đích thân luyện tập (binh pháp phương Tây như thế) mới thể nhận được rõ ràng. Không như kẻ học văn chỉ nghiên cứu sách vở trên mặt giấy mà thôi, không thể nào xuất thần trở lại cái thế giới thượng cổ để khảo sát việc xưa.

4. Kẻ học võ quan sát thành luỹ đồn bót xem mặt nào có thể đánh được giữ được, hướng nào có thể ra đựơc vào được, phải chính mắt xem xét rõ ràng hình thế địa lý và ghi nhớ trong lòng (võ quan phương Tây như thế). Không như kẻ học văn làm thơ phú ca điệu, có thể thả tâm hồn vào cái thế giới mông lung hoảng hốt.

5. Những ai học võ đều phải sử dụng khí giới, biết nghệ thuật chế tạo, ý chí sức lực hết sức nhọc nhằn (người phương Tây cho điều này là quan trọng), phải suy lường tính toán mới quen thạo được. Không như văn chương, một cây bút, một tờ giấy, nằm ngửa trên giường cũng làm được.

6. Những ai học võ là theo cái nghiệp xung phong hãm trận, vào sinh ra tử. Cho dù chưa xảy đến cho mình nhưng trước sau không sao tránh khỏi. Tinh thần của họ dũng cảm thay, nhưng về tình cảm họ không khỏi lo buồn. Còn kẻ theo nghiệp văn tiến thủ được thì tốt, không cũng vô hại, chẳng gặp một sự hiểm nguy nào. Đó là chỗ khác nhau về tâm tình buồn vui của hai bên.

Sáu điểm trên mới nói về thời kỳ học tập, nếu luận về thực hành lại càng khó hơn nữa.

1. Phàm ở trong hàng ngũ, khi đi hành quân ai cũng phải vai đeo vác những vật nặng nề. Lại phải đi tuần canh gác, ngày có việc ngày, đêm có việc đêm, không lúc nào rảnh, người nào việc nấy rất mệt sức nhọc lòng. Không như văn, có việc thì làm, không việc thì thôi. Có việc nhưng tạm gác lại cũng được, hay chước giảm mà hóa ra không phải làm cũng được. Chỉ vận dụng miệng lưỡi, trí óc, cho dẫu có nhọc cũng chỉ nhọc tâm suy nghĩ mà thôi.

2. Con nhà võ khi ra trận tên đạn trước mặt, gươm giáo sau lưng, tiến lên thì chết vào tay giặc, thoái lui thì luật nước không cho. Lệnh xuất quân đã ban thì quên nhà, trống thúc quân đã giục thì quên mình. Tranh tính mạng trong tích tắc, định thành bại trong từng giờ. Không như con nhà văn: Hoa rụng nơi tụng đình, đàn cầm treo ngang án sách, cứ theo giờ giấc mà giải quyết công việc, theo hoàn cảnh mà xử lý, trưa ăn, tối nghỉ, hết rày còn mai, việc được thua thì quyết định không đầy một khắc, còn việc thăng giáng thì kéo dài đến vài ba năm, dễ bề chạy vạy.

3. Con nhà võ bắc cầu đắp đường, dựng đồn lập luỹ. Công việc của họ làm thiên biến vạn hóa. Nương theo địch mà tìm cách thắng địch, tuỳ theo địa thế mà lập cách phục binh, xuất quỷ nhập thần không theo một phương thức sẵn có hay một khuôn khổ nhất định. Cho nên cái kỳ diệu của nhà binh không thể báo trước được. Còn con nhà văn có thuế thì thu, có việc thì xử, có lệnh vua thì thừa hành, có lệnh quan thì tra cứu. Phàm làm việc gì cứ theo luật quyết định là xong cả.

4. Kẻ theo nghiệp võ khi lâm trận, bốn bề đều là người tranh giành với ta, là cừu địch với ta, nghịch lại ta, muốn giết ta. Nếu vì việc công mà sai sẩy thì cái chết đến sẵn trước mặt, bao nhiêu công lao đều bỏ hết, cả đến tính mạng cũng hoàn không, nói gì đến đất nước. Chính vì thế người xưa đã bảo rằng “Kẻ làm tướng xem tấm thân thật chẳng khác một cơn say” vậy. Đó là những gian nan quan hệ biết chừng nào? Kẻ theo nghiệp văn đi đâu đến đâu cũng thấy toàn là con dân của mình, chính quyền của mình, thường tình thuận cảnh, nhất hô bách ứng, sai bảo dễ dàng. Có ra lệnh cho cấp dưới thì đó cũng là bổn phận cấp dưới phải làm, mà làm cũng dễ. Ban ngày đi đâu cũng chẳng e ngại, tối ngủ yên giấc suốt đêm. Dù có vì công việc mà mắc tội phần nhiều cũng được khoan hồng chưa đế nỗi tan thân mất nhà.

Mười khoản trên đây, mới nói đại khái cũng đủ thấy cái học và hành của đôi bên khác xa nhau như thế nào. Nếu nói về công lại còn quan trọng hơn nữa.

Điều làm cho bọn giặc loạn sợ là uy vũ. Người xưa có nói: “Kinh Xuân Thu san định xong làm cho bọn tôi loàn con nghịch phải khiếp sợ”. Nay thử đem Kinh Xuân Thu treo trước cửa bọn ấy xem chúng có khiếp sợ không? Nước ngoài sở dĩ không dám xâm phạm ta là vì ta có vũ lực mạnh. Người xưa bảo: “Một lời nói hơn cả mười vạn quân”. Nhưng nếu ta không có uy danh làm cho địch nể sợ trước, mà chỉ ngâm một bài thơ, nói một câu chữ có thể đuổi được giặc ư? Cho nên khi quốc gia hữu sự, mà không có vũ công trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, sĩ dân, chính trị, pháp luật phải dâng hết vào tay địch. Chừng đó liệu bên văn có cai trị được không? Thử xem Gia Định ngày nay thì rõ. Bọn chúng tham khảo áp dụng luật lệ sẵn có của ta mà cai trị sai khiến dân ta. Thế thì chính trị luật lệ của ta có hay ho cũng chỉ để giúp cho giặc mà thôi. Phải có vũ lực như thần mới đuổi được chúng. Như Tín Địa ở Tây dương dùng chiến thuật tập kích thắng giặc, Mã Thần ở Đông dương dùng thuốc độc giết giặc, Tô Lộc (Sulu, quần đảo giữa Phi Luật Tân và Bornéo) ở Đông dương liều sống chết với giặc mới bảo tồn con cháu, thi hành nền chính trị của ta được.

Bao nhiêu đó đủ thấy rằng cái lễ nhạc của bên văn phải chờ có vũ lực trước rồi sau mới thi thố được. Văn ví như chiếc áo đẹp, vũ ví như khí huyết cường tráng. Người không có khí huyết thì chết, có áo tốt cũng vô dụng. Cho nên theo chế độ làm quan ở phương Tây, bên văn ngày nào cai trị dân thì ngày ấy là quan. Một đàng quan là do dân lựa chọn người đức hạnh cử lên, một đàng do những người ở các khoa ra ứng cử. Bất luận ở cấp bậc nào, khi Triều đình cho về hưu thì cũng trở lại làm dân mà thôi. Là vì việc hành chính mình trị đã có quy tắc định sẵn cứ theo đó mà thi hành, không có gì gọi là lập công cả. nếu có làm đựơc gì lợi ích, sửa chữa tệ hại, thì cũng là việc bình thường, như những người không làm quan ở nhà kinh doanh sự nghiệp mà thôi, không phải do mạo hiểm lập được công lao gì cả. Còn bên võ nếu lập được một công với quốc gia thì được định thăng một cấp, hưởng mãi số lương cấp bậc đó. Giả sử sau có tội cũng chỉ phạt tội đó và không cho thăng cấp mà thôi. Còn lương bổng cấp bậc cũ không bị nhà nước tước bỏ. Bởi vì ngày trước đã đổi sinh mệnh mà lập nên công. Các nước phương Tây quý trọng vô công như thế mới có thể giong ruổi khắp nơi, ngang dọc bốn biển. Công lao nặng thì báo đáp được nhiều.

Nay nước ta nếu không gấp rút sửa đổi theo mới, khiến việc giáo dục võ bị ngày một suy, lòng người ngày một yếu, thì lấy gì chống giặc bảo vệ nhân dân?

Nay tôi xin hãy đem các sách binh thư xưa nay (tôi có chút am hiểu việc này) ra xét lại. Phàm sách nào, chỗ nào nghĩa lý không xác đáng, khí giới lỗi thời, kỹ thuật không hiệu nghiệm, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp và tất cả những gì thi hành sẽ không kết quả phải bỏ hết, chỉ lựa lấy những gì hợp với ngày nay, liên quan đến tình thế nước ta, mỗi mỗi đưa ra thực nghiệm rồi soạn thành sách đưa ra học tập. Tôi đã đọc nhiều binh thư và các sách linh tinh khác nói về việc binh, mới biết phép chiến đấu xưa nay khác nhau xa lắm. Chỉ có một điểm về mưu trí trong sách xưa là còn có thể đem ra biến hóa mà dùng cho ngày nay mà thôi. Vì vậy phải gấp rút soạn lại để khỏi rối trí người học. Thêm vào đó hãy mời những bậc có tên tuổi, những người có tài hay chước lạ, có kỹ xảo, biết quyền biến, cùng nhau khảo cứu viết phụ thêm vào sách ấy. Ngoài ra cũng phải mua các sách binh pháp thuỷ bộ của phương Tây dịch ra để tham khảo học tập. Đồng thời rước những người phương Tây giỏi về quân sự (việc này khi về sẽ trình sau) phối hợp với võ quan ta huấn luyện binh sĩ mỗi ngày. Còn binh pháp của ta thì sẽ thong thả dạy riêng ở một nơi khác. Đối với quan võ từ cấp bậc ngũ trưởng trở lên bắt buộc phải biết chữ để đọc binh thư. Mỗi tháng ra một đề bài câu hỏi gởi đến các trường võ bị hàng tỉnh để sát hạch. Ví dụ như:

1. Giả sử địch đánh thành, ta giữ hoặc địch giữ thành, ta đánh. Nếu địch dùng phương pháp này, ta phải dùng phương pháp nào để phá? Địch dùng phương pháp kia, ta phải đối phó bằng phương pháp nào? Về phương diện đánh thành giữ thành có rất nhiều phương pháp và kỹ thuật nay chưa đề cập được (Chờ sau khi thi hành, tôi sẽ lần lượt soạn gởi).

2. Vẽ bản đồ trận thế khi lâm trận (Phải hiểu rõ địa lý của binh pháp mới ra đề này được). Giả sử ta và địch đang ở những điểm cao thấp, xa gần, trước sau, tả hữu, núi đồi hoặc thung lũng, đồng trống hoặc sông hồ ra sao và như thế thì phải bố trí tính toán như thế nào?

3. Về chiến luỹ đồn bót: Chỗ nào có thể lập đồn trữ lương, dựng trại lính, chỗ nào có thể phục binh, chỗ nào đặt ổ súng, chỗ nào có thể tiến lùi, ra, vào? Địa hình như thế nào thì lập đồn hình tròn, hình ngôi sao, hình mũi nhọn, hình chữ khẩu, đồn gài bẫy, đồn tạm, đồn di chuyển, đồn dài, đồn có góc, đồn nghiêng, đồn hai tầng, đồn ba mặt, đồn để phóng hỏa đốt địch, đồn để địch sập hầm, đồn ở biển, đồn trên núi, đồn ở hồ, đồn ở sông, đồn ở ao, đồn ngoài thành, đồn hình cái hoa, đồn có hai lối đi, đồn có đặt máy nơi vách (các loại đồn trên đây tôi dùng theo binh pháp mới). Ngoài ra các loại đồn vẽ trong sách cổ, hãy nhận xét xem cái nào ngay nay còn thích hợp, mỗi mỗi phải hỏi rõ ràng để xem trình độ học thuật của họ đến đâu.

4. Về tình hình địch và thế lực binh lính: Hai điều này biến hóa đổi thay luôn không nhất định và do người làm tướng vận dụng trí lự xét đoán. Tuy nhiên cũng nên hỏi qua để đoán xem có tài năng làm tướng sau này.

5. Nên gấp rút phái người giỏi về địa lý binh pháp đi khắp trong nước để vẽ rõ bản đồ từng nơi một. Cũng phải lựa ra trong các sách viết về hình thế nước ta từ trước đến nay, trong đó có mô tả về núi sông hồ biển suối nguồn thung lũng đồng nội, những hình thế lồi lõm cao thấp, những địa thế có tính cách sống chết, những chỗ hiểm nghèo, nơi quay mặt, chỗ dựa lưng (Tôi thấy lối vẽ bản đồ của ta thật quá sơ sài, xem bản đồ ấy không bằng đích thân đến nơi thấy tận mắt), đồng thời mô tả sự thay đổi về khí hậu, thời tiết ráo hay ẩm, đó cũng là những yếu tố quan trọng đối với việc hành quân. Phải vẽ và chú thích rõ ràng rồi căn cứ từng khoản mà khảo sát kỹ lưỡng.

6. Phải đem những sách về binh mưu kỹ thuật lựa lấy những cái thích hợp với binh pháp đem ra biến hóa mà áp dụng thử. Bởi vì tướng giỏi xưa nay không ai không tinh thông mặt này, nên phải đem ra khảo hạch để mở rộng thêm mưu trí.

Sáu khoản trên đây là những điều huấn luyện quân sự lúc bình thường. Còn khi ra trận, binh sĩ có vui vẻ hăng hái hay không là do lúc bình thường ta có tạo được tình cảm gắn bó ân nghĩa với nhau hay không. Nếu binh sĩ không có tinh thần chiến đấu thì dù có những phương pháp hay như trên cũng trở thành bánh vẽ.

Tôi thấy các binh sĩ phương Tây đã giỏi về quân sự mà trước khi hành quân ai nấy nhảy nhót reo hò như sắp được đến nơi vui sướng. Tinh thần binh sĩ như vậy làm gì không chiến thắng? Bởi binh lính của họ đều trẻ tuổi, chưa có gia đình, tính tình hiếu động không quyến luyến vợ con. Nếu bị thương hay tàn phế sẽ có những ngôi nhà xinh xắn cho họ ở. Như tại thành phố Ba Lê có một ngôi nhà đồ sộ rất đẹp ở đó có một cái tháp cao hơn tất cả các tháp trong thành phố, cả tháp đều mạ vàng. Ở các thành phố khác cũng có những ngôi nhà như vậy. Các tráng binh tại ngũ đều ở trong những cơ sở kiến trúc đẹp đẽ chắc chắn không khác nào dinh thự của các đại thần trong sáu Bộ. Ngoài ra còn có vườn hoa để họ vui chơi giải trí. Ở các nước phương Tây mỗi thành phố đều có những vườn hoa như vậy. các thương phế binh còn được cấp dưỡng ăn uống đầy đủ và được hưởng lương suốt đời y như lúc còn tại ngũ chưa bị tàn tật vậy. Có thừa thì đem chu cấp cho cha mẹ anh em của họ. Nếu ai có gia đình mà tình nguyện nhập ngũ thì lương cao hơn để có thừa mà phụ cấp cho vợ con họ. Tôi thấy binh sĩ của họ lương cao nhất là 15 đồng, thấp nhất là 4 đồng một tháng. Đó là không kể hàng ngày, theo tiêu chuẩn, được cấp phát nào rượu, thịt, bánh, đường, trà, cà phê, muối, dầu, dấm, rau quả, mỡ. Nếu vì nước hy sinh, vợ sẽ được lãnh lương chồng suốt đời. Về cư xử, ngoài kỷ luật nhà binh nếu tướng tá sĩ quan nào lạm dụng quyền hành sĩ nhục hà hiếp ngược đãi binh sĩ, binh sĩ có quyền giết chết. Xem thế đủ biết binh sĩ được ưu đãi là dường nào! Tướng quan khi hành quân ra trận thì đi trước binh sĩ. Có ai đau ốm thì họ chia ngọt sẻ bùi, tình đối xử gắn bó hơn sơn keo. Chỗ ở của sĩ quan cũng như chỗ ở binh lính. Sĩ quan còn nhường chỗ tốt cho lính, chăm nom, săn sóc lính còn hơn bản thân họ. Đó là những điều chính mắt tôi trông thấy. Ngoài ra còn nhiều ưu điểm không thể kể hết.

Đối với binh lính còn như thế thì đối với cấp tướng tá sĩ quan ân tình đối xử của quốc gia còn gấp bội hơn nữa. Chuyện đó không cần phải nói. Như lần này hai phái viên trông thấy có một viên quan ba từ Gia Định về Pháp. Thuyền thiếu một buồng khiến viên sĩ quan nằm ngồi không được thong thả. Chủ thuyền thấy vậy cấp thêm cho viên quan nọ mỗi tháng 60 quan, họ giữ lễ mà đối xử như vậy đó.

Quan võ mãn hạn về hưu cũng được ăn lương như còn tại chức. Nếu vì nước hy sinh cũng vậy. Quan văn quan võ mãn hạn về hưu đều y theo lệ này. Ý cho rằng họ sẽ sống nhờ đồng lương không phải cấy cày vất vả. Các quan trong lúc còn khoẻ mạnh chấp hành mệnh lệnh quốc gia, nay đi xứ này mai đổi sang xứ khác, không kể đến thân mình nói gì đến việc mưu sinh để nuôi vợ con. Tất cả chỉ nhờ vào đồng lương mà thôi. Dầu là kẻ làm thuê đi nữa đã có cơm ăn còn phải có tiền mướn huống chi là quan. Nếu mãn hạn về hưu, là lúc tuổi già sức yếu, mà quốc gia ruồng bỏ họ như thứ ngựa già trâu yếu, thì còn khuyến khích được ai ra làm việc nữa?

Phàm các quan văn cũng như võ ai có tội gì thì phạt tội đó, chứ không trừng phạt bằng lương bổng. Đại phu không bao giờ bị ghép tội hình, không làm khổ nhục thân họ. Quan chức phần nhiều được thăng hơn phạt giáng. Nếu có lầm lẫn thì cho đái công chuộc tội, trung tín và trọng lộc như vậy đó.

Quan chế nước ta phần nhiều ngược hẳn lại, đối với binh lính lại còn tệ hơn. Cấp dưỡng cho người ta không đủ sống một cuộc đời bần hàn, thế mà đòi hỏi người ta phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng để báo đền! Đối xử với người ta như tù đày nô lệ, mà muốn người ta xả thân xem nhẹ cái chết! Tục ngữ có câu: “Nhất tử nhị binh” (một là chết hai là làm lính). Câu nói đó đủ cho thấy công luận trong dân gian như thế nào, không cần phải chỉ ra từng việc.

Nay xin Triều đình hãy sửa đổi dần dần, chọn lấy tráng binh tuổi từ 20 trở lên chưa có gia đình. Ngoài ra phải thải bót binh lính già yếu. Bớt đi một nửa số lính, lấy số lương cấp gấp đôi cho số tráng binh còn lại.

Cứ xem năm trước Anh Pháp đánh Bắc Kinh chỉ có hai vạn năm nghìn quân, thì đủ biết binh cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều. Người xưa nói: “Đông một ngàn người mà không thiếu lương, muôn người tụ lại mà không ai không có việc”. Vậy hà tất phải cho đông? Phàm binh lính hãy để cho họ chuyên luyện tập, mà không sai làm những việc tạp dịch khác, như binh lính các nước phương Tây vậy. Nếu nhà nước có công việc gì cần thực hiện, phải dự trù trước một phần ngân khoản, rồi bắt các dân binh và bọn tù làm. Ví dụ như trước đây xã thôn có 60 lính thì nay đã giảm đi một nửa số cho về làm dân binh. Những người này ngày thường ở nhà chuyên lo việc làm ăn, tuy nhiên cũng được chia thành đội ngũ có tên trong sổ bộ. Các đội trưởng, ngũ trưởng chỉ đặt tên chứ không có quyền không hưởng lương. Ngày nào có việc công thì các đội ngũ dân binh được gọi ra lãnh lương làm việc, xong việc lại hoàn dân. Nếu có nhu cầu quân sự thì gọi ra làm công việc vận tải khiêng vác. Còn binh lính chính quy thì hàng ngày chỉ chuyên lo luyện tập quân sự để ra trận tác chiến mà thôi.

Về lương thực cũ xin đổi dần bán ra cho dân, đến mùa lúa mới thì mua vào. Nếu để binh lính ăn gạo cũ sẽ thiếu bổ dưỡng mà còn sinh bệnh. Việc bán mua như thế này có lợi lớn. Vì nhân lúc giá gạo cao mà bán ra nhà nước sẽ có lợi, lúc gạo rẻ mua vào lính sẽ được ăn gạo ngon. Hơn nữa khi gạo cao bán ra mà giảm giá chút ít cho dân thì dân cũng được lợi.

Về sĩ quan điều khiển cũng phải giảm bớt nửa số. Bởi vì điều cần yếu là binh lính phải một lòng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, chứ không cần phải nhiều sĩ quan kềm chế họ. Như binh lính Nhật Bản, binh lính tự dàn trận tác chiến mà không đợi phải có người sắp đặt cho. Quan võ cần giỏi chứ khôgn cần nhiều người dở. Nay một vệ sửa đội lại còn một ngàn người, một đội còn một trăm người và chỉ cần một chánh một phó quản vệ cũng đủ điều khiển. Bởi vì quan võ có tài, dù nhiều việc cũng thừa thì giờ giải quyết, còn bất tài thì chính bản thân cũng không sắp xếp được, nói gì đến vịêc quản lý điều khiển người khác. Cho nên phải thận trọng lựa chọn quan giỏi và thải bớt quan dở, để lấy số lương của hạng này cấp thêm cho các quan giỏi như thế mới thỏa đáng. Nếu những quan không có khả năng, dù họ là con cháu công thần, con nhà tập ấm, hoặc do gặp may mà có công chứ không phải do thực tại, thì chỉ nên cho họ tước lộc ngồi không mà hưởng thôi, đừng để lạm quyền hạnh sự, di hại sẽ không ít.

Đến như người tướng điều khiển quân binh là hạng người rất khó kiếm. Bởi vì đó là hạng người có trí thuật vượt hơn người thường, không thể chỉ khảo hạch một lần mà phải hết sức phân biệt nghiệm xét mới được. Đúng như người Nhật nói: “Những nghị luận trong thời bình không đủ để đánh giá người anh hùng trong thời chiến”.

Những điều kể trên là những điều cần yếu, phải học tập theo cách đó mới đủ sức điều khiển quan binh, và Triều đình cũng phải hậu đãi quan binh như thế để sử dụng họ khi hữu sự. Còn về việc chỉnh đốn uy thế quốc gia, xin có mấy khoản sau đây:

1. Phải lần lượt xem xét các địa hình, chuẩn bị xây đồn đắp luỹ để khống chế những chỗ quan yếu (khoản này tôi cũng khá hiểu). Trước tiên từ Kinh thành trở ra Bắc đến các cửa biển Quảng Yên, phải xem xét thật rõ địa hình theo lối mới, xây cất đồn luỹ theo kiểu mới. Lại phải chở đá về xây hai bên cửa biển theo hình quanh co và chất đá cho nhiều, để dành dùng khi hữu sự. Về mặt Bắc giáp với nội địa Trung Quốc tại những nơi có cửa ải, có các nhánh sông từ nội địa Trung Quốc chảy vào nước ta phải cất thêm đồn luỹ để ngừa loạn đảng trở về. Những đồn luỹ mới cất phải có lính ngày đêm canh gác cẩn mật như là có giặc đến vậy. Bởi vì cẩn thận là phải dè dặt trước, chứ khi hoảng hốt thì không còn cẩn thận được nữa. Nếu không phải quan quân giữ đồn tuyệt đối không ai được ra vào. Các quan quân ở trong đồn khi có việc cần tiếp xúc người ngoài, dù bà con bạn bè cũng chỉ được tiếp nơi nhà tạm ở ngoài đồn mà thôi. Mọi sự giao dịch khác cũng vậy. Còn bên trong đồn phải trồng cây cho nhiều theo phương hướng hình trạng của binh pháp, chỗ nào đọt cây nhô lên thì chặt cho bằng ngang với mặt tường của đồn… Tại những nơi gần cửa biển, mặt sau các đồn bên trong và đồn bên ngoài, mặt quay ra biển phải trồng chuối cây thành hàng thật nhiều thật dày mới được, lại phải trồng lau xen kẽ vào hoặc có thể cắm cây để cho những loại dây leo bò lên mới tốt.

2. Phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ có thể đối phó được với giặc, cất vào kho vũ khí để sử dụng khi hữu sự. Xưởng chế tạo phải giữ nghiêm mật. Nếu có những người trí thức chuyên môn về kiểu các loại đồn thành hay khí giới, phải đem thí nghiệm ở nơi bí mật. Còn về quân sự thông thường thì cứ diễn tập công khai, dân chúng có thể được học tập để tuyển dụng sau này.

