VÀO ĐỀ

Chúng ta thường nghe nói: “MÙA CHAY LÀ MÙA ĂN CHAY, CẦU NGUYỆN & BỐ THÍ!” Đúng quá còn nói gì hơn được! Thật ra là ăn chay, cầu nguyện và bố thí là những hành động mang tính tôn giáo vừa bình dân lại vừa siêu việt của tất cả các tôn giáo, nhất là trong các tôn giáo lớn như Kitô giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Vì thế đối với Kitô hữu, không chỉ Mùa Chay mới là mùa ăn chay, cầu nguyện và bố thí, mà suốt đời, người tín hữu phải biết ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Nếu chúng ta lật lại các trang của bốn Sách Phúc Am, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hơn nữa, chủ đề “từ bỏ” là chủ đề trung tâm của Giáo lý Phúc Am cũng như con đường thập gía chiếm một tỷ lệ quan trọng trong các sách Phúc Âm.

Ăn chay, cầu nguyện và bố thí tự nó đã có đầy đủ ý nghĩa nhân bản và Kitô giáo. Nhưng mỗi thời, mỗi nơi việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí lại có thêm ý nghĩa, mầu sắc, động lực mới. Mùa Chay phải là thời gian cao điểm của ăn chay, cầu nguyện và bố thí của các môn đệ muốn theo chân Đức Kitô Giêsu. Vậy thử tìm hiểu xem trong Giáo hội, người thời trước và người thời nay ăn chay cầu nguyện và bố thí như thế nào?

I. ĂN CHAY XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI

1.1 Ăn chay thời xưa:

Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là tu sĩ các Dòng khổ tu, từ thời Trung Cổ trở về trước, thì ăn chay chủ yếu là nhịn ăn, nhịn uống, nhịn mặc. Vì thế mà trong Mùa Chay không có thịt, rượu trên bàn ăn (thịt rượu là những thứ rất quan trọng đối với người Phương Tây và trong các xứ lạnh). Người ta cũng mặc không đủ ấm để được chịu lạnh, thậm chí người ta còn mặc những chiếc áo có kim, có gai bên trong, để mỗi lần di chuyển hay cử động, các kim, gai ấy đâm vào da thịt làm cho người mang áo phải đau đớn khó chịu. Ngoài ra còn có cách thực hành gọi là “đánh tội” là lấy giây da có cột những cục sắt hay chì nhỏ ở các đầu giây quất vào thân thể mình hay thân thể người cùng đánh tội với mình, cho đến khi máu chảy, thịt mềm mới thôi. Vì thế mà “ăn chay đánh tội” thường được gắn liền với nhau. Đó là cách hãm mình ép xác của người thời xưa. Người ta quan niệm rằng: đối với thân xác, càng cưng chiều nó bao nhiêu thì càng làm hư nó bấy nhiêu, hay đúng hơn là càng để nó làm hư mình bấy nhiêu, vì thân xác là một tên nội công nguy hiểm, sẵn sàng liên minh với ma quỉ và hùa theo thế gian để giết hại đời sống tâm linh của con người. Đó là động cơ thứ nhất của việc ăn chay hãm mình. Còn động cơ thứ hai là người ta tìm mọi cách để được nên giống Chúa Kitô Giêsu trong Mùa Thương Khó, nên một đàng chấp nhận mọi nỗi khổ đau, một đàng tự sáng tạo ra những hình thức gây đau khổ cho bản thân mình. Nói tóm lại, cách ăn chay của người thời xưa có ý nghĩa rất thánh thiện và cao vời, tuy cách thực hiện xem ra không còn mấy phù hợp với người thời nay nữa.

