V. Các Suy Nghĩ Của Hệ Thống (tiếp theo)

6. Thiên Chúa, Đấng chịu đau khổ với chúng ta một cách đầy thương xót

Ở chỗ thân thiết nhất trong đời sống đức tin này, ta nên dừng lại chốc lát và tự hỏi: Thiên Chúa có thể đau khổ hay không? Thiên Chúa có thể không phải chỉ là một Thiên Chúa cau mày một cách thiện cảm đối với đau khổ không? Liệu người ta có thể thực sự nói đến một vị Thiên Chúa đau khổ với [mitleidenden] chúng ta không và, do đó, vui mừng với chúng ta không? Đây không hẳn chỉ là những câu hỏi hoàn toàn có tính suy lý. Vì câu trả lời cho chúng sẽ xác định xem liệu Thiên Chúa có phải là một vị Thiên Chúa biết đồng cảm hay không, theo nghĩa chân chính của từ ngữ. Vì chữ “sympathetic”, một chữ phát nguyên từ tiếng Hy Lạp (συμπαθειν), không những chỉ có nghĩa là “thiện cảm” mà còn có nghĩa là “đau khổ với” (đồng cảm) nữa. Ta có thể nói như thế về Thiên Chúa hay không?

Thần học kinh viện truyền thống vốn bác bỏ điều cho rằngThiên Chúa có thể đau khổ. Cả nền triết học cổ thời cũng xác tín rằng Thiên Chúa không thể đau khổ (ἀπάθεια). Chỉ trừ một ít ngoại lệ, nói chung truyền thống thần học đã tiếp thu chủ đề quán xuyến này (134). Và họ có những lý do nghiêm túc để làm như thế. Họ lý luận rằng: nói tới một vị Thiên Chúa thụ động chịu để cho mình bị sự đau khổ của ta tác động đến là điều không tương hợp với tính siêu việt và tuyệt đối của Người, nghĩa là, với sự tách biệt và trổi vượt của Người đối với thế giới và phàm nhân. Thêm vào đó, sự hoàn thiện của Thiên Chúa, một sự hoàn thiện loại trừ mọi thứ thiếu sót, cũng loại trừ mọi thứ đau khổ, vì đau khổ quả thực là một thứ thiếu sót. Theo lối lý luận này, ý niệm Thiên Chúa đau khổ là một ý niệm không thể nào hoà giải với ý niệm Thiên Chúa được. Thiên Chúa không thể bị hành hạ một cách thụ động và bất lực bởi đau đớn và đau khổ được, giống như những hữu thể tử sinh chúng ta.

Giống ý niệm Thiên Chúa đau khổ, ý niệm Thiên Chúa trong diễn trình hình thành (becoming) là một ý niệm không thể nào tương hợp với ý niệm Thiên Chúa được. Thiên Chúa không thể tìm đường hoàn toàn tiến tới bản ngã của Người bằng cách trước nhất phải đi qua lịch sử đau khổ của thế giới. Những ý niệm loại này, tuy tìm thấy trong nhiều hình thức của những luồng tư tưởng khác nhau, kể cả nhiều hình thức của nền thần học hậu Auschwitz (135), nhưng không giúp ta tiến được bước nào trong việc trả lời câu hỏi về ý nghĩa sự đau khổ của con người. Karl Rahner phát biểu điểm này dưới một hình thức quyết liệt: Tôi có lợi thế nào được nếu sự việc cũng trở thành rối rắm cho vị Thiên Chúa yêu dấu của tôi? (136). Các ý niệm này biến các kinh hoàng của Auschwitz thành một huyền thoại và một định mệnh không thể nào tin được, một định mệnh mà không những chúng ta nhưng cả Thiên Chúa nữa cũng bị trao cho một cách không cưỡng được. Với cung cách đó, ta có thể gỡ mình khỏi bất cứ trách nhiệm nào đối với các đau khổ như thế và khỏi mọi thứ ăn năn thống hối cần thiết.