3. Phải tích trữ vật liệu. Đồng thời trong tỉnh thành nơi nào có đất trồng thì trồng nhiều loại cây danh mộc để lấy gỗ. Trồng khắp hết trong thành càng tốt. Ở Kinh thành phải trồng cây hai bên đường cái; mỗi cây cách nhau một trượng. Trong vườn các dinh vệ thì cứ một trượng rưỡi vuông, bốn góc trồng bốn cây như hình bàn cờ, chọn trồng loại cây nào vừa ăn được quả, vừa dùng được gỗ. Còn các thứ cây tạp nhạp lau lách chặt bỏ hết. Bởi vì Kinh thành là nơi dân cư đông đúc, do đó có nhiều thán khí uế độc, dễ sinh bệnh tật. Cây có có tính hút thán khí mà nhả ra dưỡng khí, nhờ đó mới có sự điều hòa khiến tử khí trở thành sinh khí, bổ túc cho nhau. Hơn nữa một khi có nạn nước lửa pháo đạn, cây cối còn che chở được, có tác dụng lớn về mặt quân sự không thể nói hết. Vì vậy phải gấp rút trồng cây để mười năm sau mà dùng.

4. Nhà cửa trong Kinh thành bất luận là của quan hay dân đều phải xây gạch lợp ngói. Vả lại còn phải sắp xếp lại phương hướng cho hợp với binh pháp (khoản này tôi có biết qua). Như vậy mới có ích lợi lớn. Như các nước phương Tây dùng nhà cửa làm thành. Đường sá qua lại chằng chịt. Ở những chỗ quan yếu có pháo đài nhỏ. Quan dân nhờ đó dễ phòng thủ. Một khi có biến, dân chúng đều rút vào nhà hết. Có ai chạy lộn xộn ngoài đường thì đó là quan binh hoặc quân loạn nghịch mà thôi nên dễ kiểm soát tầm nã. Chứ không như thành phố của ta, nhà cửa cất lộn xộn chẳng theo hình thế trật tự gì cả. Lại còn đường mòn ngõ tắt cây cối bụi bờ, bốn phương tám mặt đâu cũng có thể ẩn núp được. Ngoài ra trong thành ngoài thành nào tường nhỏ tường lớn, bờ đất, gò đống chỉ với tay cũng có thể trèo qua được. Xem thế tuy trông có vẻ nghiêm ngặt mà kỳ thực sơ hở vô cùng.

Tôi thấy các nước phương Tây, ở các cửa biển và tỉnh thành, Kinh thành chỗ nào cần có tường hào đều xây đào ngay thẳng chỉnh tề. Đường sá cũng thế. Mới trông qua tưởng không có thứ tự nhưng xét kỹ thì có hình thế rất quan trọng, dẫu không người mà cũng như có người vậy. tất cả những nơi như cung vua, dinh quan, kho quân sự, cổng thành, đường sá và những chỗ quan yếu trong thành phố cũng như ngoài thành cần phải phòng thủ thì không kể mưa gió ngày đêm canh gác nghiêm ngặt như là đang có giặc bao vây tấn công vậy. Còn những nơi qua lại tự do tuy thật giản dị, nhưng khi có động tĩnh thì chỗ nào cũng có lính, nghiễm nhiên nắm thế chủ động một cách vững vàng. Thế là đơn giản mà rất nghiêm, nghiêm mà thật đơn giản. Đó là những gì tôi đã trông thấy, đã tâm đắc và muốn học hỏi. Bởi vì tôi cũng có nghiên cứu binh pháp nên phàm thấy cái gì tôi đều nhận xét kỹ lưỡng về hình thế bài trí của nó. Nhờ thế tôi thấy được cái mà người khác không trông thấy, chứ không như những người du lịch chỉ biết thưởng ngoạn.

Tôi còn thấy cung vua dinh quan của họ có lối phân bố hình thế rất khéo. Dẫu có kẻ thừa sơ hở mà vào cũng chưa dễ vào ngay bên trong được. Còn ở trong nhà ra sức chống cự thì dẫu có súng đạn cũng chẳng làm gì được. Không như dinh phủ trong thành của ta, lên cao mà trông thì rõ không khác trong lòng bàn tay. Kinh thành mà còn như thế nói chi đến những nơi khác.

Con người ta mặcd ầu đã có tài trí tâm lực để đem ra thi thố mà hưởng dụng nhưng cũng phải có những khí cụ bên ngoài để bảo vệ, mới có thể an định tâm thần mà thi thố kỹ xảo được. Như bài nghị hòa năm trước tôi có nói: “Phải có kỹ xảo cao mới sinh dũng cảm”. Nếu tay không đánh cọp mà thắng, đó chỉ là điều may chứ không phải là đường lối vạn toàn. May rủi là điều không thể đem bất cứ việc gì phó thác được, huống nữa là việc quân sự hết sức quan trọng, huống nữa là Kinh thành, sách lược vô cùng quan trọng.

Vậy xin chỉnh đốn dần dần bằng cách vận động các nhà giàu bỏ tiền ra cất nhà tại những nơi cần xây cất trong Kinh thành. Cách xây cất như thế nào phải do sở quan vẽ kiểu. Ai cất được 50 gian trở lên sẽ được thưởng. Nếu góp vốn cất được nhiều nhà, sẽ xét theo số lượng nhiều ít mà được thưởng. Chủ nhà được quyền cho người thuê ở. Thể lệ thuê mướn nhà cửa sẽ do Bộ ấn định như mỗi gian nhà mỗi năm giá tiền thuê bao nhiêu, phải nạp thuế bao nhiêu (Các nước phương Tây lấy thuế này để chi phí cho các chương trình kiến thiết trong thành phố) tuỳ theo 3 hạng nhà: hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Còn tất cả nhà tranh, dầu của ai, đều phải dỡ bỏ hết.

Đường sá, cầu cống, chợ búa bên trong và bên ngoài Kinh thành, tất cả phải chỉnh trang lại. Bởi vì những cảnh tượng u ám bốn chung quanh làm ô nhiễm khí hậu ảnh hưởng đến tính tình con người, khiến sinh ra lười biếng bê tha. (Lý lẽ này rất sâu xa mà chân xác. Nay chưa tiện trình bày). Phàm những chỗ sâu xa cần phải dời đổi, nơi nào cần phải cao, thập, rộng, hẹp, lớn, nhỏ, xa, gần, tất cả đều phải vẽ thành bản đồ rồi từ từ xét theo đó tu chỉnh để tạo cho Kinh thành một khí thế hùng mạnh. Tất cả những dân nghèo không có nghề sinh sống, cùng những khách trọ từ các tỉnh bên ngoài vào, bất luận sĩ nông công thương, nếu không có cơ sở làm ăn lâu dài đều không được ở trong thành (việc này không phải không có lý do). Xin xem các điều khoản sau, tự nhiên sẽ rõ. Còn những người buôn bán nhỏ như thuốc lá, bánh kẹo, những thứ lặt vặt linh tinh bày bán hai bên vệ đường thì chỉ cho phép vào thành sau khi trời sáng một tiếng đồng hồ và trước khi trời lặn một tiếng đồng hộ phải ra khỏi thành. Ngoài ra trong thành phố phải xẻ nhiều kênh rạch dọc ngang để dẫn các vật ô uế ra ngoài và còn đề phòng những việc khác sau này. Việc này cũng hợp với lý thế quân sự, có tác dụng rất lớn.

5. Phải quan sát rõ trên dưới vùng Tứ Tuyên chọn một nơi hiểm trở cất thêm một thành lớn giao một đại thần trấn giữ, rồi mở một con đường lớn theo mé núi gần phía bên trên ăn thông thẳng đến thành này.

6. Tất cả những đường thuỷ từ Hà Tĩnh đến Kinh đô đoạn nào chưa lưu thông được phải đào vét cho thông.

7. Khoản này có một việc quan trọng để dịp khác sẽ trình bày rõ. Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở Lục tỉnh Nam kỳ, Triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về quê thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thật thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa.

Các khoản trên đây, ở đoạn chót khoản thứ bảy rất quan hệ đến đại thế lâu dài của quốc gia. Trong đó còn có chỗ phải kiêng dè chưa tiện nói hết. Đợi khi nào có thể nói được hoặc tình thế có thể tiến hành được, tôi sẽ trình bày rõ. Nay chỉ đặc biệt trình bày những điều tai nghe mắt thấy và phải làm như thế nào mà thôi. Còn như vịêc đo đạc hình thế, vẽ bản đồ, vẽ kiểu tôi đã trình bày trong các khoản trên, xin Triều đình cứ đưa các khoản mục ra thi hành rộng rãi chắc chắn sẽ có người hưởng ứng tham gia, đừng nghĩ rằng trong nước không có người. Việc sửa sang võ bị là như vậy.

Điều thứ hai: Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh.

Phàm làm quan, cần phải thanh liêm, có tài cán và siêng năng sáng suốt mới làm tròn chức phận, lại phải khéo điều đình phân xử mới giảm bớt những phiền nhiễu cho dân. Người giỏi hành chính thì một tỉnh đối với họ cũng chỉ như một huyện, một huyện cũng như một tổng mà thôi. Còn người không khéo xử trí công việc thì dù cai quản việc nhà cũng không làm nổi, huống chi một tỉnh một huyện. Đem công việc một tỉnh lớn ra mà nói thì cũng binh, lương, thuế khóa, các ban công vụ có khác nào một tỉnh nhỏ đầu, không thêm bớt một việc gì cả. Một tờ công văn cũng có thể đi châu lưu khắp nước, kể gì một tỉnh. Hãy xem tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn băng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nuớc ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh của ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia tỉnh huyện còn lớn hơn cả Trung Quốc nữa. Trung Quốc có nhiều vị quan xin giảm bớt số viên chức, hợp tỉnh huyện lại, ý cho rằng nhiều quan thì Triều đình tốn nhiều lương bổng, dân gian bận rộn đón đưa, yêu sách. Lại có nhiều viên chức hiếu sự ưa moi móc chuyện nọ chuyện kia để được tiếng siêng năng, khiến sinh nhiều tệ đoan không thể kể xiết. Vì vậy mà người xưa có câu chuyện mười con dê chín người chăn, một con ngựa hai người giữ. Phủ huyện Trung Quốc lớn thế mà còn đòi cắt giảm quan lại, huống hồ là ta.

Tôi thấy các quan ở Kinh thành bận rộn công vệc không kể ngày đêm. Thế mà các quan ở phủ huyện thì nhàn rỗi đàn ca xướng vịnh. Hễ đi đâu thì tờ trát đi trước bắt dân chầu chực nghinh đón. Như thế thì làm sao đi vào trong dân gian tìm hiểu những u uẩn của họ được? Làm quan có đức độ biết khéo léo giáo hóa dân chúng là phải đi tuần hành trong dân gian nhưng giản dị dễ dàng cho dân. Đây mới là điều phải bắt chước người xưa. Còn quan viên ta ngày nay ngồi giữa công đường ngoài cái án thư bàn độc ra không còn biết việc gì khác. Những công việc trong hạt như phong tục dân gian tốt xấu thế nào, đất đai hoang phế ra sao, lúa thóc phải tích trữ như thế nào, rừng rú ao đầm cần phải giới hạn đến đâu tất cả đều phó mặc cho mây trôi nước chảy không cần biết đến. Xưa Khổng Tử làm chức tư không, trước hết phân biệt tính chất năm thứ đất rồi lo chỉnh đốn những thói hư tật xấu trong dân gian. Ba lần khen ấp Bồ người đều khen rau ráng nhiều, ruộng nương biết sửa sang, nhà cửa chắc chắn, cây cối tốt tươi. Người làm quan thời nay ngoài các công vụ tầm thường chỉ thấy bọn văn nho ra vào tâng bốc lẫn nhau, bọn phú hào chầu chực để mượn uy cậy thế mà thôi. Có ai thanh liêm siêng năng thì họ chế nhạo rằng: “Đồ làm bộ để được tiếng tốt để cầu địa vị cao. Ta thì ba lần làm quan ba lần bị truất cũng chẳng nghĩa lý gì!” Đó là nói những phường quan lại xấu xa kém cỏi. Quan trên cách xa muôn dặm làm sao biết được sự tình. Như vậy mà phần đông cứ bảo là chính lệnh trong sáng dân chúng yên hòa. Cho nên bọn giặc cướp lén lút hoành hành, qua lại thông báo cho nhau còn nhanh chóng hơn là việc nước mà Triều đình không hề hay biết cũng phải!

Nếu Triều đình tìm được người nào có lòng ngay thực vượt hơn thường tình xin phái họ ra Bắc kỳ và vào Gia Định giả làm dân thường thăm dò dân chúng mới thấy những lời nói của tôi không phải là vu cáo, mà còn thấy rõ ở phủ huyện còn trăm phần tệ độc tôn chưa dám nói ra.

Nhưng những tệ đoan trên đây nay đã thành tập quán kiên cố sâu dày khó một sớm một chiều sửa đổi ngay được. Vậy xin gấp rút xét xem địa thế, hợp hai ba tỉnh thành một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đã được cấp lương tiền đầy đủ, để giúp họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm thì mới có thể trách. Tôi tính lương tri huyện mỗi ngày không quá ba, bốn mạch (1) như vậy nuôi một người còn không đủ huống chi nuôi một gia đình nhà quan. Đã biết rõ thiếu hụt mà cứ đem lời nói suông khuyên người ta thanh liêm, như thế là ngầm để cho người ta tham nhũng. Chẳng nghe dân gian có câu: “Chê cười mắng nhiếc mặc họ, quan ta tốt thế đấy” hay sao? Trừ những vị có đức hạnh khác thường thì không kể gì đến chức tước bổng lộc. Còn thường tình mà nói bất cứ ai tự hỏi lòng mình rồi cũng sẽ tha thứ đối với bạn đồng liêu cùng cảnh ngộ. Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một Lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp. Một ngày lương của một Tổng đốc nước Anh tương đương một năm lương của một quan đại thần nước ta. Vì vậy người phương Tây có nói: “Các quan lại nước Nam trừ những người quá tham ô không nói còn bao nhiêu những người khác thường thường sau khi xong công việc họ nhận lãnh của biếu xén, tạ ơn, điều đó cũng không đáng trách”. Bởi vì có đủ cơm ăn áo mặc rồi mới nói đến chuyện vinh hay nhục, mà muôn việc ở đời cơ bản là sự nuôi sống. Nếu không đủ nuôi sống, bản thân còn không bảo tồn được nói gì đến chuyện khác ngoài bản thân. Các nước ngoài nghe quan lại nước ta lương bổng ít ỏi như vậy họ rất chê cười và tựa hồ họ không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như thế được. Vì vậy tôi xin đề nghị lấy những của cải phù phiếm xa hoa trong dân gian để thêm lương cho các quan binh. Đó là lý do hết sức chính đáng (Các nước phương Tây cũng tăng thu bằng cách đó để cấp thêm cho quan binh). Nếu vậy mà họ còn tham ô mới có thể trách được. Còn như các thành lớn có tổng đốc trấn giữ, phải dùng phương pháp mới tu bổ lại chắc chắn để tạo sức mạnh cho cái thế chế ngự (khoản này tôi có biết qua). Ngoài ra các thành cũ ở các tỉnh đã được sát nhập, chỉ cần đặt một võ quan đồn trú huấn luyện binh sĩ mà thôi không dự việc dân sự. Các viên chức thừa hành công vụ thộuc các tỉnh hoặc thuộc sáu bộ, phần nhiều nên lấy những người tú tài cử nhân sung vào, thải bớt người cũ cho về dân làm công dịch. Nếu còn thiếu mới tuyển lựa những thừa lại có khả năng bổ sung vào. Bởi vì cử nhân tú tài là những người được ân huệ quốc gia hơn những dân thường mà chữ nghĩa họ cũng đủ dùng. Cho ra làm việc để họ thực hành cái sở học của họ. Nếu thật sự có tài có đức họ cũng có thể tuần tự thăng trật. Như thế một là họ có dịp tập sự việc quan, hai là họ có cơ hội đến ơn nước, được cả đôi bên. Nếu bảo họ chưa đủ thời vụ, cần phải học thêm, thế tại sao chấm họ đậu? Hay là cho rằng họ học “cổ” chưa khá, phải học “cổ” thêm nữa? Nói thế lại càng không hợp lý và làm hỏng công việc hiện tại. Tôi đã thấy nhiều quan lại nói năng hoạt bát, chuyện trên trời dưới đất thì thao thao bất tuyệt, thế mà đặt bút thảo một công văn giấy tờ gì thì phải nhờ thư lại. Thật đáng buồn cười! Phàm những gì ngày mai đem ra ứng dụng, chính là những gì ngay nay tìm tòi học hỏi. Xưa cũng thế. Còn đối với hạng người mà cái học ngày nay không đem ứng dụng được ở ngày mai là do học và hành trái ngược nhau. Vì lẽ đó phương Tây người ta chuyên học luật lệ, chính trị, thời vụ mà không dùng sách cổ.

Về án từ ở các nha sở, xin chỉ lựa những gì đáng làm án mới làm, như trộm cướp giặc giã chẳng hạn thì lập án. Còn những vụ kiện thưa thông thường chỉ cần phân xử trước mặt. Đơn từ thì viết bằng quốc âm để các thầy kiện khỏi dùng mánh khoé xảo quyệt, quan dễ thấu được chân tình. Về những tay chuyên dùng để viết văn thư tại các phòng ở tỉnh cũng như ở Kinh thành, chỉ nên dùng một ít để viết các tấu sớ mà thôi. Ngoài ra các loại giấy tờ khác ai viết cũng được miễn rõ ràng đọc được thì thôi, không cần phải viết chân phương. Như thế sẽ giảm được nửa số nha lại, bớt phí tổn cho Triều đình.

Đối với các quan trong các Bộ ở Kinh thành từ chức Viên ngoại lang trở lên cần phải tăng thêm một nửa số để làm thay các công việc của Bộ. Còn các đại thần của sáu Bộ thì chỉ nắm lấy đại cương điều khiển tổng quát mà thôi. Nay các đại thần trong các Bộ cũng phải thân hành làm những việc lặt vặt không kể ngày đêm như các thuộc viên ấy. Thế thì còn đâu thì giờ rảnh rang đầu óc trong sáng để suy nghĩ sắp đặt những việc lớn. Tôi thấy các quan phương Tây, chẳng hạn như Đại học sĩ thì mỗi công việc đã có các viên chức từ tham tri trở xuống làm hết, chỉ có việc gì khó giải quyết mới trình bẩm mà thôi. Còn các quan đại thần thì chỉ hội họp bàn bạc các công việc lợi hại của quốc gia, giải quyết những việc khó khăn trọng đại nhất và quyết định các việc như ký liên minh hay tuyên chiến mà thôi.

Thể thống Triều đình của họ như thế, có đâu như các đại thần nước ta ngày nay cũng làm những việc lặt vặt ngày đêm không khác nào các viên chức nhỏ. Đây là chính thể thống của Triều đình đáng lẽ tôi không nên nói, nhưng thấy thế giới như vậy nên đã vượt phạm vi mà mạo muội trình bày sơ lược thôi. Còn nói về thể thống thì vài mươi trang giấy cũng không trình bày hết được. Nếu Triều đình cho phép, tôi sẽ xin trình bày tường tận.

Về khoản “nhiêu học” (2), tôi thấy chỉ có nước ta, trên thế giới chưa từng có nước nào làm như vậy. Thế tại sao nước ta không thấy có nhiều nhân tài, còn các nước nhân tài vẫn đủ dùng? Như thế có phải là ta có thi ơn mà không được đền ơn chăng? Có lẽ các nước trên thế giới người ta cho rằng con người ai cũng tìm cầu giàu sang lợi nhuận nhưng mượn hai chữ “công danh” để che đậy cá nhân mình mà thôi. Về mặt nhà nước cũng muốn cho đẹp lời là nói “tìm nhân tài” nhưng kỳ thật là mướn người làm. Như vậy người đi học ra làm quan cũng như người ở nhà làm ăn sinh sống. Chỉ có điều là đi làm mướn thì nghe nó hèn mà không tình không nghĩa, còn làm quan thì sang quí lại được danh nghĩa đem thân giúp nước. Cho nên dù có sống chết vì nước đi nữa, suy cho cùng cũng chỉ là hành động cho bản thân mà thôi. Như Đạc Thư nói: “Đọc sách là lẽ sống của bọn học trò nho”. Đó là danh nghĩa hợp với thực tế vậy. Nếu có những người tài giỏi, ngay thẳng hiền lành, quyết tâm quyết chí hết lòng lo việc nước, đó là số rất ít. Thời Tây Hán có nhiều quan lại không xuất thân từ khoa bảng, đó là một bằng chứng.

Người đã ra làm quan thì làm việc nước, ăn lương nhà nước, lại được khỏi đi lính, khỏi làm xâu, là lẽ tự nhiên. Nhưng nếu còn đang ở nhà học tập thì chưa chắc sau này sẽ làm quan hay làm thầy thuốc, thầy bói, thầy kiện hoặc những nghề lặt vặt khác. Chính mắt tôi trông thấy (dưới đây tôi chỉ nói những hạng người học không đến nơi đến chốn chứ không nói chung tất cả nho lâm) có nhiều người khuyên nhau rằng: Hãy ráng học chữ nghĩa, dù không đỗ đạt làm quan cũng được miễn lính tráng, miễn xâu thuế, thong thả suốt đời như đàn bà! Cũng có nhiều người học mới kha khá, đã truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng: Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường thi thì mọi việc giữa chúng ta sẽ tốt đẹp cả! Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quân trộm cắp của công chớ còn gì? Huống chi Triều đình trọng vọng người văn học, điều này đã trở thành tập tục trong làng xóm. Do đó có nhiều xã theo sổ khóa sinh tại tỉnh chỉ một hai khóa sinh mà tại xã thì đến sáu bảy nhiêu sinh. Nhiêu dịch phải đổ thêm vào cho các dân đinh khác gánh chịu. Cho nên tiếng là trọng nho mà thật sự rất trái lẽ công bằng. Theo thống kê tỉnh Nghệ An, số khóa sinh đến vài ba nghìn người mà số nhiêu sinh trong dân chúng còn gấp bội hơn nữa. Trong số đó những người sau này có thể ra làm việc nước nhiều lắm vài ba trăm người là cùng, còn lại là khóa sinh nhiêu sinh cho đến già. Một tỉnh mà có lắm người nhàn như thế, hợp cả nước, con số sẽ đến một tỉnh nhỏ. Nếu quả có lòng theo đuổi việc học, lập chí công danh, không kể công lao phí tổn, thì sau khi thi đỗ làm quan, con đường tập ấm, vợ được phong, trước làm rạng rỡ gia đình, sau lại có người kế nghiệp. Triều đình ban cho ân huệ như thế, tưởng cũng đủ đền đáp công lao học hành ngày trước, cần gìphải ra ơn trước khi biết họ sẽ làm việc công việc nước hay làm việc riêng tư. Nếu nói không như thế họ sẽ không thể tiến bước trên con đường học vấn, thì tại sao từ Hán, Đường về trước kể lên đến đời Tam Đại chưa hề có chế độ ưu đãi này mà vẫn có nhiều nhân tài? Các nước phương Tây cũng thế, sao họ lại hùng mạnh?

Phàm trọng thì sinh kiêu, nhàn thì sinh sự. Đó là lẽ tự nhiên. Gần đây nhân dân nước ta mỗi ngày mỗi sinh lắm chuyện mà Triều đình cũng nhận là khó sửa trị. Đó cũng là những người biết chút ít chữ nghĩa xúi giục gây nên. Tôi nghe có đảng nghịch tên Phụng đem dân lậu kéo vào Gia Định, trong số đó những người từ Hoành Sơn trở ra hưởng ứng rất đông và số người biết chữ có đến bảy tám phần mười. Do đó có thể biết rằng những người biết chữ đọc được sách, thấy trong đó nói nhiều đến những lợi lộc vinh hiển mà thèm thuồng chưa đạt được sự ước muốn. Trong khi mỗi khóa thi của ta hiện nay, trăm ngàn người thi không quá một hai người đỗ. Số còn lại bất mãn đi tìm con đường khác, chứ không như dân thường dốt nát chỉ biết thủ phận mà thôi.

Hiện nay nước ta có nhiều việc, bọn này đã không góp sức thì cũng phải đóng góp tiền của để cấp cho những người ra làm việc nước, thế mới hợp tình hợp lý. Nếu thế mà oán trách thì hai chữ “trung nghĩa” họ đã học cũng trở thành vô dụng.

Mọi vật sinh ra trên đời, vật gì cũng có phần thụ hưởng và phần cống hiến của nó. Chưa từng có một vật nào tồn tại một mình không quan hệ dính dáng vào đâu cả. Lý lẽ này rất nhiều không thể kể rõ hết được. Con người cũng vậy, vua, quan, binh, dân, nam, nữ ai có phận sự nấy. Tuy việc làm có cao thấp, lớn nhỏ khác nhau, nhưng không ai là trống trơn chẳng làm gì cả. Nếu có ai hoàn toàn nhàn hạ không quan hệ với bất cứ ai bất cứ cái gì trong khoảng trời đất này, như thế là ngoài luật tạo hóa và không thể mệnh danh được là người gì. Ngay như những người ngu ngốc, tham lam, điếc đui mà nhà binh còn dùng được thay huống hồ những người khác. Đã được sinh làm người đứng trong trời đất, ở trong xã hội có pháp luật có tổ chức mà không hề dính dự gì, không mảy may giúp ích gì cho việc làng nước thì làm người thế nào được? Tuy nói ơn nước nhưng đoái nhìn bản thân xem có cái gì gọi là đền trả cái ơn lớn này không?