1.2 Ăn chay thời nay:

Nếu hôm nay chúng ta gợi ý cho giáo dân, nhất là cho giới trẻ, ăn chay, hãm mình, ép xác, đánh tội theo cách mà cha ông chúng ta đã thực hành trước đây thì e rằng chẳng mấy người nghe theo chúng ta. Vậy chúng ta phải đề nghị với họ điều gì? Tuy ngày nay giá trị của thân xác con người được tôn trọng và đề cao hơn thời xưa, nhưng quan niệm của người thời xưa - là càng cưng chiều thân xác bao nhiêu càng dễ trở thành nô lệ cho thân xác bấy nhiêu - vẫn còn nguyên gía trị nhân bản và tu đức. Ngày nay trong đời sống tâm linh, người ta cũng vẫn nhấn mạnh đến việc nên giống Chúa Kitô, nhưng không chỉ trong việc chịu đau khổ (nặng tính thụ động) mà trong cả suy nghĩ, tâm tình và hành động yêu thương đối với con người. Vì thế mà người Kitô hữu dấn thân chống tội ác, bảo vệ công lý, bênh vực người nghèo hèn, bị áp bức, bóc lột, loại trừ dưới mọi hình thức.

Vậy ăn chay thời nay cũng vẫn là việc bớt ăn, bớt uống và bớt mặc. Nhưng không chỉ có thế. Vì cuộc sống con người ngày nay trải rộng trong nhiều lãnh vực nhất là trong hai lãnh vực chính là lao động và giải trí. Nên ăn chay thời nay có thể là hy sinh không xem một trận đá bóng trên truyền hình; không xem một phim trong rạp hay tại nhà, vì đó là phim bạo lực, là phim sex; không tò mò mở những website bạo lực hay sex để giải trí. Thay vào việc tiêu phí thời gian vào những chuyện vô bổ hay độc hại ấy, người tín hữu tìm đọc sách báo lành mạnh hay đạo đức để nâng cao đời sống văn hóa và tâm linh.

Còn một khác biệt nữa là khoản tiền tiết giảm do bớt ăn, bớt uống, bớt mặc ấy không phải để chủ nó chi dùng cho việc khác hay lúc khác mà là để dành cho các chương trình phục vụ con người: như xoá đói giảm nghèo, chia sẻ với các cháu mồ côi, khuyết tật, người già neo đơn, nạn nhân HIV-AIDS trong các trại nuôi dưỡng hay trong các gia đình. Vì thế mà trong giáo phận Sàigòn, từ ngày Đức Cha Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục lãnh đạo giáo phận đến nay, năm nào mỗi gia đình cũng nhận được của Đức Tổng Giám mục và nay Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn một lá thư mục vụ, trong đó có phần kêu gọi giáo dân bớt chi tiêu trong Mùa Chay, dành khoản tiền tiết giảm giúp cho các chương trình bác ái của giáo phận như trả chi phí mổ mắt cho người mù được sáng, xây nhà tình thương cho người nghèo, hỗ trợ các lớp học tình thương của các cháu con nhà nghèo không đủ khả năng đến trường, ở Thành phố hay ở các địa phương khác.

Bớt ăn, bớt uống, bớt mặc ngày nay cũng mang một dáng dấp mới. Báo Phụ Nữ Chủ nhật của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thành phố số mới đây (số 6, ngày 15-2-2004) đã lấy một chuyên đề rất thời sự: “TỆ NẠN ĂN NHẬU” Các bài đăng trong số báo này muốn cho mọi người thấy tệ nạn ăn nhậu tàn phá khủng khiếp như thế nào về mặt đạo đức & nhân cách con người, đặc biệt của những người có chức, có quyền và có tiền trong xã hội Việt Nam hiện nay. Sau tệ nạn ăn nhậu của một số ít người thì thói ham tiệc tùng của số đông người hơn cũng đáng chúng ta quan tâm. Nói chung từ mấy năm nay đời sống kinh tế được cải thiện, người ta càng muốn thể hiện hoàn cảnh và khả năng mới về kinh tế của mình bằng những bữa tiệc linh đình và hoang phí: mừng sinh nhật, mừng ngày thành hôn, mừng bổn mạng, kỷ niệm ngày mở công ty, kỷ niệm ngày nhậm chức…. Tự nó, tiệc tùng là rất tốt vì đó là cơ hội quí báu để họ hàng bà con và bạn bè kết thân hơn với nhau. Nhưng tiệc tùng một cách chừng mực, một cách tiết kiệm cũng là điều nên thực hiện. Hoang phí quá là có lỗi với bao nhiêu người còn không đủ ăn, đủ mặc chung quanh ta, trong xã hội ta. Vậy thì đối với một số người, một số gia đình việc bớt ăn, bớt uống, bớt nhậu, bớt tiệc tùng… là việc cần làm, vừa dành tiền làm phúc, vừa bớt thói huênh hoang, tự mãn, đua đòi theo thế gian. Còn đối với một số người khác, nhất là với các bà các cô, thì ăn chay hãm mình có lẽ sẽ là bớt shopping, bớt chạy theo thời trang, hàng hiệu, bớt những lần đến tiệm để chăm sóc mái tóc, hàm răng, nước da chăng?