Cùng lúc ấy, cái hiểu của Thánh Kinh về Thiên Chúa vẫn đã có trong Cựu Ước không hề chừa chỗ để ta hoài nghi rằng Thiên Chúa không phải là vị Thiên Chúa vô cảm. Theo chứng cớ Thánh Kinh, Thiên Chúa có một trái tim dành cho phàm nhân. Người đau khổ với chúng ta; Người cũng hân hoan và than khóc vì chúng ta và với chúng ta (137). Thánh Kinh không hề biết một vị Thiên Chúa, trong uy nghi và phước hạnh, chễm chệ trên ngai đầy khủng khiếp đối với thế giới và vô cảm đối với nó. Theo Tân Ước, Đấng trong hình thức Thiên Chúa đã mang lấy hình thức nô lệ nơi Chúa Giêsu Kitô và tự hạ mình (Pl 2:6tt). Người có thể cảm nhận với chúng ta; Người giống như ta trong mọi sự, chỉ trừ tội lỗi (Dt 4:15). Thiên Chúa chịu đóng đinh lúc ấy và cả bây giờ vẫn là một tai tiếng, chắc chắn như thế. Một sứ điệp như thế dưới con mắt thế gian quả là sự điên rồ, nhưng lại là sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1:21, 23).

Thông Điệp Haurietis Aquas (1956) của Đức Piô XII, với nhiều trích dẫn từ các giáo phụ, đã nhấn mạnh rằng: dựa trên sự kết hợp ngôi vị của Ngôi Thứ Hai Thiên Chúa với nhân tính, các xúc cảm và đau khổ trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu cũng là các xúc cảm và đau khổ của Ngôi Hai Thiên Chúa. Sự đau khổ của Chúa Giêsu trong tư cách người phàm, do đó, cùng một lúc cũng là sự đau khổ của Thiên Chúa. Matthias Joseph Scheeben viết rằng Thiên Chúa trở thành người phàm nơi Chúa Giêsu Kitô để lòng cảm thương hay đồng khổ (compassion) theo nghĩa đen không khiếm diện nơi lòng thương xót (138). Do đó, trong nhân tính của Chúa Giêsu, Thiên Chúa có thể đau khổ và muốn chịu đau khổ với ta và cho ta. Nếu Thiên Chúa không chịu đau khổ cho ta trên thập giá và nếu Người không chết cho ta trên thập giá, nếu cái chết của Chúa Giêsu không là gì khác hơn là cái chết của một phàm nhân và nếu Người bị hành hình một cách bất công chỉ như một phàm nhân, giống nhiều người khác trước Người và nhiều người hơn nữa cho tới nay, thì cái chết của Người có thể làm gương cho chúng ta nhưng nhất quyết không có ý nghĩa cứu độ. Chỉ khi nào nơi Người, chính Thiên Chúa, Đấng bất tử và là chúa tể sự sống và sự chết, chịu đau khổ và chịu chết, Người mới chiến thắng sự chết ngay trong cái chết và qua cái chết.

Giáo huấn trên của Thánh Kinh và truyền thống giáo phụ không mâu thuẫn với giáo huấn truyền thống của thần học Kinh Viện, là nền thần học vốn khởi đi từ một cái hiểu siêu hình về Thiên Chúa. Sở dĩ như thế vì, đối với Thánh Kinh, sự đau khổ đồng cảm [Mitleiden] nơi Thiên Chúa không phải là một biểu thức nói lên sự bất toàn của Người, sự yếu đuối của Người hay sự bất lực của Người; nhưng trái lại, nó là một biểu thức nói lên sự toàn năng của Người. Vì tình yêu tối thượng của Người, có thể nói: Thiên Chúa đã để Người can dự vào việc nhập thể và hạ mình xuống ngang hàng một nô lệ. Người không bị đau khổ áp đảo. Là Thiên Chúa, Đấng bất tử và tự mình không thể đau khổ, Người đã tự ý phó mình Người cho đau khổ và chết chóc. Chính bằng cách này, Người đã có thể đánh bại sự chết ngay trong sự chết vì Người mạnh hơn sự chết. “Nhờ cái chết, Người đã tiêu diệt sự chết của chúng con, và nhờ sống lại, Người đã phục hồi sự sống của chúng con” (139).