Lại có một hạng người không trên không dưới, kiêu ngạo tự cao, bảo rằng: “Lấy đức làm trọng, người giàu đức thì vua cũng khôngbắt làm tôi được, chư hầu không kết làm bè bạn được”. Như thế là một cái vật gì ở ngoài vòng trời đất rồi, sao gọi là đức được? Đó là câu nói của hạng người coi trọng mình mà khinh rẻ tất cả mọi người. Thế mà người ta tôn thờ như là kinh điển gì hay ho lắm! Từ đó cứ cho sĩ là quí rồi chê bai kẻ khác, chống báng bề trên, tuy trước mặt có sợ sệt quyền thế đôi chút không dám phóng ngôn bừa bãi nhưng trong bụng chẳng coi ai ra gì, ai cũng thua mình cả. Hễ có chút gì không vừa ý hoặc bất đắc chí thì quấy động luật pháp quốc gia, chê bai huỷ báng. Phóng túng đến thế mà còn gọi là học sinh được sao? Còn đáng được ưu đãi chăng?

Ngoài ra họ lại còn dẫn nhiều sấm vĩ tiên tri kiểu Trạng Trình, Trạng Lượng (3) nói điềm này triệu kia, vận số cơ trời, gây hoang mang trong dân chúng. Chính tôi đã nghe và nhiều lần bác bỏ. Đó cũng là do những bọn ăn không ngồi rồi gây ra cả.

Vậy xin Triều đình phân biệt sửa trị cho họ thấy rõ bổn phận của họ được chăng?

Điều thứ ba: Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ.

Điều này nhằm trừ bỏ những xa xỉ vô ích mà ngấm ngầm gây tệ hại lớn. Đây không phải kế hoạch gây tài chánh thực hành theo phương pháp mới như tôi đã trình bày ở Kinh đô năm trước. Điều này có hai cái lợi, một là sửa đổi dần dần những tiêu phí không cần thiết của dân chúng để họ được giàu có thuần hậu, hai là dần dần bổ sung tài chánh cần dùng cho quốc gia mà không tổn hại gì đến thường dân cả. Có bảy khoản xin trình bày như sau:

1. Xin đánh nặng vào thuế cờ bạc.

Trong dân chúng có nhiều người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than van như bị cưỡng ép lấy mất tiền một cách phi lý. Thế mà đến sòng bạc thì cầm nhà bán của cải không tiếc. Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước cửa cả ngày không xin được một đồng điếu, người làng thiếu thuế chẳng vay mượn được một quan. Thế mà đến chốn ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Sao lại có hạng người lòng sắt dạ thú đến như vậy? Hai hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết được. Nói về tội của họ như không biết trung, nghĩa, nhân, ái, lễ, tiết v.v… thì không bút mực nào kể hết được. Dẫu bọn chúng có lọt lưới dương gian cũng không sao tránh khỏi bản án nơi âm phủ. Dùng pháp luật ghép chúng vào tội “dân gian ác” cũng chưa xứng đáng huống chi chỉ lấy một ít tiền để tạm thời chuộc bớt tội lỗi của họ mà thôi.

Vậy nay tất cả các sòng bạc bất kể đầu năm ngày Tết, bất luận thành thị thôn quê, xét địa điểm mà thiết lập, mỗi sòng bạc một năm phải nạp thuế từ một ngàn quan đến hai ba ngàn quan. Còn ai trốn thuế lén lút cờ bạc thì cho phép chủ sòng hoặc người ngoài bắt nộp lãnh thưởng. Người trốn thuế lén lút cờ bạc sẽ bị tịch biên một nửa gia tài bỏ vào công quỹ. Bởi vì bọn này chẳng kể gì cha mẹ vợ con mà chỉ nghĩ đến chuyện cờ bạc. Vậy là đem gia tài dâng cho bợm bạc. Đã muốn đem dâng gia tài thì thôi hãy gởi vào kho nhà nước, để còn giúp ích cho anh em bà con xóm làng, hơn là đem cho không những bọn côn đồ du thủ du thực!

Vì vậy các nước phương Tây đánh thuế cờ bạc rất gắt. Ai cờ bạc trái phép sẽ bị phạt tiền rất nặng. Nếu không tiền nộp phạt phải bị tù mấy năm. Họ phạt nặng như vậy là để không cấm mà cũng như cấm vậy.

2. Xin đánh thuế rượu.

Rượu làm hại biết dường nào! Sách có răn, luật có cấm, nhưng hoàn toàn không thấy nói đến chuyện phạt. Do đó ngày một sinh tệ, chán chường đã lâu không ai không biết. Hơn nữa rượu không uống đỡ đói được mà lại hao tổn lúa gạo rất nhiều. Đó là cái hại rất lớn. Cho nên các nước phương Tây có lệ cấm rượu rất gắt mà cũng không tuyệt được, chỉ còn một cách đánh thúê nặng mới có thể chừa bớt được thôi. Nay xin bất luận nơi nào, ở thôn quê mỗi nhà nấu rượu mỗi năm phải nạp thuế một trăm quan, ở thành thị mỗi năm từ ba đến bốn, năm trăm quan. Như vậy nhà bán rượu phải bán giá cao, người uống sẽ giảm bớt.

3. Xin đánh thuế thuốc lá.

Hút thuốc vốn không lợi ích gì cho sự sống mà dần dần thành ra tốn kém. Chẳng qua là làm ra vẻ phong lưu mà thôi. Vậy xin ở mỗi chợ cho mở một tiệm bán sỉ. Những nơi khác đều do tiệm này phân phối ra bán. Mỗi tiệm bán sỉ mỗi năm phải nộp một trăm hoặc năm mươi quan. Về thuế thuốc phiện xin đánh gấp năm, sáu lần thuế thuốc lá. Nếu không sẽ lan rộng trong nhân dân gây tai hại lớn. Làm quan mà hút thuốc phiện phải cai hẳn nếu không sẽ bị thải hồi.

4. Xin đánh thuế trà.

Nếu có thuyền Trung Quốc vào cảng thì phải đánh thuế trà riêng, còn các thứ tạp hóa khác đều theo lệ cũ, tuy vậy cũng phải tăng lên. Đối với các nước phương Tây, phàm hàng hóa nước ngoài bất luận thứ hàng hóa gì đều phải phân biệt loại hàng quí và hàng thường để thu thuế và phải thu cao hơn hàng trong nước. Còn những thứ không cần thiết cho đời sống như đồ trang sức, xa xỉ thì phải đánh thuế gấp bội hơn nữa. Vậy xin ở các chợ tiệm nào có biển quan cho phép mới được bán trà. Như giá trà một quan, phải nạp thuế một quan. Đã lấy thuế khi thuyền Trung Quốc vào cảng lại còn lấy thuế sau khi bày bán ở chợ. Như thế cũng không quá đáng. Bởi vì uống trà Tàu chỉ có hạng giàu có phong lưu mà thôi. Nước ta cũng có trà, uống cũng giải khát thanh tỳ được. Thế mà họ còn thừa tiền hoang phí thói phong lưu, đã mất thì giờ còn bỏ bê công việc, đó là một cái hại lớn. Đã tốn kém nhiều vô ích hao tốn tinh thần còn làm giàu thêm cho người Tàu, chi bằng lấy đem dùng vào việc nước để giữ yên gia nghiệp! Họ đã thiếu tinh thần nghĩa vụ thì nhà nước cưỡng bách lấy để làm nghĩa vụ cho họ. Đó cũng là lẽ nên làm.

5. Xin đánh thuế hàng tơ lụa hoa mỹ.

Nước ta vốn có nhiều tơ lụa, thế mà nhiều người cho là không đẹp cứ tìm kiếm hàng Tàu, khiến dân ta không ra sức trồng dâu nuôi tằm, làm cho hàng tơ ngày một đắt giá. Tệ trạng này đều do đó mà ra cả. Những nhà giàu có không cần hàng Tàu chỉ dùng hàng ta cũng được. Tại sao hàng ta dù có tốt cũng xem thường, còn hàng Tàu dù có xấu cũng đua nhau khen đẹp? Tại sao lại khinh mình mà trọng người đến thế? Không trọng hàng mình mà trọng hàng Tàu, rõ ràng là chỉ khoe khoang thói xa xỉ. Tại sao họ khôngbiết chuyển đổi cái tâm tính ấy để quyên tiền làm lợi ích quốc gia như những nhà giàu các nước phương Tây vậy? (Ở phương Tây khi quốc gia hữu sự, các nhà giàu đua nhau quyên tiền để giúp, thường thường số tiền quyên góp quá dư nhà nước phải trả lại). Thử hỏi họ ở đâu mà an hưởng sự giàu sang ấy. Nếu họ là người sống ngoài vòng trời đất thì mặc họ làm gì tự ý. Nhưng họ ở trong đất của vua, làm dân của vua mà chỉ biết đua nhau xa xỉ, làm giàu cho con buôn nước ngoài là điều không thể được.

Nay xin cho các thứ vải vóc hàng may mặc trong nước đều xử lý theo lệ cũ. Còn tất cả các loại hàng Tàu hễ giá mười quan thì đánh thuế năm quan. Họ đã có tiền mua hàng đẹp thì cũng có tiền nạp năm quan để dùng vào việc lợi ích quốc gia, điều đó cũng không phải là quá đáng.

6. Xin đánh thuế du hí.

Trong dân gian có nhiều người bỏ ra hàng chục hàng trăm quan tiền để xem hát, nhất là dân thành thị. Vì vậy những phường vô lại du đãng không chịu chăm lo làm ăn chuyên dựa vào nghề này để kiếm tiền, ế ẩm thì sinh trộm cướp vì không có nghề nào nuôi sống. Lại có những kẻ lén lút ban ngày giả danh luyện tập múa hát, đêm thì làm những chuyện ác độc. Xưa nay những vụ biến loạn bất ngờ xảy ra phần nhiều được che đậy bằng những cuộc hội hè vui chơi hoặc đình đám tế lễ. Như trường hợp Vô Vi Giáo, Bạch Liên Giáo v.v… ở Trung Quốc.

Còn như chuyện hát múa để tạ thần lại càng vô lý. Do người đời sau thiếu đức nên người ta đem thần linh ra hù nhát, đem chuyện yêu quái ra gạt gẫm, tạo ra bao nhiêu điều huyền hoặc di đoan. Như trong sách Học Thống đã dùng những lý lẽ chính đáng rõ ràng bác bẻ những dị đoan, tà thuyết hết đường trốn tránh. Riêng một việc múa hát còn hại dân rất nhiều.

Nếu thần là linh thiêng sáng suốt thì chỉ một nén hương thành tâm bái lễ cũng đủ hà tất phải đòi hỏi cái nghề hèn mọn ấy để mua vui. Bản tâm thần không cho là vui, không hưởng của phi lễ thì thần phải chứng minh cho người ta biết đó là sai. Nếu không thì đó chỉ là những hình tượng giả, bịa đặt bày ra đó và không khỏi mang tiếng hối lộ. Huống chi dân còn thần mới còn. Thần đã không cần cái thú vui hèn mọn ấy thì phải nói rõ dạy dỗ dân ngu bảo đem cái số tiền thuê hát ấy chuyển vào công quỹ, thế mới là bảo hộ quốc gia đại sự.

Tôi thấy trong dân gian phần nhiều hễ có công sai đến thúc giục thuế khóa thì nào cả hương hào lý dịch cũng lánh mặt. Thế mà ngày cúng thần thì không thiếu mặt nào cả. Như vậy là rõ ràng coi trọng việc thần hơn việc nước. Trong dân gian có nhiều làng có lệ dân chúng luân phiên nhau cúng thần. Một nhà cúng, cả làng no nê. Có những gia đình không được khá giả, qua một kỳ cúng thần phải mang nợ suốt đời. Có người còn phải bỏ xứ đi phiêu lưu. Thế mà họ không hề oán trách chuyện thần thánh phiền phức cúng tế nặng nề lại đi oán trách sưu cao thuế nặng. Thậm chí có câu nói: thà thiếu thuế nhà nước chứ không thiếu lệ làng. Chuyện đó đã thành tập tục mà không chịu sửa đổi, thật là coi trọng việc làng xem nhẹ việc nước. Nếu quả thần có linh thì cũng phải biết rõ ràng dân vì cúng tế mà đến nỗi phải nghèo, khánh tận gia sản, bị cướp mất cái phần dành để nuôi cha mẹ vợ con họ. Mượn danh nghĩa thần mà kỳ thật để dân làng no bụng mà thôi.

Cũng có nhiều nơi thần hiện lên trách dân sao không theo lệ cúng tế đúng kỳ, không chịu sửa sang đền miếu mà không đề cập gì đến việc nước việc dân cả. Như thế là thần cũng chỉ nghĩ lo cho thần được yên thân no bụng mà thôi. Tang Văn Trọng ở đất Sái còn bị chê là bất trí thì những ai từ chối sự xu mị cũng không khỏi bị người ta chê cười. Tôi nói thế có vẻ như mẹ ghẹ cạo đầu con chồng vậy. Chỉ vì tôi quá ghét những tệ đoan ấy.

Nay xin những ai lập gánh, bất luận ở đâu, trừ việc nước ra, gánh lớn mỗi ngày phải đóng thuế 50 quan, những gánh nhỏ thì đóng thuế ít hơn. Các con hát phải có giấy phép quan cấp mới được hành nghề suốt đời. Nếu không con hát lẫn chủ gánh đều bị phạt. Mỗi con hát còn phải đóng thuế mỗi năm 50 quan.

Ngoài ra xin điều tra trong dân gian xem nơi nào có lệ luân phiên cúng thần quả thật đưa đến tình trạng có người khuynh gia bại sản thì ra lệnh bãi bỏ. Còn chuyện làm pháo tre cũng thật vô ích. Nếu giá bán 10 quan, xin đánh thuế 20 quan.

7. Xin đánh thuế nhà những người giàu.

Trong dân gian có nhiều tục lệ xấu. Như trong sổ bộ trên quan một cùng đinh phải đóng thuế bao nhiêu, thì trong làng một tay đại phú cũng đóng chừng đó thuế, không bù sớt ít nhiều gì cho nhau cả. Như vậy là đã trái cái nghĩa xóm làng giúp đỡ lẫn nhau rồi. Thậm chí có khi quan trên giục gấp mà lý dịch chưa kịp thúc giục dân nghèo thì mượn đỡ các nhà giàu để tạm nộp cho nhà nước, vậy mà cũng có nhiều người không cho mượn, có kẻ lại ăn tiền lời. Có kẻ thấy làng có việc thì xuất tiền ra mua nhiêu dịch suốt đời. Có kẻ bỏ tiền ra chứa cờ bạc mưu chiếm ruộng tốt của người khác. Cũng có kẻ bỏ ra có một quan cho vay mà dần dà lấy hết gia sản của người ta. Những việc làm nhẫn tâm trái lẽ của bọn nhà giàu rất nhiều, không biết bao giờ mới dứt được những tệ hại ấy cho dân nghèo. Vấn đề này xin tạm gác lại. Nay chỉ nói một khoản về nhà cao cửa rộng cần phải đánh thuế trước.

Phàm những người giàu có là người chịu ơn đất nước rất lớn, hơn cả những dân nghèo. Cướp cũng muốn cướp của nhà giàu, trộm cũng muốn trộm của nhà giàu, thù cũng thù người giàu, oán cũng oán nhà giàu, hăm dọa cũng hăm dọa nhà giàu. Trong khi đó cho vay nặng lãi, làm những việc bất nghĩa khiến dân ngày một nghèo, đó là bọn nhà giàu. Có nhiều ruộng màu mỡ, ít bị bỏ hoang mà lại mong cho mất mùa để được miễn giảm thuế khóa, cũng là nhà giàu. Nhà giàu sở dĩ giàu được, một phần do vơ vét của làng xóm và láng giềng chung quanh, một phần do quốc gia bồi đắp cho họ. Họ sở dĩ yên hưởng được sự giàu sang là còn nhờ ở hành chánh và an ninh của quốc gia. Nếu không, cái nhà họ ở để bảo vệ gia sản đó, bất cứ ai cũng có thể đốt được, thử hỏi họ có yên ổn ca vịnh được không? Tô điểm nhà mình cho đẹp đẽ chi bằng bỏ ra chút ít để tô đắp thành trì của đất nước được vững chắc. Thành có vững chắc nhà mới vững chắc. Chưng dọn khí mãnh trong nhà cho khéo cho tinh chi bằng bỏ ra chút ít để làm cho khí giới của nước nhà tinh nhuệ. Khi giới tinh nhuệ giữ được nước thì nhà nhờ đó mới còn. Vì vậy các nước phương Tây lấy thuế nặng nhà cửa những người giàu, thế mới hợp lẽ công bằng.

Nay xin chia những người giàu làm ba hạng, nhà hạng nhất đóng thuế mỗi năm một trăm quan, hạng nhì 50 quan, hạng ba 20 quan.

Bảy khoản trên đây (còn nhiều khoản nữa, đợi khi nào thi hành được tôi sẽ trình bày thêm) là đánh thuế vào những tập tục lãng phí không cần thiết để tăng lương bổng cho quan binh. Vả lại, tài sản của dân là do huyết mạch của quốc gia mà ra, nay dân lại đem cái của cải hữu dụng mà tiêu hao vào những chuyện vô ích, hơn nữa còn gây ra vô số tội ác thì Triều đình là bậc cha mẹ dân thấy dân ngu làm nhiều việc sai lầm lẽ tất nhiên phải gấp rút sửa đổi lại cho tốt. Bởi vì dân xài tiền mà sinh tội cũng như con nít múa kiếm làm đứt họng thì ta phải giật kiếm đi, khi nào biết múa mới được dùng. Các nước phương Tây sở dĩ đủ dùng cho việc nước là nhờ đánh thuế nhà những người giàu có và các cơ sở thương mại thế mà dân không oán than vì đó là thứ thuế chính đáng. Nếu dân nghèo thì chỉ bắt đóng góp một ít công tác thôi. Đối với dân họ tuỳ theo giàu nghèo mà đóng thuế nhiều hay ít, làm sao cho công việc nước được phân phối thích hợp với mọi người. Ngoài ra, tuỳ theo tục lệ và dân tình, mỗi làng mỗi xã có thể tuỳ nghi uyển chuyển áp dụng theo mỗi địa phương, miễn sao hợp pháp không được thiên lệch, để cho ai nấy đều tuân hành như luật pháp quốc gia vậy.

Pháp luật nước ta hiện nay còn sơ sót, huống nữa là tục lệ dân gian. Cho nên nước với dân tựa hồ mỗi đàng đi một nẻo. Tôi không phải hạng người chỉ biết góp nhặt lợi nhuận, đưa ra bảy khoản trên là vì thấy nó hợp lý và chính đáng, muốn sửa đổi những điều không tốt cho được tốt mà thôi. Dân gian phần nhiều có những sai lầm tội lỗi là vì do sử dụng tiền bạc không hợp lý mà ra cả. Cũng như phường trộm cướp, càng có nhiều khí cụ đồ nghề càng giúp chúng làm nhiều chuyện bạo ngược thêm. Nay dùng biện pháp đánh thuế để sung vào những công việc cần thiết, mà còn sửa chữa được tệ hại cho dân. Như thế công tư đều lợi.

Điều thứ tư: Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng.

Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm trống rỗng. Tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, huống gì những hạng dưới. Lòng người đã hư hỏng thì khó tìm được người chuộng nghĩa thực tâm sốt sắng việc công.

Năm trước, trong một tập trình bày về Ngôi vùa là quí, chức quan là trọng, tôi có nói: “Chỉ vì không biết đúng đắn cái nội dung của sự quí trọng nên mới sinh lòng dạ nọ kia”. Đó là nói chung phân biệt tất cả lý lẽ phải trái được mất của các học thuật Đông Tây kim cổ. Nay chỉ nói riêng nước ta, nhưng cũng xin viện dẫn một vài trường hợp nước ngoài để sáng tỏ thêm.

- Vậy học là gì?

- Là học những gì chưa biết để biết mà đem ra thực hành. (Nhưng thực hành cái gì? Thực hành ở đâu?) Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợí ích cho đời sau nữa.

Nhìn lại sự học của ngày nay, những điều thầy dạy, những cái học trò học, đều toàn những chuyện xa xưa. Tuy trong sách đôi chỗ có nói đến những việc thực tế nhưng chẳng truyền dạy được, vì người xưa đã khuất không thể dựng mồ lên hỏi. Bởi vậy người xưa có nói: “Có thể học biết phép trị nước của thời Đường Ngu, nhưng cái cách làm thế nào trị nước thì không thể học được”. Lại nói: “Việc làm cũng giống như gảy đàn cầm đàn sắt, mỗi người có một cách cải điệu riêng”. Chính là thế. Giả sử có một vài người từ hai ba ngàn năm trước còn sống đến nay, ta đem chuyện cũ trong sách tìm đến hỏi họ và được họ truyền dạy. Nhưng muốn đem những điều được truyền dạy đó ra thực hành thì cũng phải trở ngược lại với nhân dân thời thượng cổ mà chấn chỉnh lại phong tục tập quán thời thượng cổ cho hợp với họ thôi. Không thế thì thôi chứ ngày nay cũng chẳng ai theo nữa.

Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch, hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam kỳ, Bắc kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn, địa lý, chính trị, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì lại dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm thì phải dùng đến lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng có nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu nhưng chỉ để làm vui (Phải đọc sách của nước họ mới biết sự thật. Nếu xem sách Nho thì bao giờ cũng thấy nói khắp thiên hạ đều học theo phép Nho của mình cả. Đó chỉ là nói để khoe tốt, không đủ tin). Còn ra làm thì đều làm theo sách của nước họ, công việc của nước họ, chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như lối học của nước ta.

Nước ta trên cũng có trời che, tức thiên văn, dưới cũng có đất chở, tức địa lý. Trong khoảng trời đất, nước ta cũng là một đất nước tốt lành hẳn hoi, đâu phải một miền phụ dung của Tàu. Trong đó cũng có việc của con người, luân thường đạo lý của con người, tức là những gì ta phải xây dựng cho hiện tại cũng như cho con cháu ta mai sau. Nước ta cũng có tổ tiên. Các vua quan đời trước, các sự tích lưu truyền, có thể cho ta tìm hiểu nguyên nhân của sự được mất, khảo sát lý do của sự trị loạn. Đó là những gốc gác lai lịch ta cần phải biết.

Liệt tổ của Hoàng triều ta từ sáng nghiệp đến nay đã có cái đức phủ dụ trị dân như thế nào, đó là cái mà quan và dân ta phải biết rõ để cảm đội và ra sức giữ gìn. Những non sông bờ cõi hình thế biển hồ đồn thành và đất đai trong nước ta thay đổi như thế nào, đó là cái mà ta phải biết rõ để khi ra làm việc tránh khỏi lầm lẫn. Luật nước, lệ làng, cho đến những ưu điểm, nhược điểm, những lề lối dạy dỗ, những tục hay tục dở trong nhân dân nước ta, là những cái ta cần phải học hỏi tìm tòi để hiểu rõ, để sửa đổi và bổ cứu, nếu không thực hiện được trong một tỉnh một phủ thì cũng phải thí nghiệm được trong một làng. Như thế mới là cái học trị nước giúp đời. Nước ta dưới đất có những mỏ kim loại, đá quí, ngoài ra có những loại thú nuôi, cây trồng, là những cái ta cần phải phân biệt khai thác phát triển để tự cấp tự túc. Nước ta hiện nay bốn bề bị ép, người ngoài sắp chiếm làm hang ổ, đó là cái mà chúng ta phải hiến dâng trí khôn sức khỏe ra chống giữ để bảo vệ nước nhà. Nước ta có những vị danh thần trong các triều vua trước còn để lại danh thơm tiếng tốt, cũng như các danh thần và các quan chức trong Triều đình hiện nay mà việc làm của họ có thể làm khuôn phép cho đời, tại sao không đem ra truyền tụng cho mọi người được hứng khởi (Các nước phương Tây thường làm như thế để cho người ta biết mà bắt chước), mà cứ ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đã mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay còn mang ơn họ? Phải chăng thời nay không bì kịp người thời xưa? Hay muốn kêu cho họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở không thể nào hiểu nổi!

Nước ta hiện nay trong dân gian có lắm người không cày ruộng mà muốn có cơm ăn, không dệt vải mà muốn có áo mặc, không có tài mà muốn có địa vị, không học mà muốn làm quan, cho đến những bọn lòng dạ hẹp hòi, tính khí kiêu căng, không lo bổn phận, chẳng ra luân lý, chúng ẩn náy lén lút phỉnh dụ khiến những người học vấn không có căn bản đâm ra hoang mang, một dạ hai lòng, rồi chúng ngấm ngầm kết nghĩa, uống máu ăn thề. Có bọn đã lẻ vào Gia Định xem xét địa thế. Bọn này âm mưu thông đồng Nam Bắc, hành động nham hiểm muốn tiêu diệt dân ta. Tại sao không lôi chúng ra mà gạn hỏi, dạy dỗ, đàn áp để chúng biết rõ rằng hành động như chúng thì trong trời đất này không còn chỗ nào dung thân được nữa. Đó là việc sửa kẻ tà đưa về đường chính, một việc trọng đại như vậy còn cái học nào hơn? Việc đó kẻ sĩ phu, người dân thường ai cũng làm được, tại sao không làm?