II. CẦU NGUYỆN XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI

2.1 Cầu nguyện thời xưa:

Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là tu sĩ các Dòng khổ tu, từ Thời Trung Cổ trở về trước, thì việc cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh, đi chặng đàng thánh giá, đọc sách GƯƠNG CHÚA GIÊSU. Đọc kinh thì chủ yếu là lần chuỗi Mân Côi (150 kinh) hoặc đọc Thánh Vịnh (cũng 150 Thánh Vịnh). Những thực hành trên xem ra không còn thu hút người có đạo thời nay bao nhiêu. Một phần vì người ta không có nhiều thời giờ như người xưa, một phần vì người ta thấy nhàm chán do những cách ấy không có tính cá vị, riêng tư (per-sonnal). Phải đề nghị cái gì mới?

2.2 Cầu nguyện thời nay:

Con người ngày nay, nhất là người trẻ, ưa chuộng những điều mới lạ, trân trọng những điều họ tự khám phá hay sáng tạo ra, gắn bó với những điều có liên quan trực tiếp và thiết thân với họ. Ap dụng vào lãnh vực cầu nguyện, có lẽ đại đa số giáo dân ngày nay, nhất là người trẻ, cần được các linh mục, tu sĩ và huynh trưởng giúp đỡ, để họ biết cách cầu nguyện cá nhân (personnal), tự phát (spontaneus) biết cách đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện (lectio divina), biết cách tự khám phá (một mình hay trong nhóm nhỏ) ý nghĩa và sứ điệp của từng đoạn Lời Chúa và nhất là biết cách cá nhân hóa (personnalization) hay hiện tại hóa (actualization) sứ điệp ấy trong cuộc sống của họ. Có như thế thì họ mới cảm nghiệm được niềm vui khám phá (Joy of discovery in Bible study).

Một khía cạnh khác rất quan trọng trong cầu nguyện của người thời nay là sự thinh lặng hay trầm lắng nội tâm mà người giáo dân, nhất là người trẻ rất cần. Chân phước Têrêxa thành phố Calcutta đã viết về sự thinh lặng này như sau:

Tôi luôn bắt đầu việc cầu nguyện bằng sự thinh lặng. Thiên Chúa nói trong sự thinh lặng của trái tim. Chúng ta cần lắng nghe, vì điều quan trọng không phải là điều chúng ta nói, mà là điều Thiên Chúa nói với chúng ta và qua chúng ta

Thường thì người giáo dân Việt Nam không được hướng dẫn đến nơi đến chốn để biết sống những giây phút thinh lặng với Chúa, với bản thân mình. Thinh lặng thay vì là những phút giây “đầy ắp” đối với người có đời sống nội tâm thâm sâu, thì lại là những khoảnh khắc “trống rỗng”, “vô vị” đối với đại đa số người giáo dân.