Trong sự chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã không từ bỏ sự toàn năng, mà đúng hơn, Người đã hành động một cách hoàn toàn toàn năng. Với Kierkegaard, ta có thể nói: một trong các yếu tố của sự toàn năng, đúng hơn, sự toàn năng của tình yêu, là nó bao hàm việc để mình bị tác động bởi đau khổ mà không bị đau khổ kiểm soát (140). Một Thiên Chúa mà chỉ thương xót chứ không toàn năng sẽ không còn là Thiên Chúa nữa. Một Thiên Chúa chỉ toàn năng chứ không thương xót sẽ là một bạo chúa đáng ghét. Tương tự như thế, lời cầu nguyện của Giáo Hội quả quyết rằng quyền năng của Thiên Chúa được tỏ bầy “trên hết trong lòng thương xót và tha thứ” (141).

Cho nên, không thể có vấn đề tranh cãi về sự toàn năng của Thiên Chúa vì lòng thương xót của Người và về việc trao một Thiên Chúa bất lực cho đau khổ. Ý niệm Thiên Chúa sẽ bị hủy diệt trong một diễn trình như thế, vì một vị Thiên Chúa bất lực sẽ không còn thực sự là Thiên Chúa nữa. Do đó, Thiên Chúa không thể bị tác động và áp đảo bởi đau đớn hay tổn hại, một cách thụ động và ngược với ý muốn. Nhưng trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa tự để mình, một cách hoàn toàn tự do, chịu tác động bởi đau đớn và đau khổ. Trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa chứng tỏ Người tự do một cách siêu phàm. Lòng thương xót của Người không bị xui khiến bởi nhu cầu hay thống khổ của con người. Người nhân từ quyết định chịu tác động và lay động bởi đau đớn và đau khổ của nhân loại. Do đó, nhiều nhà thần học ngày nay trong các truyền thống Công Giáo, Chính Thống, và Thệ Phản nói tới sự kiện Thiên Chúa có thể chịu đau khổ thay cho ta và với ta (142).

Ngay Origen cũng đã nói tới sự đau khổ của Thiên Chúa vì yêu thương ta và Người biến sự đau khổ vì yêu thương này thành nguồn gốc của lịch sử cứu độ. Ông phát biểu ý tưởng này như sau: “Primus passus est, deinde descendit. Quae est ista, quan pro nobis passus est, passio? Caritatis est passio” (“trước hết, Người chịu đau khổ; rồi mới thăng thiên. Sự đau khổ Người chịu cho ta là sự đau khổ nào? Nó là sự đau khổ của tình yêu” (143). Thánh Bernard thành Clairvaux phát biểu cái hiểu của ngài về khả thể Thiên Chúa chịu đau khổ trong một công thức giầu óc sáng tạo khi ngài nói rằng Thiên Chúa bất khả đau khổ (impassibilis), nhưng Người không bất khả chia sẻ nỗi đau khổ của người khác (incompassibilis) (144). Thánh Augustinô giải thích ý nghĩa thiêng liêng của ý niệm này như sau:

“Không phải do tính tất yếu của thân phận Người, mà do thiện chí của lòng cảm thương nơi Người, nên Chúa Giêsu của chúng ta đã mang lấy những tâm tình yếu đuối phàm nhân này, lúc Người mang lấy xác thịt yếu đuối phàm nhân và cái chết của xác thịt phàm nhân. Người làm thế để biến đổi thành chính Người Nhiệm Thể của Người, tức Giáo Hội, mà Người đã đoái thương trở thành Đầu, để nếu có bao giờ xẩy ra việc bất cứ người thánh thiện và trung thành của Người bị đau buồn và sầu khổ trong các cơn cám dỗ nhân bản, thì họ không vì thế mà tưởng rằng mình bị xa lìa khỏi ơn thánh của Đấng Cứu Rỗi mình, nhưng nên học biết rằng những chuyện xẩy ra như thế không phải là tội lỗi, mà chỉ cho thấy sự yếu đuối của con người mà thôi. Như thế, Nhiệm Thể cần ghi nhớ điều đó từ Đầu” (145).

Đức Bênêđictô XVI cũng đã phát biểu một tư tưởng tương tự như thế:

“Con người có giá trị với Thiên Chúa đến nỗi chính Người đã trở thành phàm nhân để chịu đau khổ với con người… Do đó, trong mọi đau khổ của con người, chúng ta được kết hợp với Đấng cảm nghiệm và mang lấy sự đau khổ đó với chúng ta; bởi đó, sự an ủi hiện diện trong mọi đau khổ là sự an ủi của tình yêu đồng cảm của Thiên Chúa, và như thế, sao hy vọng đã mọc lên” (146).