Những việc trên đây, dân ta hiện nay còn ít người để ý, mà từ trẻ đến già, từ trường công đến trường tư đua nhau trau chuốt từng câu hay từng chữ khéo. Sao mà tệ mạt đến thế! Nếu đem cái công phu đã bỏ tâm trí một đời ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì cũng có thể chống được giặc. Nếu đem cái công lao nửa đời người đã dùng để học thuộc lòng những tên người tên xứ, rập khuôn việc chính trị, nhai lại những nghĩa lý cặn bã xa xưa của Ngu, Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống, Nguyên mà học những việc hiện tại như binh, hình, luật lệ, tài chánh, thương mại, xây dựng, canh nông, dệt và những cái mới khác thì dần dần cũng có thể làm cho nước mạnh dân giàu. Tại sao đến nay vẫn chưa nghe dân chúng khuyên nhau học những cái thực dụng ấy, mà chỉ ưa những chuyện kỳ dị xa xưa, bàn bạc những chuyện từ họ Hi Hoàng? Còn việc nước, dân tình được mất đều phó mặc cho Triều đình. Vậy phải chăng họ tự xem họ như con nít? Không phải lỗi ở họ mà chính ở học thuật. Sở dĩ học thuật chưa thuần là do không nhận rõ “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng” cũng như mối quan hệ giữa dân với nước ra sao. Cho nên bất cứ cái gì cũng đặt cái vị tư vị kỷ là trước, không thật tâm làm việc vì công ích. Chính đó là ý do mình đã lầm lỗi lại làm lầm lỗi cho người khác.

Nói về học thuật mà không có đường lối sáng suốt rõ ràng, một phần do ở sách vở và một phần tại Triều đình. Tuy nhiên tôi chưa dám nói rõ, sợ có điều quan ngại (Nếu đừng bắt tội mà cho phép nói, tôi sẽ nói rõ). Bởi vì phong tục dân tình ngày nay ra sao Triều đình cũng đã biết rõ hết rồi. Nay nếu muốn nhất thời sửa đổi hết tất cả tệ đoan ấy, sợ sinh nhiều mối nghi ngờ, hoang mang, chống báng lẫn nhau làm cho lòng người không yên. Vì vậy cần phải tìm học cái học thực dụng, phân chia ra các khoa, các môn, ban thưởng nhiều cho những người dự thi vào các khoa, môn này để khuyến khích dần dần đưa đến kết quả lợi ích thì các tệ đoan dần dần sẽ mất đi.

Nay xin lập các khoa sau đây.

1. Khoa nông chính

Hàng năm dân chúng mang các công cụ mới chế tác dùng tiện lợi hơn các thứ cũ, những hoa màu thổ sản thu hoạch được cùng những phương thức trồng trọt đem lên tỉnh dự thi và lãnh thưởng. Các nước phương Tây giàu mạnh được cũng nhờ chuyên về khoa nông nghiệp. Còn về nguồn lợi khoáng sản thì cần phải đặc biệt chăm sóc. Nay trước hết xin tiến hành xuất bản một bộ sách NÔNG CHÍNH TOÀN THƯ. Rồi sức khắp trong nước từ trước đến nay ở đâu có phương pháp nông nghiệp gì thích hợp với đất đai, thời tiết sớm muộn ra sao, trồng loại lúa thóc gì, chăn nuôi giống gì, thu hoạch nhiều ít ra sao, báo cáo tất cả về tỉnh, tỉnh đệ về Bộ để phối hợp vào sách Nông chính. Nếu thấy những gì có thể phát minh được sẽ soạn thành sách học. Còn những sách nông nghiệp cũ không thích hợp khí hậu đất đai nước ta thì loại bỏ hết. Ngoài ra xin lập một Bộ Canh Nông như các nước phương Tây. Bởi nông nghiệp là gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác cần cho đời sống đều nhờ nông nghiệp. Người xưa nói: “Người ta không có cái ăn cái mặc thì không còn đạo vua tôi”. Nếu con đường này không phát triển dồi dào thì dân lo kiếm ăn cho khỏi chết đói còn chưa kịp, rảnh đâu mà nghĩ đến lễ nghĩa. Nay ngành trồng trọt chăn nuôi của nước ta đều phó mặc tự nhiên, không có quan viên bày vẽ, giáo dục, đốc suất, dân chúng cứ theo lề lối cũ mà làm không có gì mới mẻ cả thì làm sao có thể hy vọng mỗi ngày một giàu thịnh để đóng góp thêm thuế khóa cho nhà nước?

Chính mắt tôi trông thấy có nhiều nơi nếu chịu bỏ ra đôi ba trăm quan để bồi đắp thì hoa lợi mỗi năm có thể thu được gấp trăm lần. Cũng có nhiều nơi ao đầm hồ vũng, nếu cho rút đi chừng một thước nước thì đều có thể cấy lúa được, thế mà cũng không biết cách ngăn đắp để cho nước chảy ra bể tống hết các bùn cát cùng những vật ô uế đi. Có nhiều nơi nếu đắp đập cũng chẳng tốn bao nhiêu công, vậy mà người ta cứ bỏ không để làm chỗ cho le cò hàu hến. Các đất hoang trong sổ bộ của quan cho là không thể cày cấy, hầu hết là những loại mà tôi đã kể. Tôi có hỏi dân những nơi ấy thì kẻ bảo không tiền, người bảo không sức. Có người bảo thầy địa lý nói không nên cho nước tụ lại, hoặc đắp đê sẽ làm động địa mạch khiến hương hào hương lão trong làng ốm đau. Có người bảo nếu đắp đê làm ứ nước, các xã thôn bên trên sẽ làm đơn kiện. Có người bảo không dám đắp vì sợ động đất đai trong xã hoặc động mồ mả nhà quan ở xã gần bên. Những chuyện tương tự như thế nhiều không thể kể xiết.

Tôi rất lấy làm tiếc nhưng không biết làm cách nào cho dân hết những tệ trạng này. Chỉ có cách nhờ phép quan mà thôi. Xưa nay trong sách có chép nhiều về việc nhắc nhở dạy bảo dân về nông trang, nhưng đó chỉ là nói suông không thấy thực hành. Còn đối với các nước phương Tây, khoản này tốn rất nhiều công phu. Nếu không giỏi độ làm sao cho đúng với thế đất tự nhiên, nếu không có tài mở chỗ nọ đắp chỗ kia sao cho hợp thì không thể làm công việc này được. Còn học văn chương, dù có giỏi khai, thừa, chuyển, hợp, rành các thanh bình, thượng, khứ, nhập, một mai sa cơ lỡ vận, cầu ấm no cho một thân mình còn chưa được nói gì đến chuyện làm cho dân no ấm? (Làm được nông chính như các nước phương Tây, không phải chuyện dễ, chỉ khi nào thấy tận mắt mới nói được). Vậy xin mở gấp khoa này cho dân học tập rồi dần dần mới thông thạo được.

2. Khoa thiên văn và khoa địa lý.

Hai khoa này là gốc của mọi việc. Trí xảo con người mỗi ngày một tăng, tính tình con người mỗi ngày một ngay thẳng đều nhờ ở hai khoa này (Hai câu này có nhiều sự lý, dịp khác tôi sẽ nói rõ) nhưng nó thấm nhập dần dần, từ từ mà tiến chứ không thể lấy năm tháng mà tính được. Nay xin gấp rút duyệt lại các sách Thiên văn Địa lý từ trước đến nay, chọn lấy những gì hợp với thiên thời địa thế nước ta, chắc chắn có thật lý thật sự, có thể thấy như vật trong bàn tay mà không xem đến chuyện thuật số phong thuỷ, những chuyện phù phiếm quàng xiên, soạn thành sách ban hành. Lại phải tham khảo các sách Thiên văn Địa lý của phương Tây. Những sách tôi đã chọn mua trong chuyến đi Tây vừa qua, đã trình nạp rồi mướn người dịch ra, tóm tắt những chỗ quan trọng, hữu dụng để tham khảo ứng dụng để cho mọi người biết rõ rằng chúng ta ở trong trời đất, phàm tất cả những an nguy, hưng phế, phú quý, họa phúc đều từ trong đó mà ra cả. Nay ta không biết rõ đầu ta đội gì, chân ta đạp gì, nhờ cái gì mà ta sống, ta bắt đầu từ đâu, sở dĩ ta được sinh ra, được nên người là ý gì? Sự tình mập mờ như thế, đạo lý thiếu xót như thế, vậy mà không chịu học để thấy rõ, cứ bằng lòng với cái dốt nát của mình. Như người chỉ biết nói toàn chuyện hoang đường thì làm sao có thể tận dụng được cái kỳ diệu của trời đất?

Về lịch, cần phải thuê người thông thạo, khảo sát độ số khí tiết nước ta soạn thành một quyển. Lấy chu kỳ là 100 năm. Sau đó, mỗi năm cứ y bản mà in ra không phải mỗi năm mỗi tính nữa. Công việc này các giáo sĩ có thể làm được. Khi lịch pháp đã thành nhất định rồi thì những vất vả của các quan ở đài thiên văn cũng bớt đi rất nhiều. Như lịch Tây, ai cũng biết không phải tính toán gì cả. Ở các nước phương Tây không có ai ở đài thiên văn làm sai. Bởi vì phương pháp giản dị dễ làm, cũng chẳng có gì quan trọng nên không cần bình nghị khả năng. Còn một người làm về thiên văn nước ta thì sao mà ưu đãi thái quá mà lại sai lầm quá nhiều. Dịp khác tôi sẽ nói rõ, sai lầm đó là bởi chưa nắm được cái hiệu dụng lớn của thiên văn mà thôi.

Các nước phương Tây thiết lập chiêm tinh còn có nhiều cách tính toán theo phương pháp mới nhằm đem lại lợi ích lớn cho việc dân việc nước chứ không phải chỉ chuyên để làm lịch. Bởi vì trong trời đất có biết bao nhiêu việc không phải chỉ một chuyện coi lịch coi ngày đủ bao quát tất cả. Vì vậy cần phải học gấp khoa này mới biết được sự thật của trời đất.

3. Khoa công kỹ nghệ.

Hãy tìm trong các sách Nho từ trước đến nay xem có chỗ nào nói đến cơ xảo dù một vài câu cũng nhặt hết ra, thu thập sửa lại cho đúng. Ngoài ra, lựa lấy trong các sách Tây, chỗ nào nói về những cần thiết hằng ngày, thí dụ như các sách viết về nguồn lợi khoáng sản cũng như tất cả các sách Tây viết về máy móc (tôi có mua hai quyển lớn đã trình nạp rồi, trong đó nói đủ cả) rồi xin các giám mục địa phương mỗi nơi cho hai linh mục rành tiếng Nam về Kinh để cùng dịch thuật với các nhà biên soạn. Cũng xin mua một máy in để in ra xuất bản. Tuy nhiên trước tiên phải lập khoa này, đặt thể lệ hẳn hoi để cho thấy rõ rằng Triều đình xem việc này là trọng, ai học sẽ được thành danh lập nghiệp. Nếu không, họ vẫn cứ đua nhau miệt mài văn tự theo cái học khoa cử mà thôi.

4. Khoa luật học.

Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ sung thêm từ Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó có tam cương ngũ thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ. Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật. Bởi vậy ở các nước phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch Bộ hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao bị biếm truất. Dù vua, Triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả. Phàm những tội ngũ hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ ký của các quan trong Bộ ấy. Làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những việc ngũ hình để tỏ đạo nhân ái. Như chế độ xưa, vua có “tam hào” (3 lần tha). Bởi vì nếu có tội phải giết thì đó là quốc dân giết.

Biết rằng đạo làm người là không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm? Cho nên Khổng Tử có nói: “Ta chưa hề thấy ai thấy được lỗi mình mà biết tự trách phạt”.

Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khac cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật, thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị được dân. Điều này quá rõ. Bởi vì sách vở chỉ chép nào là sự tích chính sự thời xưa của cổ nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại, nào những áng văn chương trau chuốt của chư tử, nào những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự đặt bày. Trong đó hay có, dở có, kẻ nói này, người nói khác, xét kỹ thứ sách vở đó chỉ làm rối trí thêm chẳng được tích sự gì. Cho nên Khổng Tử nói: “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Thử xem có những nhà Nho suốt đời đọc sách, đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người cuộc đời của họ và sự ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác? Nếu bảo luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng không bằng hợp với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao? Chỉ sợ con người không tận dụng luật mà thôi. Nếu tận dụng cũng đủ trọn vẹn đạo làm người rồi, bất tất phải đi tìm cái gì khác.

Vậy xin cho tất cả những người dự thi trước tiên phải thi khoa luật và các khoa khác thiết thực cho hiện tại. Còn thơ phú chỉ để ngâm hoa vịnh nguyệt, chứ đói có thể đem ra nấu ăn cho no bụng được đâu? Kinh nghĩa đã có các nhà nho tiền bối chú giải rõ ràng rồi cần gì phải vẽ vời thêm. Đọc kinh sách chỉ cốt hiểu rõ nghĩa lý, không phải hao tốn tinh thần, tiêu ma ngày tháng vào cái thứ văn chương bát cổ vô dụng ấy. Còn văn sách thì cứ nói mãi những chuyện Hán trị tạp bá, Đường trị vị thuần. Tạp bá, vị thuần của người ta mặc kệ người ta. Mình hãy nói chuyện trị nước của mình ngày nay ra sao thôi. Nước chưa giàu, sao không đặt kế hoạch để giàu? Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh? Dân chưa khôn sao không đem đạo lý ra giáo dục? Nhân dân đói khổ sao không lập kế sinh mưu để cứu? Kẻ địch bên ngoài sắp muốn nô dịch dân ta, cướp bóc của cải ta, tại sao không hỏi han nhắc nhở nhau tìm mưu lập kế để ngăn ngừa? Dân gian không biết luật, phạm nhiều sai lầm, sao không chỉ dạy rõ ràng để biết mà tránh? Tại sao không đem tâm lực ra mà lo những việc cần kíp trứơc mắt, lại đem dùng vào những chuyện xa xôi không thiết thực? Tôi sợ kẻ địch xung quanh đang bức bách ta ngày kia sẽ đem cái giáo hóa luật lệ của chúng đến sai khiến chúng ta. Chừng đó ăn năn sao kịp!

5. Dùng quốc âm.

Phàm con người ta muốn giả bày cái gì ở trong lòng phải nhờ tiếng nói. Mà nói thì cốt phải rõ ràng khiến ai nghe cũng hiểu, như vậy mới hợp với ngôn ngữ tự nhiên. Không thế thì chỉ là giọng nói không trong trẻo rõ ràng của những người già cả hoặc có tật chứ không phải do tự nhiên trời sinh ra như vậy. Ngày nay có những người mỗi lần mở miệng ra nói lại phải nhờ người khác dịch giải, chẳng khác nào người nước ngoài. Ta một nước sao lại có hai thứ ngôn ngữ? Hai thứ chữ viết? Hai lần học? Thế có phải nước thì một mà người thì chia hai không?

Nói về chữ viết thì đó chỉ là những ký hiệu đặc biệt thay lời nói để ghi chép công việc mà thôi. Nước nào cũng thế. Hồi mới có loài người chưa có chữ viết nhưng cũng vẫn là người không mất mát sai lầm gì. Về sau công việc mỗi ngày mỗi nhiều mới có sai lầm thiếu sót. Do đó những người có trí tuệ tìm ra một thứ hình vẽ để ghi lại. Cũng như lối làm ra bàn tính vậy, ban đầu lấy hàng một làm hàng đơn vị rồi lên đến hàng chục rồi lên trên nữa là hàng ngàn. Dần dần trải qua nhiều thế hệ, công việc càng tăng nhiều thêm, số hình vẽ do đó cũng phải tăng lên. Chữ viết tăng theo tiếng nói. Nếu bảo chữ xưa không thể thay đổi tăng thêm, thế là sai. Thử xem chữ viết của Trung Quốc từ xưa đến nay đã tăng thêm và thay đổi bao nhiêu cách rồi. Các nước cũng vậy. Nước nào có chữ viết riêng của nước ấy, đọc lên ai nghe cũng hiểu. Học là chỉ học cách viết ra chữ mà thôi. Vả lại trời sinh ra một nước thì cũng có một thứ chữ, một thứ tiếng của nước ấy. Nước ta là một nước có tên tuổi vào hàng nhì của phương Đông vậy mà chỉ một mình nước ta không có chữ viết. Có phải tại trời không thương ta chăng? Không, đó là lỗi tại ta học chữ nướcngoài lại tôn sùng thái quá, cho nên dù có kẻ tài trí xuất chúng cũng không dám sáng tạo ra cái khác, sợ người dị nghị!

Khi quốc gia ban hành chính sách hay mệnh lệnh gì, chắc chắn là muốn cho tất cả mọi nguời có mắt đều được thấy, có tai đều được nghe chứ đâu phải chỉ muốn một nửa số người biết thôi, còn một nửa phải tìm người thông dịch mới biết. Nay ta không có chữ viết riêng mà chỉ dùng chữ nho để viết thay. Về phát âm đã không theo đúng giọng Trung Quốc cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta. Người mới học phải thuộc mặt chữ bằng mắt lại phải vận dụng trí nhớ để nhớ những phát âm lạ tai. Âm vận của thứ chữ này chỉ có ai học mới biết, không học thì nghe cũng như vịt nghe sấm mà thôi. Thế có phải phí hơn một nửa công phu trí óc không? Nay nếu học sách quốc âm, học sinh ở nhà đọc đàn bà con nít nghe cũng hiểu, như vậy tuy không đi học mà cũng học được. Hơn nữa nếu dùng quốc âm thì lúc nhỏ đã có cha mẹ dạy, lớn lên đi học chỉ học nét viết mà thôi. Thế có phải giảm bớt được một nửa công phu không? Đem một nửa công phu học tiếng lạ đó mà học những việc thiết thực cho đời sống có phải ích lợi lớn hơn không? Phàm học tiếng học chữ là học lúc còn bé, còn lớn lên thì phải đem những điều hiểu biết trong sách ra mà làm. Trừ phi có giao thiệp với nứơc ngoài mới học tiếng nước ngoài, chớ tội gì đã lớn mà còn học như con nít nước ngoài học vậy?

Ngày nay nước ta những kẻ thông minh lanh lợi đều đua nhau học chữ, không lập công dựng nghiệp nhân lúc thanh niên cường tráng, mà chỉ vùi đầu đèn sách hết năm này sang năm khác. Phải chăng họ muốn trở thành người Trung Quốc? Thế mà đem nói với người Tàu, người Tàu chẳng nghe, nói với dân ngu, dân ngu chẳng hiểu. Một tờ trát đưa xuống, kẻ hiểu thế này, người hiểu thế khác. Một chữ trong luật, kẻ nói tội nhẹ, người nói tội nặng. Đơn từ án lịnh thì bọn thầy kiện và quan tòa quỷ quyệt lật ngược lật xuôi. Sự tình khai báo trong dân gian thì tráo trở thiên biến vạn hóa. Công việc chất chồng phần nhiều bị bóp méo không tả rõ được sự thật. Thông cáo yết thị của nhà nước truyền xuống phải qua người biết chữ đọc và dịch lại cho dân, nhưng phần nhiều viện dẫn thất thiệt, giảng nghĩa không rõ khiến dân thường không hiểu biết, ý chí của Triều đình bị xuyên tạc. Thậm chí có người viết cái gì cho ai bằng quốc âm thì bị khinh thường. Làm thầy thuốc mà xem quốc ngữ thì bị cho là tầm thường. Nói tiếng mẹ đẻ mà không xen chữ nho vào thì bị cho là quê mùa. Ngoài ra lại còn có một thứ văn từ chuyên dùng những chữ hiểm hóc cầu kỳ cốt để cho người đọc không hiểu, nghe không ra. Thế mới cho là kỳ diệu tuyệt vời. Phải làm sao cho nhiều tay cao kiến hay chữ, giản giải bắt bẻ đến nỗi một chữ ra hàng trăm nghĩa, ý tưởng lập lờ nước đôi không tài nào quyết định được, thế mới là tay cự phách trong làng văn!

Xin hỏi: chữ viết là để thay thế lời nói. Nói là để cho người nghe hiểu. Nay mở miệng nói mà không ai nghe hiểu cả thì đó không phải tiếng người nữa rồi. Lạ lùng chưa? Hèn gì nguời ta bảo là một thứ chữ kỳ cục cũng phải. Những chuyện đại loại như thế rất nhiều không sao kể xiết.

Ở bên Tây, mười người đàn ông có một người mù chữ, mười người đàn bà có bốn người không học chữ. Mặc dầu không biết chữ nhưng chiếu, chỉ, từ, trát cho đến báo chí sách vở, có người đọc cho nghe thì đều hiểu hết. Là vì chữ của họ đều viết bằng quốc âm. Con nít họ đi học ba năm thì không chữ nào không đọc hiểu được. Không phải như chữ nho học cho đến chết cũng chưa nhớ nổi một phần ba. Tôi thống kê chữ nho có 4 vạn 4 ngàn chữ. Trong đó, người học rộng sử dụng không tới một vạn chữ, người trung bình chừng 4, 5 ngàn còn người thường chừng đôi ba ngàn mà thôi.

Chả lẽ ở nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ để viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt. Vậy xin dùng chữ Hán làm mẫu, lựa âm của chữ nào hợp với âm tiếng ta, nhất định không thay đổi thì đọc như tiếng ta không cần giải nghĩa. Chữ nào có âm gần giống tiếng ta thì thêm nét phụ vào rồi đọc ra tiếng ta. Ngoài ra gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm tự điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng. Khi nào chữ Hán đã được đọc thành âm tiếng ta rồi thì bất cứ ai biên chép việc công việc tư đều phải dùng thứ chữ đã ban hành, không được thay đổi. Còn các nhà văn ai muốn dùng chữ Hán theo âm nho tuỳ ý nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành.

Ta đã học chữ Hán mà không đọc được như người Hán lại thêm một lần phát âm khác, thêm một lần giải thích nghĩa, khiến người có tài trí phải mấtđi tinh lực nửa đời người dùi mài vào cái học ấy, không còn thì giờ tâm trí để học những cái khác. Bây giờ ta cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa, thế cũng vẫn dùng chữ Hán có gì mà không được? Thí dụ như chữ “Thực phạn” thì đọc là “ăn cơm”, hoặc viết chữ “ăn cơm” thay chữ “Thực phạn”. Như vậy mà còn ai cho chữ “Thực phạn” là quý trọng, chữ “ăn cơm” là khinh thường, nhất định cố chấp chữ nho là quí trọng, là dễ, còn chữ ta là tiện, là khinh, là khó thì dẫu trời là giỏi phân biệt muôn loài khinh trọng quý tiện cũng không cãi lại bọn này.

Nay lấy chữ Hán đọc ra quốc âm thì khi đọc lên ai nghe cũng hiểu có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không?

Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Còn sáu, bảy ngàn tiếng đã viết được như chữ Hán thì cứ viết, chỉ đọc như quốc âm thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm”. Từ nay hễ có dịch các sách mới hoặc có người giỏi trước tác những sách về thời vụ thì bắt buộc dùng chữ Hán quốc âm. Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán chẳng phải ta. Có phải giải quyết được dễ dàng những việc khẩn cấp mà thu được lợi ích rất lớn không?

Bởi vì sự học có công dụng lớn cho quốc dân. Khi sự học gặp phải khó khăn rắc rối thì cả nước phải chịu sự khó khăn ấy đời nọ đến đời kia chứ đâu phải chuyện nhỏ.

Lập luận của tôi không khác như người học Phật trở lại mắng Phật, nhưng vì xấu hổ bởi các nước trên thế giới đều chê cười nước ta không có chữ. Hơn nữa thời thế bắt buộc phải làm như vậy chứ không phải tôi dám lập dị theo ý kiến riêng của mình.

Thường tình, ai lại không yêu quí những cái vốn có của mình, dù nó không đáng giá? Ai lại chẳng muốn lánh nặng tìm nhẹ, làm ít được nhiều? Dù cho cái vốn có của ta không tiện dụng, có hại, phí sức và khó làm, bất đắc dĩ phải bỏ cái của mình và theo người, nhưng trong lòng không khỏi hổ thẹn. Nay nước ta đã coi khinh cái vốn có của mình mà quý trọng cái hiếm lạ của nước ngoài, nghĩa là bỏ cái quốc âm của ta mà đem một nửa công phu tìm cầu cái ngoắt ngoéo, thật mỉa mai thay!

Tôi thấy nhiều người soạn thảo một bài từ mà vò đầu bóp trán chưa viết nên lời, suy đi nghĩ lại, nín thở ngưng thần như gặp việc gì to tát lắm, như phải quyết định một việc gì khó khăn lắm, thế mà văn ý cũng chẳng dồi dào rực rỡ hấp dẫn gì cho cam! Đó có phải là tại khinh rẻ cái của mình mà đi bắt chước cái khó làm của người ta hay không?