Một yếu tố đáng lưu ý khác nữa là lời cầu nguyện của chúng ta ngày nay vừa phải gắn kết và tiếp nối những lời cầu xin của Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa làm người, vừa phải mang tính chất thời sự (actual) nghĩa là lời cầu nguyện của chúng ta phải phản ánh cuộc sống chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của chúng ta và của những người có liên quan với chúng ta. Nói cách vắn gọn, lời cầu nguyện ấy phải là lời cầu nguyện của địa phương này, của ngày hôm nay (hic et nunc) chứ không phải là lời cầu trống trống chung chung, chẳng gắn gì với mặt đất mà chúng ta đang đặt chân. Vì thế, nếu có đọc kinh thì không nên tham lam đọc cho nhiều. Người ta đã nói một cách khôi hài là người giáo dân Việt Nam rất giỏi xay kinh, xay hết kinh này đến kinh khác. Phải miệng đọc, lòng suy và có thêm hành động dấn thân sau đó, chứ chỉ đọc không thì không ích lợi bao nhiêu và không đủ sức biến đổi cuộc đời mình và cuộc sống chung quanh.

Một yếu tố khác mà người giáo dân Việt Nam cần được hướng dẫn về cầu nguyện là phải biết rằng: cầu nguyện không chỉ là xin ơn, mà còn là chúc tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban chung, ban riêng cho chúng ta. Cầu nguyện còn là sám hối, quyết tâm và dấn thân hành động. Nguyên trong việc xin ơn, người tín hữu cũng không chỉ xin các ơn thiêng liêng hay vật chất cho mình và gia đình mình, mà còn phải biết xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, Triều Đại hay Nước Cha được mở rộng trong các tâm hồn, Ý Cha được thực hiện khắp nơi nơi. Ít người giáo dân Việt Nam hiểu thấu đáo lý do tại sao trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã đặt 3 ý cầu ấy trước các ý cầu cho các nhu cầu (vật chất, tinh thần) của con người (Mt 6,9-15).

III. BỐ THÍ XƯA & NAY TRONG GIÁO HỘI

3.1 Bố thí thời xưa:

Nếu chúng ta nhìn lại cách sống Mùa Chay của người Kitô hữu: linh mục, tu sĩ và giáo dân, nhất là của tu sĩ các Dòng khổ tu, từ Thời Trung Cổ trở về trước, thì việc làm phúc bố thí luôn là một việc làm không thể thiếu. Nhà Dòng, nhà xứ, nhà giáo dân đạo đức nào cũng có sẵn một thùng gạo để giúp đỡ những người qua đường hay những người nghèo đói túng thiếu trong vùng, trong xóm. Tinh thần Bác Ai tuyệt vời ấy thời nào cũng đáng biểu dương. Có điều ngày nay người ta cảm thấy không được thoải mái khi phải nói/nghe đến hai chữ bố thí, vì nói như vậy sẽ bị coi là khinh thường, thậm chí là xúc phạm đến phẩm gía con người.

3.2 Làm việc Từ Thiện, Bác Ái thời nay:

Vì thế chúng ta nên giữ lại tinh thần là cốt lõi của thực hành mà chỉ cần thay đổi từ ngữ là ổn. Vậy ta sẽ không gọi là việc bố thí nữa mà sẽ gọi là việc từ thiện, bác ái cho dễ nghe và dễ chấp nhận hơn. Thật vậy giúp “cho kẻ đói, ăn”, “cho kẻ khát, uống”, “cho kẻ rách rưới, ăn mặc”… chính là những cách thương người mà cha ông ta đã tóm gọn trong kinh “thương người có mười bốn mối, thương xác bẩy mối, thương linh hồn bẩy mối.”