Đó là những tầm nhìn thần học và linh đạo hết sức thấu suốt lần đầu tiên soi sáng cõi sâu thẳm trọn vẹn và khôn dò của lòng Thiên Chúa thương xót và đào rất sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Biết bao yêu thương đã tạo nơi người có đức tin sự ngưỡng phục và biết ơn sâu xa vì Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những việc ấy và đã chịu đau khổ cho chúng ta và cho tôi. Người đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, tội lỗi của tôi. Bất chấp điều này, và có lẽ vì chính điều này, ta nên đặt thêm với Người một câu hỏi cuối cùng: như thế thì tại sao lại có đau đớn và đau khổ vô chừng cho rất nhiều người vô tội trên thế gian? Nhằm mục tiêu gì?

Kỳ sau: 7. Đứng trước những người vô tội chịu đau khổ, hy vọng được thương xót
___________________________________________________________________________________________________________
(134) Wilhelm Maas, Unveranderlichkeit Gottes: Zum Verhaltnis von griechisch-philosophischer und christlicher Gotteslehre (Munich: Schoningh, 1974); Kasper, The God of Jesus Christ, 189-97; Peter Koslowski, Der leidende Gott: Ein philosophische und theologische Kritik (Munich: W. Fink Verlag, 2001).
(135) Các ý tưởng như thế tìm thấy trong trường phái Kabbalah Do Thái và trong nhiều hình thức của Hegel, nơi Scheler sau này và trong thần học diễn trình (process theology) (A.N. Whitehead, C, Hartshorne, J.Cobb v.v…), cũng như trong ngữ cảnh nền thần học hậu Auschwitz như Hans Jonas, Der Gottesbegriff nach Auschwitz.
(136) Karl Rahner, Schriften zur Theologie, Bd. 15 (Einsiedeln: Benzinger, 1983), 211tt; Paul Imhof và Hubert Biallowons hiệu đính, Karl Rahner im Gesprach, Bd.1 (Munich: Kosel Verlag, 1982), 245tt.
(137) Abraham J. Heschel, The Prophets (New York: Harper & Row, 1962): Peter Kuhn, Gottes Selbsterniedrigung in der Theologie der Rabbinen (Munich: Kosel Verlag, 1968); và cuốn khác của ông Gottes Trauer und Klage in der rabbinischen Uberlieferung (Leiden: Brill, 1978).
(138) Scheeben, Handbuch der katholischen Dogmatik, 2:266.
(139) Kinh Tiền Tụng I Phục Sinh
(140) Soren Kierkegaard, Die Tagebucher 1834-1855 (Munich: Kosel Verlag, 1949), 239tt; Karl Barth, Church Dogmatics, II/1: 605-7; Eberhard Jungel, “Gottesursprungliches Anfangen als schopferische Selbstbegrenzung” trong Wertlose Wahrheit: Zur Identitat und Relevanz des christlichen Glaubens (Munich: Kosel Verlag, 1990), 151-62; Thomas Propper, “Almacht III”, Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, 1:416.
(141) Sách Lễ Rôma, Lời Nguyện Chúa Nhật 26 trong lịch phụng vụ.
(142) Chỉ một số ít được nhắc tới ở đây: Hans Urs von Balthasar, Joseph Ratzinger, Hans Kung, Jean Galot, H. Muhlen. Về phía Thệ Phản: Jurgen Moltmann, Eberhard Jungel,… Xem Walter Kasper, “Das Kreuz als Offenbarung der Liebe Gottes”, Catholica (M) 61 (2007): 1-14.
(143) Origen, Homelia in Ezechielem, VI, 8.
(144) Thánh Bernard thành Clairvaux, Commentary on the Song of Songs, 26, 5.
(145) Thánh Augustinô, Expositions on the Psalms, 87, 3. Bản dịch này là của Readings from St. Augustine on the Psalms, do Joseph Rickaby hiệu đính (New York: Benzinger Brothers, 1925), 1925), 143.
(146) Đức Bênêđíctô XVI, Spe Salvi. Bản tiếng Anh trên trang mạng của Tòa Thánh: http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_en_20071130_spe-salvi_en.html