Nếu Triều đình chấp nhận đó là kế sách lớn lâu dài giản tiện thì xin cho làm thử xem sao. Cũng xin đem sử ký, phong thổ ký nước Việt ta và các sách dạy nghề cùng với năm khoản tôi trình bày về học thuật trên đây cho học tập.

Ngoài ra xin đem các tập Ngự chế và các sách của Hàn lâm sách nào hợp với thời vụ ra ban hành. Còn kinh sử tử truyện chỉ dùng để khảo nghiệm một vài việc mà thôi. Và cũng xin đặt lệ cho các hiệu đình cho sách nào in trước, sách nào in sau. Ngoài ra cần phải ấn hành một tờ nhật báo đăng tải các chiếu, chỉ, sớ, dụ, những việc làm của các bậc có tiếng tăm, những công vụ quốc gia hiện thời cho học sinh đọc để biết công việc trong nước. Đó cũng là một ích lợi hơn (Ích lợi ấy rộng rãi như mưa móc thấm nhuần, không thể chỉ ra từng cái được, làm sẽ thấy ngay).

Còn như những tiểu thuyết, chuyện hoang đường, bùa chú, sấm vĩ, những chuyện ngông láo không kiêng dè và những chuyện truyền miệng về đoán định cơ trời khí số, lưu truyền trong dân gian của Trạng Trình, Trạng Lượng, làm hư hỏng lòng người rất nhiều, gây dao động bất an trong dân chúng (tôi rất đau lòng nhức óc đụng chạm với người ta và phải vất vả với nhiều người về những chuyện này lắm). Những chuyện đó không được truyền thuật, đàm luận hoặc in ra xuất bản.

Tôi thấy bên Trung Quốc có nhiều người thấy chuyện đó là bậy bèn quyên tiền mua những sach ấy đốt đi. Ý nghĩ của họ tốt, nhưng việc làm của họ chỉ đáng một chén nước dập tắt sao nổi một đống củi, nào có bổ ích gì? Chỉ cấm ngặt họ may mới dứt được gốc mà khiến cho lòng người chú trọng vào cái học thiết thực cho những công việc hiện tại. Như thế mới có thể dần dần tiến tới chỗ tốt đẹp và ích lợi.

Tôi thấy bên Tây người ta học những cái của quốc vương, danh thần, danh sĩ đương thời làm ra viết ra. Còn cổ văn chỉ dùng để khảo đính. Và ai cũng cho rằng lời nói việc làm của vua tôi quốc gia hiện nay là đúng và cho rằng những việc đúng đắn của ngày xưa thua hẳn ngày nay. Như người xưa khoe thái bình, thịnh trị, tài trí, phú cường v.v… chẳng qua chỉ là nêu lên một cái tốt mà bỏ qua hàng trăm cái tồi tệ không nói đến. Nếu tìm tòi học hỏi, thâm hiểu các lẽ thời thế đổi thay mới thấy lời tôi nói không ngoa.

Tại sao người thời nay cứ nói không thịnh trị bằng thời xưa? Hễ có một tý tai biến gì làm không vừa ý thì đem xưa chống báng nay, chê bai oán trách, những hạng người như thế sao không tự đi tìm thời thượng cổ mà sống để hưởng thịnh trị? Tại sao không chịu suy nghĩ rằng thân ta, đời ta ngày nay hiện đang ở đâu. Phải biết sống theo hoàn cảnh mới là người sáng suốt hiểu đúng đạo lý. Sao lại miệt thị sự thật, mơ tưởng chuyện đã qua đến thế! Tất cả những sự việc như thế do lỗi ở học thuật không có đường lối sáng suốt gây ra cả.

Nói tóm lại, học xưa thì lòng người hướng về đường lối xưa muốn được như xưa, học nay thì lòng người hướng về thời nay mà muốn thành đạt một sự nghiệp gì. Học xưa học nay có thể đổi khác lòng người như thế. Vậy dám xin hãy sửa đổi học thuật dần dần để cứu vãn lòng người trở lại.

Năm khoản trình bày trên đây tôi chỉ nói sơ qua những tệ hại thông thường, cạn rợt, dễ thấy để sửa sang lại học thuật mà mong những điều tôi nói ra đó sẽ không bị buộc tội. Còn nói đến nho phong ngày nay đã gây ra tệ hại lớn cho Trung Quốc cũng như nước ta như thế nào, chỉ rõ ra phải đến mấy trăm khoản cũng chưa hết. Nhưng mà nếu nói ra, chắc tôi không dám về nước! Triều đình có muốn nghe không?

Điều thứ năm: Điều chỉnh thuế ruộng đất.

Xưa lấy thuế một phần mười. Ngoài ra cũng có các khoản khác, như “cống”, “trợ”, “triệt” tuỳ lúc chứ không nhất định. Thuết có nặng có nhẹ tuỳ việc chứ không phải theo ý riêng hay tình cảm thiên vị gì cả. Như Hán Vũ Đế tính thuế thuyền, xe, muối, sắt. Tống thu tiến miễn dịch (4), tiền lúa non (5), rồi xuống đến Minh, Thanh còn thêm nhiều thứ phức tạp khác. Những cái đó cũng chỉ tạm thời đặt ra tuỳ tình thế, để giải quyết công việc trong tình thế đó. Có gì mà không hợp? Chính bọn nho sĩ đời sau, bản thân không có khả năng đảm đương công việc như vậy, hoặc vì mất địa vị mà oán hận, mới làm kẻ ngoại cuộc, đứng ngoài phê bình chỉ trích. Như thế đã không có lý lẽ chính đáng lại còn mở đường cho những bọn ăn không ngồi rồi, những phường thất chí bất mãn, tụ năm họp ba xì xào bàn tán làm dân chúng hoang mang, chê bai oán trách bề trên. Họ thường ví vua như Tần Thuỷ Hoàng, Hán Vũ Đế; ví tôi của vua như Trương Thang, An Thạch. Mặc dầu họ nói lén lút vu vơ không biết đâu buộc tội được, nhưng sự khinh chê chống báng của họ có thể làm rối loạn chính trị, tội ấy rất lớn, chắc chắn chúng không thể nào lọt lưới âm phủ được. Lòng dân đã ôm ấp bất bình thì thế nước ắt sinh tai họa. Việc đó chắc chắn do bởi những bàn tán xôn xao phê bình vô trách nhiệm của đám hậu nho xử sĩ gây ra cả.

Điều tôi xin đề nghị đây không phải xin tăng thuế nhiều thêm mà xin cân bằng lại chỗ thừa chỗ thiếu. Vì trong dân gian có nhiều bộ điền thổ lúc trước chỉ lập bộ những chỗ cao ráo còn những nơi thấp chỗ sâu thì không ghi vào sổ bộ. Về sau hoặc vì có khúc sông bồi cát, hoặc vì phân rác lấp đầy, hoặc vì biển ngưng tụ bùn, hoặc vì đầm nước cạn, những nơi này đáng lẽ phải được ghi lại là ruộng thượng hạng. Thế mà dân y theo cũ nạp thuế. Còn những ruộng ấy thì hoặc bị bọn phú hào chiếm hữu, hoặc lấy làm ruộng tư của làng để tiêu phí vào các khoản lặt vặt như cúng tế, hát xướng, sửa đình sửa miếu, mà trong đó bọn hương hào lý dịch ăn bớt đến phân nửa. Nếu có ai vạch ra thì chúng bảo đó là ruộng cúng tế. Lại có nhiều nơi ruộng có mười phần mà sổ bộ chỉ ghi ba bốn phần. Lại có một vài nơi làm nghề đánh cá, cứ một năm làng thu trọn một ngày cá trên tất cả các ghe lấy tiền sung vào quỹ làng, số tiền đó có khi đến ba bốn nghìn quan đều dùng vào những việc linh tinh không cần thiết. Vậy mà dân chẳng ai phàn nàn gì cả, chứ đánh thuế thì họ sẽ kêu ca rên xiết rằng dân nghèo kiết xác. Cũng có làng không tiền công quĩ mà muốn làm rình rang khoe tốt với làng bên thì ai nấy vui lòng xuất tiền túi ra cho bọn hương lý làm những chuyện vô ích. Còn việc công thì chưa bao giờ thấy họ đóng góp một cách sốt sắng như vậy. Lại có nhiều nơi ruộng cao có thuế lại mất mùa không thu được gì cả, còn ruộng thấp không có thuế thì lại được mùa, thế mà chẳng bù sớt cho nhau tí nào. Lại có ruộng vốn làm lúa mùa hè mà ngạch thuế cũ ghi là lúa mùa đông. Số thu hoạch trong mùa hè tiêu dùng hết đến đông phải vay nợ để đóng thuế, làm cho dân ngày một nghèo khổ. Lại có những bọn lý dịch lấy ruộng của dân tráo chỗ nọ đổi chỗ kia, để thu thuế của dân thì nhiều mà nộp lên quan thì ít. Lại có những làng vốn gần rừng núi đất rất rộng, những người chung quanh thiếu ruộng vỡ ra cày cấy. Sau bọn lý dịch dời trọn vẹn ngạch thuế qua chỗ mới khai phá bắt phải gánh chịu. Như vậy là quá nửa số thuế lọt vào túi bọn lý dịch chẳng khác nào chúng có đất phong hầu để ăn lộc vậy. Lại có làng ở ven sông đất bị sông xói lở không cày cấy được, hoặc có nơi vốn đất bỏ hoang không khai khẩn được thế mà vẫn bị bọn lý dịch chiếu lệ tăng thuế. Lại có nhiều nơi có nhiều ruộng lậu thuế không khám phá ra được bởi tài đắp vá quỷ quyệt của bọn lý dịch. Như vậy trong dân gian kẻ giàu thì giàu thêm, người nghèo càng nghèo mạt, phân nửa là do lỗi này gây ra, mà quan trên cũng phải nhọc nhằn phân xử mãi không dứt. Tệ đoan đó gây ra bởi sự gian lận của dân. Trong dân có những bọn lý dịch lỳ lợm ngoan cố, thà chịu tra khảo chứ không chịu khai thật (Quan canh nông bên Tây đích thân đi đo đạc rõ ràng chứ không theo sự khai báo trên giấy tờ) thế mà dân khen là dũng cảm làm được việc ích lợi cho dân. Nếu có lý dịch nào nhút nhát không làm được thế thì rất lấy làm xấu hổ. Vì vậy họ bắt chước nhau cho những người không chịu thú thật với quan là lý dịch tốt. Nếu làng nào giấu được nhiều ruộng đất để nhẹ thuế thì người chung quanh cho là có phước. Họ biết đâu đó chính là đại vô phước và mắc tội rất lớn với trời vậy. Luận về việc làm của họ làm mờ ám thiên lý, mất lương tâm không thể kể hết được.

Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh lương. Binh để giữ nước. Lương để nuôi binh. Thế mà trong dân gian còn nhiều người chưa hiểu lý lẽ ấy. Nếu có của cải mà không có quan binh bảo vệ thì quân giặc kẻ trộm hoành hành, thân còn không giữ được, giữ sao được của cải? Dân đã không thể một mình mình bảo vệ được thân mạng, nhà cửa, của cải thì bỏ ra một ít lương thuế nhờ lực lượng quốc gia bảo vệ sự nghiệp to lớn lâu dài của mình cho. Đó là bỏ ra thì ít thu vào thì nhiều, chẳng qua cũng là một lối trao đổi vậy thôi. Có lẽ nào chỉ muốn ngồi không mà hưởng, không muốn trao của cải của mình để đổi lấy sức mạnh quốc gia? Đối với sự sản của mình thì muốn được bình an thịnh lợi, mà đối với công việc bảo vệ cho mình đó thì cố sức gian lận trốn tránh. Như vậy rõ ràng là muốn không có việc nước, cả đến không có bản thân nữa.

Nói đến dân với nước bề ngoài dĩ nhiên có sai khác nhưng suy đến cái nghĩa sinh tồn tự nhiên thì hai bên có sự tác thành cho nhau, liên kết nhau hết sực chặt chẽ mật thiết, chứ không phải như bạn bè, thân thích muốn hợp muốn lìa muốn nương tựa nhau không nương tựa nhau tuỳ ý. Bởi vì không có quốc gia thì không thành dân sự. Không có đạo vua thì không thành quốc gia. Đó là mối liên lạc tương quan hết sức mật thiết mà tạo vật đã sắp đặt (Tuy nho sĩ tự gọi có đạo học cũng không thể nhận rõ lý này). Không một ai có thể vượt ra ngoài được. Vì vậy mà người ta bảo một quốc gia cũng như một thân thể, cùng vui cùng khổ với nhau. Có lẽ nào những chi tiết trong một cơ thể lại lừa dối gian lận nhau? Đó là chuyện xưa nay chưa từng có. Nay đã gian lận lừa dối tức là muốn vượt ra ngoài cái luật tương quan nhất định của tạo vật, là muốn vượt ra ngoài cái luật tương quan nhất định của tạo vật, là muốn cắt đứt chân tay ra khỏi thân thể. Thế thì còn đâu là nhân tính? Đã phản nhân tính mà còn bảo vô tội ư? Cho nên tôi nói đại vô phúc và mắc tội lớn là vì vậy. Tại sao dân gian sĩ thứ không hiểu cái thế kết hợp này, lấy tội làm phúc, coi chuyện quốc gia là của quốc gia, chuyện mình là của mình, chẳng dính líu gì nhau, tựa hồ như sống ở một cõi trời đất nào khác. Thế sao gọi là trọn đạo làm người được?

Nay Triều đình nếu biết dân gian phần nhiều phạm tội này mà lầm tưởng cho là phúc sao không sửa chữa lại một phen cho minh bạch công bình để cứu dân khỏi cái xấu xa mờ ám. Dân khác nào trẻ con, bánh ngọt có thuốc độc cũng đòi cho được, vì nó ngon ngọt. Làm cha mẹ thấy thế phải giật bỏ đi. Vậy mới là thương con. Nếu để ăn vào sẽ cháy ruột không sao cứu được.

Tôi nói đều này thật không có ý gì khác. Đó là lẽ tự nhiên của trời đất, chỉ bởi người không hiểu mà thôi. Nay xin trước hết hãy chọn người thực tâm giúp việc, tuyệt đối không nhận lới nhắn nhe gởi gắm của ai. Những người này sẽ đi khắp nước vẽ rõ ranh giới ruộng đất. Thí dụ như địa phận trong một xã bất luận ruộng lớn nhỏ xa gần đều phải mô tả hình dáng, đo đúng thước tấc vẽ vào bản đồ (Cách này rất tốt, không sót một tấc đất) rồi phân chia phương hướng, ranh giới, đánh số rõ ràng vào bản đồ. Một xã có mấy trăm mấy ngàn sở ruộng phải đóng dấu xác nhận vào bản đồ. Xem xét đất đai tốt xấu để phân chia thứ hang. Nếu ruộng xấu, thu hoạch chẳng bao nhiêu thì giảm thuế. Những ruộng bỏ hoang xét thấy không có cách nào cày cấy được thì loại ra. Phàm các tệ đoan tôi đã vạch ra ở trên đều chỉnh đốn lại hết. Như thế thì những sự gian dối, lậu thuế, thiên vị sẽ lòi ra hết. Nhà nước nhờ đó sẽ thu được đúng mức thuế, có lợi rất lớn, hợp công bằng, dân không so bì than oán. Các quan canh nông bên Tây thường đi thanh tra ruộng đất xem dư thiếu, tốt xấu ra sao (Họ có nhiều công việc khác nhau nhưng không có việc nào thiên vị lệch lạc). Từ chóp núi đến lòng sông họ không để sót lọt một tấc đất nào mà dân vẫn vui lòng không than oán. Đó là nhờ đường lối chính trị công bằng của quốc gia. Nay hãy cứ hết sức làm sẽ trừ được gian lận, được công bằng không còn lệch lạc.

Điều thứ sáu: Sửa sang lại cương giới.

(Điều này liên quan với điều thứ năm. Nếu điều này được thi hành một cách tường tận thì điều thứ năm được rõ ràng thêm. Quốc dân sẽ được lợi lớn như các nước phương Tây).

Cảnh vực của một nước rộng hẹp bao nhiêu cũng như một nhà có bao nhiêu vườn ruộng. Chủ nhà mà không biết hết gia sản của mình có bao nhiêu vườn ruộng, tọa lạc ở đâu, như thế là thiếu sót đối với gia đạo. Đối với đất nước cũng vậy, nếu không nắm vững cương giới một cách chính xác (Để nắm vững một cách chính xác tình hình cương giới phải dùng phương pháp mới của người phương Tây ngày nay chứ không thể theo phép tỉnh điền ngày xưa. Như vậy sẽ được lợi vô kể) thì sẽ không biết rõ tình thế trong nước ra sao, chỗ nào núi rừng, chỗ nào sông rạch, chỗ nào hồ biển, chỗ nào ruộng nương, chỗ nào nước nghẽn, chỗ nào đất hoang, chỗ nào đất tốt, chỗ nào sỏi đá, chỗ nào sa mạc, chỗ nào thung lũng, chỗ nào thành thị, chỗ nào thôn quê, chỗ nào đất bằng, chỗ nào hiểm yếu, chỗ nào đồn ải, chỗ nào cao khôn chướng độc, chỗ nào có thổ sản gì thích hợp những giống gì, chỗ nào có nguồn lợi đất đai khoáng sản quí, chỗ nào mạch núi lên cao xuống thấp, chỗ nào ra vào qua lại được, chỗ nào có thể đào, lấp, khai quang, chỗ nào đẹp linh, chỗ nào kỳ quan thắng cảnh, chỗ nào cổ tích, chỗ nào có quy cách ra sao, chỗ nào hợp với địa lý binh pháp (Đây là điểm quan trọng về chiến lược quân sự của quốc gia), chỗ nào xưa nay từng thay đổi, chỗ nào ở sẽ có lợi hại ra sao. Tất cả nếu không đo, vẽ trình bày ra cho thấy thì không những không rõ được cơ nghiệp quốc gia mà còn phạm nhiều thiếu sót đối với bao nhiêu việc lớn việc nhỏ. (Đem nước ta so với thế giới mà xem mới thấy mình có nhiều thiếu sót. Tự xem mình sẽ thấy rõ ràng đầy đủ. Bởi vì cái gì mắt chưa thấy thì tâm suy nghĩ chưa đến. Nếu sau khi quan sát thế giới rồi chịu nghiên cứu cho sâu, học cho hết; sau đó nhìn lại nước mình mới thấy lời nói của tôi là thiết thực xác đáng). Bởi thế xưa Kinh Thư có Thiên Vũ cống, nhà Chu có chức quan chức phương đi khắp bốn phương, nắm địa đồ trong thiên hạ, Trương Khiên dạo hết sông hồ đồng ruộng của Hung Nô, cho đến những điều sách địa dư chép, binh thư ghi, không sách nào không người nào là không chú trọng đến hình thế cương vực. Các vua hiền tướng giỏi đều ân cần vấn đề này. Thật vậy, đại thế của quốc gia đều xuất phát từ đó. Cho nên xưa nay ai cũng lo khảo sát phân biệt vấn đề cương giới. Đến nay trên thế giới có nhiều nước đã hoàn bị rồi còn làm hoàn bị thêm. (Tôi thấy bản đồ cương giới của Trung Quốc ngày nay rõ ràng hơn của ta gấp bội nhưng so với các nước phương Tây, Trung Quốc chỉ đáng một phần mười).

Đối với các nước phương Tây đây là một ngành khoa học quan trọng có đề tài nghiên cứu rộng lớn. Nhờ đó họ mới tu chỉnh hoàn bị được nội bộ, mà còn bành trướng thế lực ra ngoài, tìm kiếm nguồn lợi ở các xứ khác để bù đắp vào chỗ thiếu của họ. Như người Pháp vừa mới đến Gia Định đã vội vã lo việc khẩn hoang cho đó là kế sách quốc gia hết sức quan trọng. Trái lại nước ta chính sách lớn về cương giới chưa rõ ràng gì cả (Theo tôi thấy thì còn sơ sài lắm). Bởi vậy kế sách quốc gia thường thất bại, trong dân gian xảy ra nhiều vụ tranh chấp, ngày một tốn hao một phần là do đó mà ra. Cho nên có người đã nói: Nền chính trị có nhân đức chắc chắn trước tiên phải lo tu chỉnh cương giới.

Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả hình thế mặt đất, như tôi đã nói ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ các nước. Trong bản đồ phải có thuyết minh để thấy rõ các mối liên lạc. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một (Như lối vẽ của phương Tây), nhưng nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy toán (Khoản này tôi có biết ít nhiều).

Nước ta xưa nay vẫn xem thường việc này, hình như cho là chưa cần thiết, nhưng thật sự nó có ích cho ta rất nhiều không thể kể hết. Sau đó ta xem rõ địa thế đào nhiều kênh cho ghe thuyền đi lại giúp nhân dân đỡ tốn kém, rồi lại lập nhiều bến quan thuế để thâu thuế (Khoản này làm lợi cho dân cho nước nhiều lắm, sau sẽ thấy). Hơn nữa kênh còn dẫn nước tưới ruộng phòng hạn, ta nên đặt chức quan chuyên trách về việc này để thu tiền phí tổn đào vét như bên Tây có lập ra một bộ trông coi về việc thuỷ lợi như đào kênh để chứa nước hoặc vét kênh để tiêu nước v.v… (Khoản này tôi cũng hiểu đôi chút).

Tôi thấy nước ta có nhiều nơi ghe thuyền phải đi vòng mất hơn tháng nhưng nếu đi tắt chỉ mất chừng năm, sáu ngày. Hoặc có nơi chảy mạnh không thể ngược lên được như đoạn sông từ Nam Định lên Hà Nội. Trường hợp này không những mất nhiều thì giờ tốn hao tiền bạc mà còn nhiều lúc nguy hiểm đến tính mạng. Nếu đào kênh đi tắt, hàng hóa lưu thông nhanh chóng, mọi việc công tư đi lại dễ dàng, lợi biết bao nhiêu. Giả sử đi vòng đi chậm phí tổn mất 30 quan còn đi tắt đi thẳng chỉ tốn 5, 6 quan. Thế thì quan có thu thêm 7, 8 quan nữa cũng chẳng nhiều nhõi gì. Cái lợi của việc đào kênh ai cũng thấy. Chỉ có một khoản nước đổ xuống trong mùa bão lụt thường gây nhiều thiệt hại cho ta. Tuy nhiên không phải không có cách đối phó. Trừ khi nước biển dâng lên thì không cách nào ngăn nổi, chứ nước mưa thì khác. Nước ta nhiều núi ít đồng bằng, khi mưa nhiều nước mưa bị núi cản không thông nên dân bị hại. Nay nếu ta xẻ nhiều kên dẫn nước chảy (Khoản này tôi có biết qua) thế nước sẽ yếu không lan tràn ngập lụt được. Ở đâu bị cũng vậy phải xe kênh chia ra nhiều đường dẫn nước đi. Đó là thượng sách.

Tiên triều đắp đê Đính Nhĩ thất bại là vì không rõ địa thế đi bắt chước đê Hoàng Hà của Trung Quốc. Đó chính là “ăn lại cái cặn bã của ngày xưa mà không tiêu hóa!” Cho nên trăm ngàn năm nay đê cứ vỡ hoài, dân bị thiệt hại vô cùng, quốc gia trù tính tốn kém biết bao nhiêu, cạn hết tâm trí sức lực mà không chống nổi. Vậy mà không chịu thay đổi, rốt cuộc đành chịu bó tay.

Nay tôi xin phân biệt chỗ thành công của đê Trung Quốc và chỗ thất bại của ta để cởi mở cái sai lầm từ ngàn xưa để lại.

Địa thế Trung Quốc phía Nam gặp sông Hoàng Hà, phía Bắc có hai cụm núi lớn. Trong khoảng đó tuyệt nhiên không có một con sông nào xuyên qua. Xét bản đồ thì địa thế ở đó cao đến ngang mày. Hơn nữa hai cụm núi này, một chạy từ Lũng Hữu qua Hán Trung, Hà Nam đến Hồ Bắc. Tất cả các sông Vị, Lạc, Chương, Hoài đều phát nguyên từ đó mà đổ xuống Hoàng Hà; một cụm nữa chạy từ Thượng Cốc, Giáng Châu đến thẳng các quận ở Hà Bắc. Tất cả các con sông ở Hà Bắc đều phát nguyên ở núi này mà đổ vào Hoàng Hà. Từ Đại Hồ ra đến biển chỉ có một con sông này không thể phân nhánh ra được. Dòng nước ở thượng lưu chảy xiết do gần biển có vài trăm dặm. Vùng này toàn núi và đồi cát. Sức nước mạnh như thế mà còn không phá nổi làm nhiều nhánh huống là sức người? nay dù muốn đào nhiều kênh để phân con nước ra nhiều nhánh từ mạn thượng du, không những không đào thế nào được một con kênh dài ngàn dặm, lại càng không thể đào thủng hai mạch núi lớn để cho nước rót vào mạn Bắc các tỉnh Sơn Tây, Trực Lệ và mạn Nam các tỉnh Hồ Bắc, An Huy.

Cũng như sông Lam ở Nghệ An, nhánh Bắc của nó chảy qua Tương Dương xuôi xuống, cách Hoàng Mai không xa, cũng không xuyên thủng được núi để chảy xuống Quỳnh Lưu mà phải quanh về phía Nam đến huyện La Sơn là vì bị thế núi chặn đường.

Còn các nhánh nhỏ hai bên Hoàng Hà đều bắt nguồn từ hai cụm núi kia mà chảy ra sông. Địa thế hai bên bờ sông như thế là càng xa về phía Nam, Bắc càng cao dần, cho nên các nhánh sông ấy không thể chảy ngược mà đổ vào chỗ khác được. Đó là một chứng cớ rất rõ. Nay nếu đào kênh dọc theo hai bên sông sẽ làm tắc cửa khẩu của hàng trăm nhánh sông không đổ nước ra Hoàng Hà. Đó là điều rõ ràng không thể được. Đời Lương đắp đập sông Hoài không thành công là một bằng chứng.

Trước kia Trung Quốc có nhiều người bàn về việc phòng chống nước sông Hoàng thấy bất tiện muốn xẻ kênh vùng phía Đông của sông cho chảy về phía Bắc đổ vào sông Cô, nhưng núi non trùng điệp không thực hiện được. Đề nghị đó rồi cũng bỏ qua. Giả Nhượng thì cho rằng phải dời dân ở Ký Châu đi, rồi phóng một con kênh cho nước chảy về phía Bắc đổ ra biển, đó là thượng sách. Do đó ta có thể thấy rằng không phải người Trung Quốc không biết việc mở các con kênh để chia thế nước, nhưng không thể nào thực hiện được cho nên buộc lòng họ phải đắp đê như cũ.

Còn địa thế nước ta thì khác. Một giải sông Lô từ Sơn Tây đổ xuống, tuy có chia ra một ít sông nhánh nhưng phía Tây sông Lô như vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Hưng, Hà Nội, Nam Định đều đất đồng bằng, có nhiều chỗ trũng lại cách biển không xa, suốt bờ biển là bùn, có một vài chỗ cao cũng dễ đào. Không như Hoàng Hà, Đông Tây trở ngại vì đồi cát, Nam Bắc bị mạch núi chặn đường. Nay nếu ta đào nhiều kênh trong các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình v.v… để phân tán thế nước thì nước sẽ yếu không chảy mạnh như trước. Dù có ngập tràn chút ít cũng chỉ ở những chỗ đất thấp mà thôi không đến nỗi cuốn trôi nhà cửa.

Vả lại các nhánh sông Phú Lương bắt nguồn từ Vân Nam, một nửa lượng nước chảy vào nước ta. Lại thêm nước vùng thượng bạn các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Yên, Sơn Tây tất cả đổ dồn về Hà Nội. Nay đê dọc hai bên bờ sông chỗ rộng nhất không quá hai dặm, đê dài từ trên xuống dưới không quá một trăm dặm. Với một khối lượng đất chừng đó mà chịu đựng sức nước của mấy chục tỉnh to. Tức là đê mỏng hẹp mà sức chưa lớn làm sao khỏi phá vỡ được?

Về phía Tây Bắc Vân Nam núi cao chót vót, mùa Đông mùa Xuân tuyết đóng chưa tan, sang các tháng Hạ, Thu mặt trời chiếu tan đổ xuống. Đã vậy, mùa này có nhiều trận mưato. Hai thứ hợp lại đổ xuống rất dữ dội. Lại nữa từ Sơn Tây lên đến Vân Nam mặt đất dần dần cao hơn mặt bể đến sáu bảy trăm trượng. Mỗi một giọt nước đều đổ xô xuống đồng bằng. Nếu ngay ngăn lại cho chảy vào một con sông thôi thì khi nước lớn mặt nứơc sẽ cao hơn đồng bằng đôi ba trượng. Lúc bấy giờ các huyện gần đê, nếu bị vỡ, sẽ bị hại rất khốc liệt. Còn cách đê càng xa, thế nước càng yếu sẽ ít thiệt hại hơn. Đó là bằng chứng cho thấy rằng nước nên khai thông không nên ngăn chặn.

Lúc nhỏ tôi có đi dọc theo đê hai ba ngày, thấy mặt đê cao hơn mặt ruộng đến ba trượng. Bên trong đê dọc hai bên sông có nhiều đống cát bồi cao hơn ruộng ngoài đê một hai trượng. Thế là khi nước tràn những đụn cát bồi này không khác những quả núi chặn nước lại. Như vậy dẫu đê bằng đá cũng không chịu đựng nổi huống hồ đê bằng đất! Tôi lại trông ra xa bốn phía dọc theo sông thấy có nhiều rạch, kênh, ao, vũng. Và từ Hà Nội ra đến biển đi lối bốn năm ngày, không phải như Hoàng Hà, từ Châu Phong, Từ Châu ra đến biển phải đến mấy nghìn dặm đường.

Nay không cần phải phá đê mà xem địa thế đào thêm vài chục con kênh lớn tiếp giáp với cửa đê. Rồi lấy đất đó đắp hai bên bờ kênh làm thành đê nhỏ tiếp giáp với đê lớn thoai thoải xa dần. Ngoài ra xem địa thế, đào thêm nhiều đường nước nhỏ để khi nước tràn thì chảy vào không hại ruộng, tiện đi lại cày cấy gặt hái, bắt tôm cá và dùng nó như những cái hồ nhỏ để chứa nước khi có nước lớn (Hai bên sông có nhiều ao hồ thì ít khi bị ngập lụt, như sông Trường Giang ở Trung Quốc).

Những con kênh lớn này phía Bắc đổ ra Hải Dương, phía Nam đổ ra Ninh Bình thì khỏi lo nước chảy ngược trở lại vào sông như trường hợp ở Hoàng Hà.

Vả nước từ trên cao đổ xuống, không có nước triều lên xuống sẽ tống hết rác rến bùn lầy thì không đầy vài ba năm kênh sẽ rộng sâu thêm khỏi phải vét đi vét lại.

Nếu thực hiện thì chờ khi nước lớn tính xem mực nước đi đến bên trong đê là mấy thước. Sau đó tính diện tích đê từ Nam chí Bắc sẽ biết số nước chứa là bao nhiêu vạn thước khối. Trừ số nước dưới lòng sông ra, chỉ tính số nước dâng từ bờ sông trở lên mà thôi, thì sẽ biết phải khai bao nhiêu con kênh, sâu mấy rộng mấy, mới có thể chứa hết số nước đó. Nước đã có đường thấp để chảy thì làm gì có nạn ngập lụt?

Các nước phần nhiều có nạn lụt người ta đều lựa thế xẻ kênh tháo nước đi. Đó là dùng sức người để thắng thiên nhiên. Còn ta cứ phó mặc tự nhiên. Đã vậy còn ngăn đắp cái không nên ngăn đắp.

Hãy xem sông Cửu Long lượng nước của nó nhiều hơn bốn năm lần lượng nước của sông Lô mà Vĩnh Long không bao giờ ngập lụt vì nhờ có nhiều nhánh sông lớn. Đó là một bằng chứng rất rõ.

Dòng sông dời đổi bất thường thì đê cũng phải sửa đổi theo, tốn công mãi mãi. Chi bằng thuận theo thế nước mà dẫn nó đi thì dễ dàng tiện lợi.

Nếu Triều đình cho là phải thì trong hai năm đầu hãy cho người cắm tiêu theo khúc sông hẹp từ Diên Vương lên đến Hà Nội, cứ cách bốn năm dặm cắm một cây. Khi có nước sẽ sai người đến chờ ở đó xem nước lên đến mức nào, nước cạn đến mức nào phải ghi chép thật rõ ràng.

Ngoài ra truyền rao cho các nhà giàu xuất tiền cho nhà nước vay. Trước tiên tuỳ số tiền cho vay nhiều ít sẽ được ban khen. Sau đó tiền lời sẽ được trả khi kênh đào xong và lập trạm thuế. Mỗi năm, quan sở tại trả tiền lời cứ một vạn là một trăm quan. Khi nào tiền lời được gấp đôi số tiền đã cho vay thì chấm dứt và không hoàn vốn lại.

Trước khi khởi công độ ba bốn năm phải phái người thạo về đo đạc địa thế tính toán thật rõ xem tổn phí nhân công, tiền bạc bao nhiêu cũng như chuẩn bị trước thật đầy đủ các thứ dụng cụ cần thiết.

Còn trong nước những chỗ nào xa cách đường nước cũng phải tìm cách đào kênh để đem nước vào ruộng và tiện giao thông.

Phía Tây nước ta, núi lớn cao hơn mặt biển, đất mạn trên gần chân núi cao hơn đất mạn dưới. Nay nếu đạo nương ở mạn trên sẽ đưa được nước ngọt về đồng bằng. Nếu có hạn hán cũng đủ nước tưới, còn mưa thì có chỗ tháo (Trên thế giới nước nào có nhiều núi cao, nướcđó được nhiều nguồn lợi vô kể).

Ngoài ra bên bờ kênh xem chỗ nào có thể dẫn nước được thì làm một cái cửa đóng mở để thu lệ phí, công tư đều có lợi (Những việc trên đây tôi có thể làm được).

Phần đông các nước trên thế giới đã làm việc này rồi, chỉ có nước ta chưa làm thôi. Nay xin cử gấp người đi học tập khoa này. chỉ sáu bảy năm cũng có thể dùng được rồi. Điều này rất quan trọng đối với chính sự quốc gia, không nên cho là cao xa khó làm mà không chịu hết lòng hết sức. Nước giàu mạnh không phải ở chỗ đất rộng dân đông mà ở chỗ biết sử dụng đất ấy dân ấy như thế nào. Nếu cương giới đã rõ ràng, khai thác hết địa lợi, của cải dồi dào thì kiến thiết cũng dễ. Điều khiển công việc nước cũng như điều khiển công việc nhà, không phải chỉ lo mở rộng đạo lý của tổ tiên mà thôi đâu!

Điều thứ bảy: Nắm rõ nhân số.

Nước với dân như cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ mà không biết mình có bao nhiêu con, giàu hay nghèo, nghề nghiệp ra sao, sống hay chết, ốm đau hay lành mạnh, vui hay buồn thì chưa trọn đạo làm cha mẹ. Một nước cũng như một nhà. Cha mẹ quý con, Triều đình quý dân.

Bởi vì nói trị tức là trị người. Nếu sót một người là một người bất trị, lọt mất cái gì là thiếu uy quyền cái đó. Công việc cũng vậy. Một việc làm sai, tức lệch ra ngoài đường lối.

Nếu Triều đình không biết trong nước mỗi năm dân sinh được bao nhiêu trai gái, người già yếu bao nhiêu, cường tráng bao nhiêu, bệnh chết bao nhiêu, giàu nghèo bao nhiêu, dân chúng làm ăn sinh sống ra sao thì rất thiếu sót trong đạo trị nước.

Vì vậy phương Tây người ta giao cho lý dịch ghi rõ tất cả số người sống, chết, thọ, yếu, giàu, nghèo, trí, ngu, quan, dân, binh lính không sót một người nào. Mỗi năm người ta còn biên chép số hàng hóa xuất nhập khẩu, tàu bè ra vào tại các cảng thương mại, số khách trọ, số người ngụ cư, người chính quán, người di chuyển đi chỗ khác tại các phố thị. Đồng thời còn đánh giá tình hình vật giá như lúa thóc, súc vật, lâm sản, hải sản, khoáng sản, sản xuất lên xuống như thế nào, gia sản giàu nghèo của dân chúng ra sao, tất cả đều ghi rõ không sót một việc gì và gởi lên Triều đình. Như thế Triều đình mới biết hết được sự thịnh suy lợi hại ra sao để điều tiết việc thu chi. Về chính sự bất luận lớn nhỏ đều phải tiêm tất không được sai sót một việc gì. Vấn đề này khó nêu hết được. Về thuế khóa nên đánh nhiều vào các nhà giàu và những nơi phồn hoa thương mại. Bởi vì họ thọ ân nhiều thì phải báo đáp nhiều, như trước tôi đã nói rõ.

Nước Pháp, thuế mỗi năm thu vào hơn hai nghìn triệu quan (thuế thuốc lá trên một trăm triệu, thuế đường trên hai trăm triệu, thuế rượu trên ba trăm triệu, và rất nhiều thứ thuế khác) mà dân không than oán gì cả vì việc làm phân minh, trên dưới thông suốt. Cho nên dân biết rõ cái lẽ, cái thế, cái đạo, cái bổn phận phải làm như vậy.

Thử xem nước Bồ Đào Nha, dân số có hơn một triệu. Còn nước ta dân số ước đến hai mươi triệu (nói chung tất cả mọi người). Vậy mà mỗi năm số thuế người ta thu vào gấp mười lần của ta. Dân chúng lại chẳng cho là thuế khóa hà khắc. Vì sao vậy? (chừng nào nền học thuật nước ta rõ ràng, lúc đó mới thu được nhiều thuế như phương Tây mà dân không kêu ca).

Nay nước ta, đối với các việc kể trên đều coi như không. Đó là tại ta không làm chứ không phải không làm được (chừng nào có thể làm các điều trên, tôi sẽ đem các phương pháp hay ho của phương Tây đối chiếu với những ưu khuyết điểm của dân ta, lần lượt trình bày rõ).

Những điều trên sẽ đem lại lợi ích không thể kể xiết. Chỉ có làm mới dần dần thấy hiệu quả, mới dần dần phát sinh nhiều phương pháp hay. Giờ đây không thể nói hết ra mà hình dung được.

Phàm quốc gia đối với nhân dân muôn việc chẳng khác nào huyết mạch trong thân thể. Nếu lưu thông trở ngại, nhất định sẽ sinh ốm đau. Đó là sự thật tự nhiên (Lẽ này khó thấy rõ, nhưng xét kỹ trên đời không có sự thật nào hơn).

Ngày nay chính quyền quốc gia hãy còn xa cách với dân chúng. Dân chúng có điều gì thì gian dối che đậy chính quyền. Trên dưới không thông suốt nhau, rõ ràng khiến sự gian dối của dân chúng ngày một nhiều thêm, quyền lực quốc gia ngày một giảm sút. Do đó nước càng ngày càng yếu, dân chúng càng ngày càng phân tán (Việc này tản mạn lộn xộn khó nói rõ nhưng rất quan hệ). Rồi trên dưới lòng dạ khác nhau, đàng nào lo mưu lợi riêng cho đàng ấy thì làm sao thành một thể thống nhất được?

Tôi xin điều tra dân số không phải muốn để tăng thêm thuế ngay. Nhưng trước tiên là chấm dứt mọi gian dối xấu xa trong dân chúng, còn việc mưu những lợi lớn cho quốc gia thì sẽ tính sau (Hiện nay tôi thấy dân chúng lý dịch hễ đến cửa quan, bất luận chuyện lớn chuyện nhỏ, mở miệng ra là dối. Đó là một thói rất xấu mà không biết tìm cách sửa đổi).

Trong trời đất bất cứ ở đâu, làm một việc gian dối đều có tội. Gian dối nhỏ tội nhỏ, gian dối lớn tội lớn. Gian dối ở Triều đình là gian dối lớn, tội đó càng lớn hơn nữa. Bởi vì chuyện đó làm được thì còn chuyện gì không làm được? Đã gian dối được thì cũng có thể làm phản được. Nếu cùng đường không gian dối được thì đâm ra oán trách muốn phủ nhận đạo nghĩa sinh thành. Thế chưa chống lại được nên miễn cưỡng phục tùng, kỳ thật trong lòng đã phản bội. Cái đó do đâu? Dĩ nhiên do lòng dân không có một đạo lý ngay lành nào hướng dẫn nhưng cũng tại Triều đình không rõ mọi việc mới gây ra tệ đoan này.

Phàm quốc gia không sợ thiếu chỉ sợ không công bình, nếu có bên trọng bên khinh tức không còn công bằng vô tư nữa. Từ đó sinh ra nhiều tệ đoan không thể kể xiết.

Theo luật nước đã có điều khoản trừng trị về việc ẩn giấu nhân khẩu. Vậy mà không trừ được tệ ấy là vì không thấy rõ tệ ấy như thế nào? Chính các quan cũng ngầm biết dân gian có giấu giếm nhân khẩu nhưng cứ làm lơ như không biết để được cái đức khoan dung dễ dãi, kiếm chút phước về sau. Thật chẳng biết đó chẳng là phước đức gì cả. Phước là phải thi hành đường lối chính sách công bằng, làm cho dân hết gian dối. Cũng có kẻ khoan nhu bảo rằng nếu không thế dân sẽ không chịu nổi. Cho nên đã không điều tra cho đúng sự thật. Nếu làm rõ ràng đúng luật lệ hành chính của Triều đình mà dân không kham nổi thì đó là luật không được hoàn thiện. Nếu luật hoàn hảo, mà người thừa hành lại hợp lý thế sự tình thì có gì gọi là không kham nổi? Nếu nay còn có người có ý nghĩ như thế rõ ràng là luật chưa hoàn hảo. Lại có người nói: “Tuy có sót lọt ở trên quan nhưng trong dân thì chia ra mà chịu”. Chia như thế đâu phải Triều đình chia mà do bọn thổ hào chia. Bọn hương hào lý dịch ác ôn nhờ đó mà ăn cho no béo nên chúng mới gian dối đủ cách, chịu đánh đòn để mưu lợi riêng tư. Đến khi có người bất bình phát đơn kiện, bấy giờ quan mới trừng trị. Nếu thế sao trước lại âm thầm lờ đi để cho sinh tệ rồi sau lại dùng hình phạt bảo là gian dối? Như vậy có phải là gạt gẫm dân không? Tại sao trước không làm cho sáng tỏ rõ ràng để sau khỏi sai quấy? Nguồn nước đã khơi không thể nào chận dòng nước chảy được. Vì vậy mà trong dân gian có xã thôn nào mặc dầu vốn trù mật nhưng bị tật dịch chết một vài người thì tìm cách chạy chọt hối lộ quan lại nói là tổn thất nặng nề, số đinh giảm khá nhiều. Bọn này nói rằng: “Mất vài trăm quan tiền chẳng bao nhiêu mà giảm số đinh được năm sáu người, lợi ấy mới lâu dài”. Thế mà bảo là lợi, thật hết chỗ nói (Những tệ đoan do bọn lý dịch và quan lại này gây ra nhiều không kể xiết). Còn dân các làng nghèo không tiền đút lót thì chỉ được một hai người. Tuy có kêu nài hai ba lượt, tốn của tốn công cũng không được xét gì vì quan nghi là cố ý vu không. Do đó ngày một hư hao phải trôi giạt bốn phương là vì vậy. Sở dĩ ơn nước không thể chia sớt đồng đều, việc sắp đặt không được công bằng, mò mẫm không phân biệt thật giả là do không nắm rõ số sinh số tử trong dân chúng. Thêm vào đó lúc bình thường cứ bao che để cho kẻ điêu ngoa xảo quyệt nhân đó thủ lợi, mánh khoé gian xảo ngày một tinh vi. Còn kẻ ngay thật đã chẳng được gội ơn lại cứ phải cong lưng chịu thuế. Chi bằng hãy điều tra rõ ràng xác thực như phương Tây; suy, thịnh, tình trạng nào thích hợp tình trạng nấy; nhiều, ít, mạnh, yếu, không thiên vị bên nào cả. Như thế mới có thể chấm dứt cái tội lừa dối quan trên.

Do nảy ra ý kiến muốn tăng số đinh, nước ta đã đặt lệ duyệt lại. Nhưng người ta chỉ dựa vào số lão nhiêu, lão hạng, tuyển lựa lại điền vào cho đủ số. Làm thế là cứ theo lý mà bắt dân. Do đó dân cũng phải theo lý mà tìm cách đối phó. Kết quả chẳng rạch ròi phân minh gì cả, khác nào người bói cầu may, được tốt hay tốt được xấu hay xấu, có công bằng gì đâu?

Phàm con người sinh ra, nhiều, ít, nên, hư đều theo một trật tự do tạo vật xếp đặt chủ trì. Xem trong một nhà, một làng thấy có đầy, vơi, hư, thực, không bằng nhau. Nhưng tính chung trong toàn tỉnh hoặc cả nước thì thấy cứ một thế kỷ số người lại tăng lên gấp đôi. Đó là lý nhất định. Phương Tây người ta tính rõ rằng mỗi nước cứ trong khoảng ba mươi năm, đối chiếu số sinh số tử thì thấy số chết một mà số sinh gấp đôi. Tức là chết một sinh hai, và số con trai nhiều hơn số con gái là một phần mười một. Đó là con số chắc chắn.

Nhưng trên địa cầu, có giống tốt phước, có giống vô phước. Đó là lẽ tiền định của tạo vật, nếu không xét kỹ nguồn gốc trời, đất, người, vật, không thể nào hiểu thấu và tin tưởng lẽ ấy được. Tuy nhiên cứ xem các nước xưa nay cũng có thể biết rõ chuyện ấy có thật. Giống tốt phước ở Đông Châu (Đông bán cầu của quả đất là Đông Châu, Tây bán cầu là Tây Châu) như người phương Tây, người Ấn Độ, người Mông Cổ, người Trung Quốc, người Nhật Bản, người nước ta. Những giống dân này mỗi ngày một thịnh, mỗi thế kỷ tăng lên hai lần rưỡi. Cứ xem dân ta từ khi vào đất Biên Hòa đến nay gần một trăm sáu mươi năm mà đã nảy nở rất phồn thịnh. Đó là một bằng chứng. Còn giống vô phước như các dân da đen ở phương Nam, dân Thổ Nhĩ Kỳ, dân Mã Lai (ở các đảo ngoài biển) dân Miến Điện, Xiêm La, Cao Miên, Chiêm Thành và các nước Tây Vực. Giống dân này ngày một điêu tàn, nay đã đứng lại không phát triển nữa. Còn như Lâm Ấp, Phù Nam gần nước ta, nay không biết biến mất tiêu đi đâu. Đó là một bằng chứng.

Phàm loài người hễ giống có phước thì mỗi ngày một thịnh. Nước ta là một trong những giống có phước trên quả đất này. Nay tuy có bị thử thách đôi chút, nhưng lâu dài về sau, chắc chắn sẽ được mở rộng cõi bờ, làm sáng tỏ cái bí tàng của trời đất. Núi sông hai bên bờ dòng Cửu Long, nơi để về già hưởng nhàn của nước ta, đang sẵn sàng chờ đón. Nước ta đã đuợc đặt để là đất phước lâu dài trong trời đất. Tại sao không phấn khởi thừa hưởng. Tại sao cho sự mở mang là sai? Như thế là lười nhác, hàm hồ! Tạo vật đã muốn cho dân ta tăng nhiều, thế mà lại giấu giếm giảm bớt đi. Trên dùng lý lẽ để ràng buộc dưới, dưới dùng lý lẽ cách này cách nọ để che giấu trốn tránh trên. Như thế thì làm sao được?

Phàm dùng lý chỉ dùng trong việc xử đoán hình phạt, mà khi nào không dùng tình được thì mới dùng đến lý. Lý là mệnh lệnh gắt gao. Tình là cái đôn hậu hòa dịu. Nếu trên dưới không đối xử với nhau bằng sự hòa dịu để cùng hưởng phước mà bằng sự sát phạt gắt gao thì mỗi ngày sẽ suy tàn mà thôi. Tạo vật sở dĩ muốn dùng giống tốt rải khắp trời đất và cho quyền lực sai khiến sắp đặt giống loài là để hoàn thành cái ý của tạo vật, để phân chia cho tộc loại mình những phần đất mà các giống vô phước không đáng hưởng!

Hãy xem liệt tổ Triều đình ta khai thác đất miền Nam, chăm lo dời dân mở đất. Đến nay từ Ải Vân vào Nam, giống ta ngày càng đông đúc, man mọi ngày một tiêu dần, để lại cho quốc gia không biết bao nhiêu ơn nhuần thấm. Đó là mở rộng đất đai xây dựng giống nòi (Đoạn sau của điều này tôi xin dời bọn tù tội và lưu manh vào miền Tây cũng do ý đó). Như thế không đáng phấn khởi sao?

Sĩ thứ muôn dân sao không nghĩ rằng của cải của quốc gia nên giao hết cho Triều đình giữ để quyền nghi phân bổ đồng đều, ai cũng được hưởng cái phần đáng hưởng của mình, không tranh giành lấn áp, phải người phải ta, cùng hưởng yên vui lâu dài. Triều đình chẳng qua là đại diện làm công việc thu phát còn hưởng là dân hưởng.

Nếu dân biết bày rõ chân tình, quan thuận theo đó mà điều tiết thì tự nhiên cao thấp, lớn nhỏ đều được công bằng thoả nguyện. Như người thấp chẳng tranh lấy áo dài làm chi, mọi người đều giúp đỡ nhau xây dựng sự sống còn, không ai thái quá, không ai bất cập, cũng không còn tâm địa xấu xa phân biệt chia rẽ nữa (Đây là chuyện chắc chắn có thể làm và tất hữu trong đạo làm người chứ khôgn phải như thuyết Tề vật hoang đường). Đây là một chân lý rất kỳ diệu, khẩn thiết đối với nhân loại. Chỉ vì không rõ chân lý ấy mới có cảnh quân tử phạm lễ nghĩa, tiểu nhân phạm hình luật mà chẳng ai lấy làm lạ thản nhiên như không để đến nỗi cả nước mạnh hiếp yếu, thù nghịch mâu thuẫn nhau mà suốt đời chỉ tìm cách che đậy, dối trá chống lại bề trên. Dầu có người cao thượng, thấu đáo cũng bị vướng mắc tục làng mà không khỏi rơi vào tệ lậu ấy. Làm quan trên mà không nắm vững số hộ khẩu nhiều ít, điều hợp để thành một khối, thế lực quốc gia do đó sẽ ngày một hao mòn. Như thế là tuy muốn lợi mình mà thành hại mình.

Nếu nước nhà không yên, thử hỏi những làng xã giàu có, đông dân, những bọn trốn xâu lậu thuế có trốn lên tiên ở được không? Có cày cấy làm ăn được không? Trường hợp này cũng giống như hai người khiêng một vật mà bên nặng bên nhẹ không đều. Như thế làm sao khiêng lên được? Nếu cưỡng bách khiêng lên, trật chân một cái, không những bên nặng nát mà bên nhẹ cũng tan. Đó chính vì lòng riêng tư mà hại đến việc chung cả nước.

Phàm việc đời nếu đã không đem tình ra cư xử với nhau thì đạo làm người không điều hòa, ơn huệ và uy quyền không thỏa đáng. Từ đó những bọn ngang tàng trái lẽ mới quấy rối gây chia rẽ, cách ly trên dưới. Có oan khổ khó giải bày. Muốn thưởng phạt không sao định được. Lúng túng ngập ngừng như đưa tay vướng lưới, cất bước sập hầm. Trên không còn cách nào trị dân cho khéo, dưới không có cách nào yên ổn làm ăn (Đại khái chuyện đời là thế, nhưng thật khó mà phân biệt, nếu không sâu sắc tình đời không thể thấy rõ được). Đó là do những bọn thiếu tình người gây tai hại. Thật rõ ràng như vậy.

Do đó mới thấy rằng lý vốn do tình mà ra. Người trị nước quý hồ ở chỗ thấu suốt tình dân. Có tình thì mới có dân.

Việc nhân sự không gì quan trọng bằng nhân số. Trị nước mà không nắm rõ nhân số để cho giấu giếm sót lọt thì còn chuyện gì không sót lọt?

Các nước phương Tây lập pháp rất chặt chẽ thế mà lại rộng rãi. Bởi vì tất cả đều có luật pháp không thể gian dối được, cho nên người ta không gian dối, cũng không có ý nghĩ muốn gian dối. Họ sống yên ổn trong luật pháp, không cảm thấy bị luật pháp ràng buộc, nên tựa hồ như luật pháp ấy rộng rãi.

Còn ta cũng lập pháp mà không ngăn chặn nổi tệ đoan là vì luật pháp nước ta chưa chặt chẽ, còn sơ hở để tệ đoan sinh ra. Họ cũng người, cũng nước, cũng dân, sao luật pháp thi hành được còn ta thì không?

Các nước phương Tây chưa bao giờ có chuyện bãi tô giảm thuế mà tình gắn bó giữa dân với nước thân thiết khác hẳn tình trạng nước ta biết mấy (Điều này tôi đã trình bày trong tập “Ngôi vua là quý, chức quan là trọng”). Bởi vì họ có thể theo đạo trời làm đúng lẽ tài bồi chở che, xử sự hợp lý. Cho nên luật pháp tuy nặng nề tựa hồ vô tình mà lại rất có tình. Chính vì lẽ ấy Khổng Minh nói: “Trị đời bằng đức lớn chứ không bằng ơn mọn”.

Nay nếu Triều đình không chỉnh đốn lại thì kẻ sống trong pháp luật ít, kẻ ngoài pháp luật nhiều. Quan trên quý hồ nắm lý lại có nhiều tư vị nên không thể hết lý. Dưới dân quý hồ ở tình lại có nhiều gian dối không thể hết tình. Tình lý không thông làm sao xây dựng đất nước tốt đẹp được?

Nay xin lập sổ bộ thống kê lại đầy đủ không luận trai gái già trẻ. Việc này giao trách nhiệm cho tri huyện và tổng lý phải ghi rõ ràng trình lên. Như chính quán bao nhiêu, ngụ cư bao nhiêu, nghề nông nghề dệt bao nhiêu, người học chữ bao nhiêu, làm thợ bao nhiêu, buôn bán bao nhiêu, bao nhiêu người không có nghề nhất định, bao nhiêu người mồ côi cha mẹ, góa vợ góa chồng, bao nhiêu người tàn tật, bao nhiêu quan, binh, chức sắc, bao nhiêu người làm thầy thuốc, thầy bói số. Mỗi năm đều ghi rõ ở dưới là còn tiếp tục hành nghề cũ hay đã đổi nghề khác. Cũng phải ghi rõ mỗi nhà sinh được bao nhiêu trai gái, chết vì lý do gì. Nếu lý dịch và nhân dân ai cố ý khai dối sẽ bị trừng trị nặng. Nhưng trước hết Triều đình phải cáo thị cho dân chúng rõ là nhà nước sẽ thi hành nhất luật như vậy và làm thế không phải để tăng sưu thuế mà muốn đem lại sự thật, chận đứng mọi gian dối. Hơn nữa dần dần nhân đó bớt chỗ nhiều thêm chỗ ít cho hợp lý, tương trợ lẫn nhau để cho ngày càng thắt chặt mối liên lạc trong nhân dân. Ai trước đây đã giấu giếm số đinh, lần này phải khai thật sẽ không bị tội.

Để chuẩn bị việc điều chỉnh, trước hết trong những năm đầu mỗi năm phải soát lại số đinh xem tăng giảm ra sao, sau mới phân loại xếp hạng, chỉnh đốn toàn bộ lại hết. Có như vậy sưu thuế mới công bằng thích hợp, tình trên dưới mới không còn ngăn cách.

Việc chính trị trong nước không gì quan trọng bằng số đinh. Số đinh đã ổn định rồi, bấy giờ mới có thể từ từ tính toán sắp đặt mọi việc trong dân gian, như đã nói ở đoạn trước.

Ngoài ra còn có những bọn tù tội, ăn của nhà nước thì phải làm việc, không nên để chúng ở không. Vì ăn không là gốc của mọi tội lỗi. Cứ xem những tù thường phạm thì biết chúng đều là những kẻ ăn chơi biếng nhác không muốn làm việc, hoặc đam mê hát xướng, hoặc không có chuyện gì cần thiết mà cứ bôn tẩu ngược xuôi, cho đến những bọn côn đồ đàn đúm nhau bài bạc rượu chè rồi sinh sự điêu ngoa bày mưu kiện tụng, cho đến những bọn bói khoa, xem phong thuỷ, bùa chú. Lại có những kẻ mượn cớ dạy học kiếm ăn thế mà lặn lội không sót một chỗ nào, lời nói và hành động của họ gây nhiều tai hại và rối loạn trong dân chúng.

Vậy sau khi đã kiểm tra nhân số một cách rõ ràng chắc chắn rồi, hãy tầm nã rộng rãi những bọn này tập trung lại quản thúc gắt gao, tổ chức thành đội ngũ, cấp phát áo cơm, rồi bổ sung vào làm việc binh dịch. Phải bắt chúng cực nhọc thể xác, khốn đốn tinh thần, chúng mới hồi đầu tỉnh ngộ. Hoặc dời cả gia đình chúng đến những bìa rừng xa xôi để khai khẩn đất đai, phá núi mở đường. Nếu làm được sẽ cho chúng được quyền hưởng dụng vĩnh viễn.

Xưa đất Ngũ Lĩnh trở vào Nam vốn là vùng đồng hoang nước đọng. Tần Hoàng, Hán Vũ đưa tù tội đến đó khai khẩn, nay trở thành miền đất phì nhiêu thu lợi vô kể.

Các nước phương Tây cũng dùng cách này mà làm cho Tây Châu ngày nay trở thành giàu có sung sướng. Những việc đó là đày đọ tù mà cũng là làm phước cho tù vậy. Hiện này người Anh vẫn còn di cư những đám dân nghèo đến các vùng hoang vu cho khai khẩn, nhằm thu lợi trăm năm sau.

Những chỗ sát biên giới phía Tây nước ta cũng nên dần dần chỉnh đốn lại. Những làng xã nào có dân nghèo không kế sinh nhai thường bỏ đi làng khác và những bọn vô lại đầu gành xó chợ đều phải lùa đi hết ra khỏi làng. Tôi thấy trong dân có những hạng người làng xóm không ưa, do từ mặc cảm đó họ gây nhiều tội lỗi. Nếu những người này chết hoặc đi đâu cho khuất mắt thì ai cũng mừng. Lại có nhiều bọn ăn cắp móc túi. Phố chợ nào cũng có bọn này, bọn nào có địa phận ấy. Có bọn còn cấu kết ăn chia với hương hào làm cho dân chợ khổ mà dân những chỗ buôn bán càng khổ hơn. Những bọn người bất nhân này đã là giặc dã man đối với dân chúng, sao không dẹp yên đi, đưa hết bọn chúng ra ngoài biên giới cho hợp với ý muốn của dân? Hãy lựa trong chúng những tay quá quắt nhất mà không nhà cửa, tập trung quản thúc bắt đi làm các dịch vụ công cộng như đào kênh, vỡ đất, trồng cây… Đó là phương pháp hay nhất. Đối với bản thân chúng, được lợi ích vì cải tạo tư tưởng hành động, dân chúng thì được yên ổn và quốc gia thì được lợi ích không thể kể hết. Nay xin nêu một số dễ thấy nhất như sau: Một là dân khỏi bị hao tổn ám hại, hai là khỏi nạn trộm cắp, ba là khỏi kết bè đảng làm tội ác giữa bọn này bọn kia, bốn là khỏi bị cướp giật giữa đường giữa chợ, năm là khỏi tụ tập chuyện nhỏ làm ra to, sáu là khỏi lây xấu sang người khác, bảy là tránh cho dân khỏi tội vì tức giận chửi rủa chúng, tám là tránh cho dân khỏi bị bọn chúng vu oan giá họa, chín là bọn nhà giàu ác độc không còn bọn này để mướn chúng đi hành hung con nợ để đò nợ như quan nha quyền thế, mười là bọn giặc không còn đâu để giả dạng thông tin tức cho nhau, mười một là giúp chúng có cách làm ăn sinh sống, mười hai là có thể làm cho chúng tuyệt đường hung ác, mười ba là có thể qua thử thách đó chúng tỉnh ngộ hối lỗi trở về nẻo lành, mười bốn là bị bắt buộc làm việc mỗi ngày sẽ bỏ được tật lười biếng, mười lăm là do bị bắt buộc làm việc mãi mà quen nghề, mười sáu là đã có bọn này làm các tạo dịch khỏi cần bắt dân, mười bảy là từ Kinh đô đến tỉnh có bọn này quét đường, trồng cây tưới nước, đổ rác, đường sá sạch sẽ không khí trong lành dân ít bệnh, mười tám là cỏ rác gạch ngói xà bần có bọn này đem đi lấp những chỗ sình lầy biến thành ruộng tốt, mười chín là có khai mỏ đã có bọn này khiêng vác chuyên chở khói mướn nhân công, hai mươi là những nơi rừng sâu hoang vu đã có bọn này khai phá dần dần trở thành khang trang. Vài mươi điều kể trên đem lại lợi ích lớn cho quốc dân và cả cho chúng nữa. Tuy nhiên trong đó cũng không khỏi có điều tệ. Nếu khéo dùng chúng thì tệ ít mà lợi nhiều. Bọn chúng được đưa đến đâu thì quan quyền ở đó quản thúc chúng lại để đề phòng những chuyện không hay xảy ra. Sau đó cho phép các linh mục và đạo đồ đến các điểm tập trung, như ở các vùng biên giới các châu, sách xa xôi, để giảng đạo giúp đỡ giáo dục chúng. Bởi vì các giáo sĩ có nhiều phương pháp hay giàu thiện chí, nhẫn nại và chịu cực giỏi mới có thể ở với chúng được.

Phương Tây xưa có nhiều giống dân hung dữ chưa khai hóa, như dân Bồn Man, Vạn Tượng ngày nay, phần nhiều đều nhờ các giáo sĩ chịu khó mở mang giáo hóa mà về sau dần dần trở nên thịnh lợi. Chuyện ấy sử sách các nước phương Tây còn ghi và sách Doanh hoàn chí lược của Trung Quốc cũng nói đến chứ không phải tôi dám bịa ra hùa theo nói tốt cho họ đâu.

Phàm những người chỉ mới gây những tội ác nhỏ chưa đến nỗi nào, nhưng nếu không sớm xử trí, dần dần sẽ trở thành tội ác lớn. Tội ác nhỏ mà chất chứa suốt đời cũng bằng một tội ác lớn. Ví như nước làm đắm thuyền vậy. Nước vào thuyền bằng lỗ lớn hay rịn vào khe nhỏ cũng thế. Nếu không nét sẽ làm đắm thuyền như nhau. Xưa nay những vụ loạn nghịch khởi đầu tuy chỉ do những bọn ham giàu sang xướng xuất lên, sau mới tụ tập những bọn lưu manh mà xúi giục chúng. Thế mà bảo những cái xấu ác nhỏ không có hại sao? Hơn nữa, những người này vốn cũng là dân làng, cùng nhau chung sống, lẽ nào không có tình tương thân tương ái. Thế mà nay chúng đã làm cho mọi người không chịu nổi chúng, thì sao gọi là không có tội được? Phạt chúng là hợp lẽ công bằng. Nay tách chúng riêng ra là phải. Như thế tuy nói là phạt mà thực ra là để giáo dục chúng. Có gì mà phải tội nghiệp? Diệt có xấu để khỏi làm hại lúa. Bọn lưu manh du đãng trong làng giống như ôn dịch phải sớm dùng thuốc chữa trị, không sẽ truyền nhiễm lan tràn, không thể trì hoãn được. Nếu bảo rằng gom chúng lại một chỗ chúng lại càng gây nhiều tội ác hơn. Thế là chưa hiểu. Sở dĩ chúng dám ngang tàng là vì đám người bình dân lương thiện không muốn hơn thua những chuyện nhỏ mọn với chúng. Hoặc giả có người nghĩ rằng nhổ cỏ không nhổ hết rễ sẽ bị bọn chúng trả thù. Có người nghĩ rằng giải nộp một tên trộm phải mất công chờ chực hầu tòa khai báo phiền phức, không bao lâu chúng lại được tha về làng trở lại. Vì vậy mà người ta bỏ qua nên chúng không kiêng sợ gì cả. Có chỗ dung túng để làm điều ác, càng lúc chúng càng lộng hành. Nếu giữa bọn chúng với nhau thì đứa nào như đứa nấy sẽ kềm chế lẫn nhau không thể trổ ngón ngang tàng với ai được. Không làm ác được, tức tự nó đã có cái thiện trong đó rồi. Còn đứa nào hung dữ quá thì xiềng lại, bắt làm khổ sai, như con ngựa chứng đã có dây cương hàm thiếc, không cắn đá vào đâu được. (Ở phương Tây những người tội nặng không bị xử trảm hay xử giảo mà chỉ xử khổ sai chung thân, trừ trường hợp phạm tội ác nhiều lần đáng chết mới xử giảo). Đây là điều quan trọng đối với việc trừ tệ làm phước. Trong đó có nhiều chi tiết rất quan hệ với nhau. Xin quan sát dân gian ngày nay và suy nghĩ kỹ mới thấy bọn này là mối tai hại lớn của nhân dân. Ở phương Tây người ta đày những bọn này qua Tây Châu và qua các đảo xa xôi cho chúng khai hoang. Nhờ vậy trong nước ít trộm cướp, nhân dân yên ổn làm ăn. Nay ta cũng nên phân loại ra thi hành dần dần, sẽ thấy có kết quả.

Điều thứ tám: Lập Viện Dục Anh và Trại Tế Bần.

Vua Văn Vương thi hành chính sách nhân đức trước hết là đối với hạng người cô độc. Vua Nghiêu vua Thuấn thương người trước hết là hạng nghèo khổ. Đó là thể theo cái đức lớn của trời đất mà bù đắp chỗ thiếu sót của loài người. Bởi vì trong thế gian có người nghèo khổ mới tỏ rõ được cái đức bố thí, có kẻ mồ côi mới có cái ơn dạy dỗ. Đó là tạo vật chừa chỗ thiếu sót cho loài người tạo ơn đức. Nếu không, Nghiêu, Thuấn, Văn Vương không làm sao sáng tỏ cái đạo đức của mình được.

Con người ta mang ơn nặng của cha mẹ là ở chỗ nuôi nấng dạy dỗ, che chở, xây dựng nên người. Nếu chỉ có công sinh ra mà thôi, thì chẳng khác nào loài vật. Vì đó là tính tự nhiên. Bởi vậy loài vật không có đạo hiếu thảo. Loài vật thành được loài vật hoàn toàn do sức tự nhiên của tạo hóa, không quan hệ mảy may gì đến ơn dạy dỗ xây dựng. Cho nên đối với loài vật cái ơn ấy thuộc về tạo hóa. Chúng được sinh sống trong điều kiện tự nhiên mà không hề biết đến. Chúng không thể làm sáng tỏ cái chủ trương có tính linh sáng suốt như con người. Vì thế tạo hóa mới dùng con người để hoàn thành cái đức dạy dỗ nuôi nấng của trời.

Nay thử bắt một đứa nhỏ rời vú mẹ đem bỏ ở chỗ hẻo lánh không người. Không cha mẹ nuôi nấng che chở chắc phải chết, làm sao khôn lớn nên người được? Vậy thì cái ơn sinh ra đó cũng như không sinh. Nếu sinh ra mà để cho khổ não đến chết là không làm hết cái đạo làm người, thế chi bằng đừng sinh còn hơn. Nói về công sinh đẻ, dĩ nhiên không thể phủ nhận ơn, nhưng kỳ thật đó vốn là lẽ tự nhiên của tạo hóa, không sinh không được. Vậy cái quyền sinh ra không thuộc về cha mẹ. Cho nên chỉ nói “sinh” mà chưa nói đến “thành”. Đến lức sinh ra rồi, muốn nuôi hay muốn bỏ là quyền của cha mẹ. Như Trung Quốc sinh con gái thì bỏ, như man rợ ăn con. Những đứa trẻ ấy nếu biết, chúng sẽ oán hận vô cùng kẻ đã sinh ra chúng, còn nói gì đến ơn nghĩa? Vậy cái công bảo toàn đó không thuộc về tạo hóa mà thuộc quyền chủ trương của cha mẹ, nên mới gọi là sinh thành. Tôi nói như thế không có ý khinh bạc cái công sinh đẻ, nhưng bàn về cái công nuôi dạy so với sinh đẻ thấy nặng hơn nhiều. Nếu vậy thì những kẻ mồ côi không nơi nương tựa bị vứt ngoài bụi ngoài bờ mà được người nuôi dạy lớn khôn nên người, thử hỏi công ấy có hơn công cha mẹ đã sinh ra không?

Phàm con người có lập ra vua, nước, luân thường, uy quyền, chính sự, luật lệ, công thủ, trừng phạt v.v… Tóm lại mọi sự cũng chỉ để hoàn thành con người, sao cho sống chết không có điều ân hận mà thôi. Cho nên cái đức của trời đất là bảo toàn nuôi dưỡng muôn vật còn bổn phận của loài vật là tự bảo vệ gìn giữ lấy mình. Chính vì vậy tạo hóa sinh ra muôn vật đều ban cho cái bản năng bảo vệ. Riêng loài người hình như còn thiếu. Không phải tạo hóa cố ý làm thiếu, kỳ thật là để cho ta có cái đức giúp đỡ nhau, hoàn thành cho nhau đó thôi. Như trong sách đạo có nói: Trong con người gồm đủ tất cả những cái tốt xấu của muôn vật.

Hiện nay trong nước có một hạng người không khôn lớn nên người được, không sống trọn đời được. Làm kẻ bề trên có quyền hành trong tay, nếu không giúp đỡ chăm nom họ tức thiếu sót cái đức hoàn thành cho nhau. Cho nên bên phương Tây, nhà nước đặc biệt ủng hộ khuyến khích việc nuôi trẻ mồ côi và giúp đỡ người nghèo khổ. Ở Anh có đạo luật nói rằng nếu trong làng có người nào nghèo khổ không thể tự nuôi sống được thì giao cho những người giàu có trong làng nuôi. Cả nước những người có tiền của, hàng năm đều xuất tiền giúp người nghèo trong làng, ít nhất cũng năm trăm quan. Đó là luật nước bắt buộc, ai cũng phải làm, trừ những người có lòng tốt thường đứng ra xuất tiền phát chẩn. Ngoài ra còn có những trường dạy trẻ miễn phí, nhà trọ, nhà dưỡng lão, nơi phục hồi nhân phẩm cho gái mãi dâm, nhà thương, nhà nuôi trẻ mồ côi, nơi nuôi chữa người tàn tật. Những cơ sở từ thiện này ở đâu cũng có, không những do nhân dân vì lòng thương xót tiết giảm lãng phí quyên góp làm ra, mà cũng do nhà nước khéo biểu dương khuyến khích nữa. Cũng bởi vì đạo nhân ái, việc cần kíp trước hết là nuôi trẻ mồ côi, thứ đến là cứu giúp kẻ nghèo. Còn đối với những người đã trưởng thành, những gia đình sung túc, tự họ đã gần chu toàn rồi đâu cần cứu giúp nữa? Viện dục anh tế bần là làm cho những kẻ sắp chết được sống lại. Công đức ấy thật vô lượng!

Người ta thường nói: Người chết không thể sống lại, vật hư không thể lành lại. Đó là luật thành hoại của tạo vật. Nhưng đối với con người, điều đó chưa làm thỏa mãn. Nay có người chưa đến nỗi phải chết mà sắp chết, người ta có thể làm cho sống, vật chưa đến lúc hư mà hư, người ta có thể làm cho nguyên lành được. Như thế chẳng hơn luật nhất định của tạo vật hay sao? Cho nên trong sách có câu: “Ca ngợi sự giáo hóa nuôi nấng của trời đất thì cũng có thể tham dự được với trời đất”. Ai là người để ý đến cái đức của trời không thể không để ý sâu vào câu nói này.

Về công việc cứu tế, bất luận nước nào, đạo nào, đã là người không ai không cho đó là việc đạo đức tốt đẹp. Biết vậy nhưng ít ai làm. Tại sao vậy? Nếu nói khó với dễ thì tế bần còn dễ hơn dục anh. Dễ còn không làm huống chi chuyện khó. Như Trung Quốc xưa nay xưng là nước lễ nghĩa thế mà chưa hề nghe việc này được nói đến trong chính sách nhà nước! Thỉnh thoảng tuy có nhắc đến, nhưng đó chỉ là một sự xúc động lương tâm nhất thời mà thôi, chưa có một chính sách thi hành nhất định như luật pháp phương Tây. Đó là chưa nói đến những kẻ thừa hành ở dưới chẳng xem những lời nhắc nhở ấy có giá trị. Nói chung, tuy ở trên không thể làm hết mọi việc, nhưng trong dân gian chưa nghe có ai họp nhau lại, đem lòng nhân ái ra mà bàn luận việc lập hội từ thiện cứu tế như ở phương Tây. Tôi thấy hiện nay ở Trung Quốc cũng như nước ta, người ta thường dán nhiều tờ kêu gọi ở ngoài đường. Đứng đầu phần nhiều là những người danh vọng nho nhã. Nhưng nội dung thì kêu gọi lập đàn cúng tế, hoặc hát tạ thần, hoặc đúc tượng Phật, hoặc lập bài vị thần, hoặc đúc chuông, sửa chùa, hoặc hội họp văn chương, hoặc làm đình làm mộ, dùng văn chương lời lẽ hay ho để vui lòng đẹp mắt, hy vọng lôi cuốn được nhiều người. Những người này ai quyên góp được nhiều thì bảo là háo thiện! Chẳng biết những việc ấy có thiện gì mà gọi là háo? Chỉ có háo danh mà thôi! Ngoài đường có người đói xin miếng cơm thừa canh cặn mà còn nhẫn tâm không cho. Gần nhà có trẻ mồ côi ngồi khóc bên vách còn nỡ nhắm mắt bỏ đi. Vậy mà bảo là háo thiện? Tôi đã mục kích không biết bao nhiêu những chuyện giả đạo đức để cầu danh, còn cái đạo đức chân thật hợp với tạo hóa thì bỏ nó đi như đồ ô uế. Thế thì đừng lấy làm lạ tại sao tai ương hoạn nạn lan tràn khắp xứ. Đó là vì uổng dùng của đời mà không biết khéo dùng cái phúc ở đời tạo vật đã ban cho ta, chia sớt cho người bất hạnh.

Tôi thấy hiện nay Triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng vì người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được hưởng sự cứu giúp bao nhiêu.

Không bằng phương Tây người ta tự mở đồn điền, cất nhà lớn, nhiều người hảo tâm bỏ tiền ra giúp. Ở các nhà thờ, trường học tư, nhà chung v.v… đều có đặt hòm cứu tế. Ai muốn giúp đỡ bao nhiêu thì cứ bỏ tiền vào hòm. Mỗi ngày mở hòm lấy tiền chia ra các nơi. Hội thánh thâu hết những người nghèo về nuôi, chữa bệnh. Người nào khoẻ mạnh thì dạy cho làm ruộng và các nghề vặt. Người tàn tật thì có công việc tàn tật, không ai ở không. Ngoài ra còn dạy họ làm các nghề thủ công để bán lấy tiền phụ thêm vào việc chi phí sửa sang trong viện. Nếu còn dư thì mua ruộng vườn chăn nuôi sinh lợi thêm nữa. Còn rất nhiều cách làm hay khác không thể kể hết.

Về mặt nhà nước thì cấm tuyệt không cho kẻ đi ăn xin. Nếu ai vô cớ đi ăn xin dọc đường, đó rõ ràng là kẻ gian trá hình, bất cứ ở đâu hễ gặp là bắt ngay đem về tra xét rồi xiềng lại sung vào công dịch. Làm được thế người nghèo có nơi nương tựa mà bọn côn đồ bất lương khó đường trốn tránh. Việc ấy có lẽ chúng ta cũng làm được chứ?

Còn việc nuôi trẻ rất khó kiếm người. Chắc chắn phải như những phụ nữ phương Tây tình nguyện vào ở trong viện với trẻ mới làm được việc và chắc chắn có hiệu quả tốt. Ví dụ như ở Gia Định, người ta sẵn tiền lại có người thực tâm làm việc mới có thể làm mẹ đám trẻ mồ côi được. Bất cứ trẻ nào người ta đều nuôi dạy. Trai học theo trai, gái học theo gái. Đến tuổi trưởng thành người ta đứng ra dựng vợ gả chồng và chia cho của cải. Tôi thấy họ thương yêu nuôi nấng các trẻ mồ côi như con dẻ của họ vậy. Các trẻ mồ côi lúc còn nhỏ, trai gái đều có phòng riêng. Chỗ nghỉ ngơi cũng phân biệt. Từ mười tuổi trở lên, con trai con gái đều có nhà riêng và chỗ ở riêng biệt. Những phụ nữ phương Tây này đều độc thân không lập gia đình, nên nhờ bản tính làm mẹ họ chịu đựng được mọi sự ô uế. Nếu ai cho con nít mới sinh, họ sẽ thuê vú nuôi trong một năm rưỡi. Ngoài ra họ còn chữa bệnh phát thuốc không lấy tiền.

Nếu Triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến, mởi mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. Giả như các giám mục có giao ước trước một cách rõ ràng rằng: “Nếu các trẻ mồ côi lớn khôn sẽ được mang về Tây làm dân bên ấy”. Tôi nghĩ những trẻ mồ côi của ta không người nuôi nấng sớm muộn cũng chết thì để họ nuôi lấy cũng được. Huống chi nhà nuôi trẻ dù lập ở đâu, bọn trẻ con khi lớn khôn cũng sẽ phân tán tại các nơi đó. Dân là dân của ta, có người bỏ tiền bỏ công ra xin nuôi dạy. Xưa chúng là người bỏ rơi mà sau được nên người. Những người làm mẹ nuôi chúng nhiều người ở mãi đến già chết trên xứ ta. Như thế đủ chứng tỏ tấm lòng từ thiện của họ như thế nào.

Phàm đã là việc từ thiện thì bất cứ Đông Tây Nam Bắc đều xuất phát từ cái đức của trời mà ra cả. Vì vậy cái gì bắt chước được cứ bắt chước, cái gì làm theo được cứ làm, không ngại gì cả. đừng cho rằng hợp tác làm như vậy sợ người ta dị nghị. Làm công việc từ thiện như thế mà còn có người chê bai chống báng, tôi không hiểu những hạng người ấy lòng dạ như thế nào?

Ở phương Tây, tiền nuôi trẻ mồ côi phần nhiều là của trẻ con cho. Vì khi vào trường học, thầy giáo cắt nghĩa cho các em hiểu rằng trên đời còn có nhiều trẻ em nghèo khổ không nơi ăn học. Chúng cũng là anh em của các em. Ngày nay các em nhờ cha mẹ được cho ăn no mặc ấm lại có tiền dư mua bánh trái, đồ chơi, tiêu phí vô ích, chi bằng các em chia sớt chút ít cho các anh em của các em đang đói rét sắp chết đó có hơn không?

Nhớ lời giảng giải của thầy giáo, các em đua nhau bỏ tiền vào hòm cứu tế. Mỗi trường mỗi tháng thu được hai ba trăm quan. Cách dạy người làm việc thiện của họ thật là khéo! Ta không phải không có người hảo tâm chỉ tại chưa có ai đề xướng đó thôi.

Đối với các kế sách, điều này hình như chưa cần kíp lắm, nhưng đứng trên đạo làm người và về phương diện cải thiện quốc gia, thật cũng vô cùng khẩn cấp, nếu không bắt tay vào việc ngay, không biết đến bao giờ mới làm được?

§

Tám điều trên đây, trích trong bài Tế cấp luận, đều là những việc cần phải làm trước hết đối với tình thế nước ta. Còn về thế tung hoành sẽ có một tập khác suy diễn rộng rãi hơn, ở đây không thể nói rõ hết được. Trong tập này cũng có một vài điều khoản nhỏ mới thêm vào. Cho nên tám điều này tên tuy cũ nhưng các việc đều mới, phát sinh từ tình thế nước ta hiện nay. Nếu làm đúng như thế sẽ bằng được như người ta hoặc hơn người ta. Nếu không làm, nhất định phải thua sút thiên hạ. Trước kia ta làm các việc trị nước đều có tính cách làm qua loa cho xong chuyện. Giờ đây mới là lúc những việc làm của ta không những chỉ nhằm thi hành trong nước mà còn phải đối phó với thiên hạ. Tình thế nay đã khác xưa lắm rồi.

Trong đoạn đầu, tôi có trình bày tình hình cấp bách uy hiếp chung quanh ta, mặc dầu cơ hội có thay đổi bất thường, trước sau, sớm muộn có khác, nhưng đại thể nhất định sẽ không thay đổi. Nếu việc làm của ta không theo việc người, chắc chắn sự hệ trọng không nhỏ.

Xưa Câu Tiễn, vua nước Việt, bị nhục ở Cối Kê mới gắng sức trỗi dậy mà làm bá chủ được thiên hạ. Thế Tổ Cao Hoàng Đế nước ta mắc nạn lưu vong mới ẩn nhẫn nuôi chí lớn thống nhất đất nước. Câu Tiễn bị giữ làm con tin, không còn thế lực nương tựa, chỉ một niềm quyết tâm mà gây dựng cơ nghiệp, huống chi nước ta ngày nay đã sẵn ba nghìn dặm đất với hai chục triệu dân!

Tôi thấy nước ta từ lâu dân thì mỗi người một ý không hợp nhất với nhau, Triều đình thì bận rộn đối phó không chút rảnh rang để mưu đồ việc khác. Còn chúng thì thôn tính thêm phần đất lớn của ta để củng cố thế lực mạnh thêm, âm thầm mưu tính, thong thả sắp đặt. Tương lai nước ta sẽ ra sao, cứ nhìn việc đã qua cũng có thể tưởng tượng được.

Tôi đã biết chắc điều đó, suy tính kỹ và thấy rõ ràng, nên trước đây trong đoạn cuối bài Lục lợi từ tôi có thưa rằng cứ thực hành, dần dần sẽ thấy hiệu quả. Nếu trì hoãn thì dù trì hoãn đến bao giờ cũng không thể bỏ những kế sách ấy mà có thể chống lại chúng được. Nếu không làm để cho càng lúc càng suy yếu khác nào bệnh đau lâu không ấp tìm phương chữa trị, bệnh tình sẽ mỗi ngày một trầm trọng. Nếu làm dù có khi được khi hỏng không vẹn toàn, nhưng hết sức mình thì sau sẽ không ân hận.

Xưa Khổng Minh lo tính kế hoạch đánh Nguỵ suốt ngày lẫn đêm ngay cả trong giấc ngủ mơ màng (Câu này tôi ghi sâu trong lòng và thường nhắc luôn miệng). Tôi tuy tài kém nhưng lòng dạ có thừa, không có phận nhưng có chí, cho nên mắt thấy tai nghe được gì, lo nghĩ suy tính được gì, thì cứ tưởng như là mình có thể làm được việc lớn vậy. Tôi quyết không vì thời thế mà thay đổi chí hướng hay dám để cho lòng nguội lạnh. Cho nên lâu nay tôi đã trình bày dòng dài mà không ngờ rằng những chuyện đó ngoài phận sự của mình!

Những điều trên đây, khẩn cấp nhất là việc “Chấn chỉnh vũ bị”. Bổ sung vào đó là việc “Dẹp trừ tệ đoan, gây tài chánh”. Việc “Chỉnh đốn học thuật” là cái gốc lớn của quốc gia. Còn “Kiển tra số đinh”, “Kiểm tra điền thổ”, “Sửa sang cương giới” là những việc cần gấp để làm cho nước mạnh. Tôi chỉ nêu lân lý lẽ và đề ra những nét đại cương mà thôi. Còn việc thực thi phải châm chước như thế nào cho thỏa đáng là quyền của Triều đình. Nhưng nếu muốn thi hành triệt để thì phải tính toán liệu lý tỉ mỉ. Việc đó tôi cũng có thể đóng góp một ít tài hèn.

Xin trình bày thêm về khoản sử dụng sắt.

Tôi với giám mục Hậu, linh mục Điều có đi thăm một xưởng đúc sắt lớn ở Ba Lê. Đường xa bằng từ Kinh đô đến Nghệ An. Chúng tôi ở đó hơn một tuần xem hết tất cả các cách đúc sắt mới biết cái lối làm cho nước giàu mạnh của họ khác ta nhiều. Xưởng có khoảng hai vạn công nhân (Xưởng này của hội tư không phải của nhà nước) và hơn một ngàn giàn máy khác nhau để đúc máy tàu thuỷ, tàu hỏa và nhiều dụng cụ khác (mỗi giàn lớn bằng một chiếc tàu thuỷ). Mỗi giàn máy trị giá vào khoảng năm mươi vạn quan. Xưởng có mười lăm lò nấu lớn. Mỗi lò một ngày một đêm nấu được chừng ba vạn cân sắt (Bảy năm mới xây lại một lần). Các nước đều đến đây mua máy móc, sắt tấm và những loại khí cụ bằng sắt. Sắt tấm sau khi đúc xong, mỗi tấm dài từ hai mươi thước trở xuống (Muốn dài một trăm thước cũng được). Miếng hình vuông mỗi bên từ nửa phân đến năm tấc. Miếng mỏng từ nửa phân đến một tấc. Có ba loại có góc: Loại hình như T, loại hình như L, và loại hình như U. Có đủ kiểu vuông, tròn, khía, góc. Lại có những lá sắt mỏng như tờ giấy, dày từ một đến hai ba phân rộng từ một thước đến ba bốn thước, dầy, ngắn, rộng hẹp đủ thứ, thứ nào có giá nấy. Bất luận kiểu nào, giá tiền căn cứ vào chất sắt tốt xấu. Giá thấp nhất, một trăm kilô (hơn 166 cân ta) là mười tám quan. Thứ tốt nhất một trăm kí lô ba mươi lăm quan. Nếu mua chủ hãng sẽ chở đến cửa biển Mã Sa giao hàng. Còn muốn gởi đến Gia Định thì mỗi trăm kí lô phải trả cước phí từ bốn quan trở xuống. Ngoài ra còn đóng tiền bảo hiểm (Như đã đóng tiền bảo hiểm cho hãng rồi mà mất hàng, họ sẽ bồi thường) mỗi một trăm quan là ba quan.

Theo tôi sắt là một vật cần dụng nhất cho quốc gia và nhân dân. Nước ta tuy có nhiều mỏ sắt nhưng chưa biết cách đúc sắt như họ và cũng chưa có máy móc để chế tạo ra các dạng hợp với nhu cầu sử dụng. Như các xã phải nộp sắt, thường họ không mua đủ sắt được để nộp. Nếu có nộp đủ số thì sắt cũng chẳng ra hình dạng gì lại phải thuê thợ rèn đánh ra tổn phí thật nhiều. Như việc làm đinh chẳng hạn, nếu dùng sắt của họ, một sợi dài hoặc vuông hoặc tròn một ngày làm được một ngàn cái đinh thì sắt ta làm không tới một trăm cái mà đinh cũng chẳng tốt (Có máy dập đinh giá vào khoảng bốn ngàn năm trăm quan, một tiếng đồng hồ dập ra sáu ngàn cây đinh thật đẹp). Như vậy thì dùng sắt của họ đỡ tốn công gấp bội. Và như loại sắt âm dương để xỏ bánh lái trên những thuyền lớn của ta giá đến cả trăm quan vì to và khó rèn. Còn như những sắt tấm bề mặt ba bốn thước dài ba bốn chục thước, thợ ta không có cách nào làm được. Tôi xem kỹ các loại sắt của họ rất tiện dụng. Bất luận kiểu nào đều có làm sẵn khỏi mất công rèn lại dỡ đốn biết bao nhiêu. Vả lại các loại sắt ấy còn dùng để chế tạo các loại vũ khí, làm những đồ máy móc to nặng hoặc dùng vào những việc khác cho binh pháp cũng tiện mà thợ ta không tài nào làm được. Đã không được các kiểu sắt ấy thì không thể nào kiến thiết được theo các phương pháp mới. Nay ta dù muốn nấu sắt đúc sắt như xưởng của họ (Tôi có mua một bộ sách dạy cách nấu sắt đúc sắt rất đầy đủ đã đệ nạp rồi) cũng chưa đủ tiền đủ sức để làm. Chờ sau sẽ thong thả làm dần. Nay xin sức các xã từ trước nộp sắt được nộp bằng tiền. Như vậy rất tiện cho dân. Rồi mỗi năm quốc gia dùng bao nhiêu sắt cứ viết thư đặt hàng cho chủ hãng bên ấy, người ta sẽ lo liệu tất cả. Khi nào sắt về đến Gia Định, ta đến đó nhận hàng và trả tiền, không có gì đáng ngại cả. Như vậy tiện cho nhà nước mà cũng tiện cho dân nữa. Hơn nữa so giá tiền mua với giá của ta còn lợi hơn nhiều vì sắt đã làm thành đồ vật cả rồi. Vả lại giá tiền như thế nào lâu nay người ta cũng biết cả rồi. Nếu mua dùng sau sẽ thấy rõ. Họ có phát đơn đặt hàng tại các nước, trong đó ghi rõ sắt tên gì, kiểu loại nào, giá bao nhiêu, có thể so sánh biết được (Hiện nay các nước Xiêm La, Nhật Bản mua sắt của xưởng đó rất nhiều). Sắt Tây hiện đã có bán ở Gia Định giá một trăm cân Tàu là tám đồng. Như thế mua sắt chở đến bán ở Gia Định cũng đã lời nhiều rồi.

Nếu Triều đình cho là phải, hãy mua thử một lần, mỗi thứ một ít đem về dùng thử rồi so sánh. Nếu quả thấy tiện lợi mới đặt mua nhiều cũng được.

Còn về việc lập xưởng sắt đợi khi nào tôi về Kinh trình bày rồi sẽ tính sau.

Xin trình bày thêm về khoản làm súng hỏa mai.

Ngày trước, khi chúng tôi mới đến Ba Lê, linh mục Điều đã đi dò hỏi các nơi về việc này. Ông biết được có một gia đình chế tạo súng hỏa mai ở ngoại ô xa thành phố và đã điều đình với họ về việc học làm súng. Chờ khi nào hai phái viên đến, linh mục Điều sẽ giới thiệu cho hai bên giao ước với nhau. Hôm nay, hai phái viên với Nguyễn Hoằng đáp tàu hỏa đến xưởng này để quan sát xem liệu có học được không. Chủ xưởng nói nếu chịu mua súng của họ năm sáu chục vạn đồng (Thứ đắt nhất giá mỗi cây một trăm lẻ một quan, hai bách) họ sẽ cho ở tại xưởng ba tháng tận tâm chỉ dạy cho học mà không lấy tiền công dạy, cũng không tính tiền ăn. Nếu không mua mà chỉ học không thì học phí đôi ba trăm quan đối với họ chẳng nhằm nhò gì họ chẳng thèm dạy đâu, mà lấy đôi ba ngàn quan thì hai phái viên không chịu. Xem lời lẽ của chủ xưởng thì học phí hai ba nghìn quan có vẻ họ chịu dạy. Hai phái viên muốn học lắm nhưng vì học phí quá nặng nên chần chừ không quyết định.

Họ còn hướng dẫn cho xem các cách làm súng, các giàn máy. Công trình rất là đồ sộ. Mỗi ngày xưởng có thể sản xuất mười vạn cây súng. Công nhân trên ba trăm (Người Nhật hiện đến mua của xưởng một trăm vạn cây súng, mua các giàn máy và thuê hai công nhân về Nhật Bản lập xưởng). Họ còn cho hai phái viên biết nếu muốn học làm súng phải học hóa học trứơc cho giỏi, sau chỉ học ba tháng là rành nghề. Do đó hai phái viên không thể quyết định được, phải trở về. Hơn nữa khi ra đi, hai phái viên chưa được Triều đình dặn dò rõ ràng việc này, còn chúng tôi cũng không có tiền để có thể giải quyết được. Nên phải đợi về trình lại rõ ràng. Nếu quyết định làm cũng có cách khác có thể làm được.

Xin trình bày thêm về việc đào kênh.

Đào kênh là một việc làm quan trọng đem lại lợi ích lâu dài cho đất nước. Nước ta là một trong ba nơi trên địa cầu bị bão thổi qua (một ở biển Đông Nam, hai ở biển Ấn Độ phía Tây Châu). Hơn nữa bờ biển nước ta kéo dài từ Tây Bắc xiên xuống Đông Nam mà luồng bão thường nổi lên ở Đông Bắc tạt ngay vào bờ biển làm người lái tàu khó tránh được. Thật đúng như lời người xưa nói: Tàu biển không sợ gió chỉ sợ mắc cạn. Và đối diện ngoài biển xa có đảo Hải Nam và Bà La Châu đều là những ổ của bọn cướp biển. Thuyền quan thuyền dân qua lại nơi đây không bị cướp cũng bị bão. Thoát khỏi hai nạn này là điều may mắn lắm. Đó là đường biển thiếu an toàn. Nước ta Kinh đô như cái bụng, Bắc kỳ như cái đầu. Mọi cái gì cũng do từ miệng vào bụng. Nếu qua cổ bị nghẹn thì thật là một bệnh nặng. Còn về lâu về dài, một khi có sự cố xảy ra thì bọn chúa cướp các nước phương Tây sẽ lợi dụng cơ hội bắt chẹt ta. Chuyện đó không thể không đề phòng trước (câu này có một ý nghĩa đặc biệt. Đợi khi tôi về Kinh sẽ làm một tờ trình riêng trình bày rõ ràng). Như về việc vận chuyển lương thực, Triều đình đã hết sức lo liệu mà vẫn chưa ổn. Phần nhiều một thạch lương thực đến được Kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu. Đó là chưa nói đến nhiều vụ bị chìm ghe, bị đánh cướp. Các sản vật khác cũng vậy. Còn ghe buôn của dân mỗi năm chìm không biết bao nhiêu mà kể. Dân nghèo thì nước cũng nghèo. Cái hại lớn ấy đều do đường biển gây ra. nay xin xem xét kỹ địa thế từ Hải Dương đến Kinh đô, đào một con kênh lớn có thể lưu thông được tất cả các ghe lớn ghe nhỏ thuyền quan thuyền dân, rồi cất trạm thu thuế. Xong đóng thuyền chuyên chở theo kiểu phương Tây (tôi biết việc này) thuyền nhỏ mà chuyên chở được rất nhiều. Hai bên bờ kên nơi nào có thể đắp đường được thì đắp đường cho trâu ngựa kéo, đỡ nhọc sức người. Ngoài ra còn sử dụng dân binh (như điều trước tôi đã trình bày về vấn đề dân binh) ở vùng nào tiếp cận vùng ấy. Làm thế thì ít tốn kém, an toàn và tiện lợi. Có chỗ nào kênh đi quanh (tôi biết cách chia dẫn thế nước) cứ việc đào thẳng. Như vậy không những quốc gia và các tỉnh được lợi lớn và lâu dài mà dân gian buôn bán làm ăn, đi Nam về Bắc, dầu ít vốn cũng làm được. Lợi ích rất lớn. Hễ ghe thuyền nhiều thì thuế nhiều, nhà nước có lợi.

Còn những chỗ trở ngại và cát đá khó đào xin cứ giao cho tôi. Tận dụng đủ cách thì núi cũng xuyên qua được huống gì những nơi bế tắc. Lúc trước tôi có xem qua chỗ Nhà Hồ ở Quảng Trị thấy cũng có thể xuyên qua được. Chỉ có Hoành Sơn là tôi chưa xem kỹ. Nếu quan sát nghiên cứu kỹ hai nơi này mà thấy có thể đào được là đào lliền. Sau khi đào kênh xong đã khỏi lo bão và cướp biển gì nữa mà còn có một kế hay. Số là chúng muốn dòm ngó Bắc kỳ vì ở đó có nhiều nguồn lợi. Nhưng chúng cũng sợ biển nhiều bão. Bờ biển từ Kinh đô ra Bắc ít vịnh nào thuyền lớn có thể vào đậu được, cửa biển lại cạn. Nếu thuyền của chúng chiếm lấy cửa biển làm căn cứ, chúng mới dám đi sâu vào nội địa của ta. Nếu ngay trong nội địa ta đào được con kênh sâu rộng thì mọi dịch vụ về thuyền bè ít cần đến đường biển nữa. Lúc bấy giờ ở các cửa biển sâu từ bảy trăm thước trở xuống, dùng đá xây cho chắc và xây quanh co khó cho thuyền lạ đột nhập thình lình. Ngoài ra ta còn xây đồn luỹ kiên cố như các nước phương Tây để phòng ngự. Chúng sẽ thấy lúc bình thường ra vào còn khó khăn thay, huống chi một khi chuyện gì xảy ra. Trên đồn lại có quân ta chống giữ, đã khó còn khó hơn. Còn như sợ ta khó vào ra thì quan và dân ta đã có những thuyền con qua lại, không dùng đường biển cũng chẳng hại gì. Nếu thuyền đồng lớn của quan muốn lui tới nước ngoài thì từ Kinh đô vào Nam có nhiều vũng sâu và cửa Quảng Yên, Thái Bình có thể neo đậu được. Thuyền quan các nước phương Tây không phải cửa nào cũng vô ra được đâu. Một nước có chừng năm sáu cửa biển cho thuyền quan ghé đậu là đủ rồi.

Nếu thuyền lớn của dân muốn đi buôn bán nước ngoài thì ra vào đều có hạn định, mỗi năm chỉ vài ba chuyến thôi, đâu phải như ghe nhỏ ra vào thường xuyên mà sợ rằng khó. Còn ghe đánh cá thì lại không có gì trở ngại.

Khi chưa đi sâu vào nội địa của ta thì chúng cậy có đường biển. Nay đã có thiên thời gây bất trắc, lại có sức người kiên cố nữa thì chúng cũng khó thỏa mãn ý đồ trong một sớm một chiều được.

Nếu Triều đình muốn thực hiện lợi ích lâu dài này, trước hết phải cho người đi xem xét kỹ địa thế về trình bày đầy đủ và trù tính xem như thế nào. Nếu thấy được, nên hết sức thực hiện. Còn thấy không thể làm được thì tôi xin trình bày một kế hoạch khác sao lợi cho dân, chống giặc giữ nước. Tuy nhiên việc đào kênh này dễ làm hơn. Hãy làm thử xem sao!

Kính trình quý quan Lục bộ đại thần suy xét.

Chú thích

(*) Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/2; Hv 634/2; VHv 170.

Bản chụp của Tuần san VĂN ĐÀN, do ông Phạm Đình Khiêm cung cấp cho chúng tôi.

Tế cấp bát điều được viết trong lúc Nguyễn Trường Tộ đang ở Pháp.

(1) Mạch cũng đọc là Bách. Mật bách ăn 60 hay 70 đồng tiền.

(2) Xưa người đi học được khỏi đóng thuế thân, gọi là miễn nhiêu.

(3) Trạng Trình tức Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tương truyền có nhiều câu sấm báo trước những chuyện sắp xảy ra trong tương lai.

Trạng Lượng hay Trạng Lợn? Tất cả các bản văn đều chép “Lượng”. Nhưng Trạng Lượng là ai thì chưa rõ.

(4) Những người yếu đau không đi làm xâu dịch được thì phải đóng một khoản tiền để thuê người khác làm, gọi là Miễn dịch tiền.

(5) Lệ thu tiền lúa non có từ nhà Đường. Đến nhà Tống lập kế hoạch để thu là nếu dân không có tiền đóng thì quan xuất tiền quỹ ra cho vay để đóng, khi lúa chín gặt hái thì trả tiền lời 2 phân, gọi là Thanh miêu tiền.