Ngày nay xã hội công nghiệp hóa, nên người ta không cần phải để dành một thùng gạo cho người nghèo trong góc nhà, mà người ta có thể “lập trình” (make plan) một khoản tiền dành cho người nghèo. Chúng ta có nên trích 2%, 5% hay 10% thu nhập hàng tháng, lợi nhuận hàng năm như những người anh em Tin Lành để đóng góp vào quĩ Từ Thiện Bác Ai của giáo xứ, giáo phận không? Vào thời Việt Nam mới mở cửa, tôi đã nghe nói có một số giáo dân người Á Châu đã dâng cúng cho Giáo hội Việt Nam tháng lương đầu tiên mà họ đã lãnh được từ công việc làm ở Việt Nam. Thiển nghĩ các nhà kinh doanh, dịch vụ, sản xuất, các bác sĩ, kỹ sư, giáo viên công giáo Việt Nam cũng có thể làm như thế. Trong một số nhà thờ ở Hoa Kỳ tôi thường thấy ở các hàng ghế có sẵn những bao thư và mảnh giấy để giáo dân ghi khoản tiền mình dâng cúng cho nhà thờ và tôi đã tận tai nghe một linh mục chánh xứ người Mỹ đề nghị với giáo dân là nên dùng bao thư và tờ giấy ấy chứ không nên bỏ tiền mặt (cash) vào giỏ xin tiền trong thánh lễ. Cái lợi có ý nghĩa nhất là giáo xứ biết được sự đóng góp của từng người, từng gia đình công giáo cho giáo xứ; đồng thời mỗi người giáo dân cũng ý thức hơn về bổn phận của mình phải đóng góp vào việc duy trì và phát triển giáo xứ hoặc vào các công việc từ thiện, bác ái của giáo xứ, giáo phận.

Ngoài ra cách giúp người nghèo ngày nay cũng mang một sắc thái mới, sâu sắc và “tận căn” hơn. Người ta nói ví von: “Giúp cần câu có giá trị hơn cho con cá” Cho con cá cũng là tốt trong khi người ta đang đói, đang khổ, đang thiếu. Nhưng sau khi ăn hết con cá ấy thì người nghèo vẫn nghèo, người thiếu ruộng vẫn thiếu ruộng, người thất nghiệp vẫn thất nghiệp. Vì thế cách giúp người hiệu quả hơn là giúp cần câu, tức giúp phương tiện, giúp vốn, tay nghề…. để người nghèo tự mình thoát ra khỏi cảnh nghèo, cảnh khổ bấy lâu nay giam hãm, khống chế họ.

IV. SỨ ĐIỆP MÙA CHAY NĂM 2004 CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

Riêng trong Mùa Chay 2004 này thì chúng ta không thể không nhắc đến Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Sứ điệp này đã được Đức Hồng Y Paul Josef Cordes, Chủ tịch Hội đồng “Đồng Tâm” (Cor Unum) của Toà Thánh giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh lúc 11 giờ 30 ngày 29 tháng 1 năm 2004 vừa qua. Chủ đề của Sứ điệp ấy là:

Ai đón tiếp một trong những trẻ nhỏ này nhân danh Thày, là đón tiếp Thày” (Mt 18,5).

Trong truyền thống ngàn đời của Giáo hội, trẻ nhỏ vẫn được hiểu là các trẻ em và cũng được hiểu là những người nghèo hèn nhất trong xã hội. Chúa Giêsu đã yêu thương hai hạng người này cách đặc biệt và đã mời gọi các môn đệ Người hãy làm y như vậy. Vì thế mà trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay, Đức Gioan Phaolô II trình bày khá đậm né về trẻ nhỏ và về người nghèo:

* Về các trẻ nhỏ, Đức Thánh Cha nói lên những đau khổ mà các em phải chịu: “đau khổ vì xung đột và bạo lực, vì thiếu lương thực và nước uống, vì bị bắt buộc phải bỏ xứ ra đi, và vì biết bao hình thức bất công khác hiện có trên thế giới …. Có những trẻ nhỏ bị thương tích sâu xa vì bạo lực của người lớn: những lạm dụng phái tính, những bắt buộc trẻ mãi dâm, việc dính vào nạn buôn bán và dùng thuốc phiện; những trẻ nhỏ bị bắt buộc lao động hoặc bị bắt đi lính để đánh trận; những trẻ vô tội phải luôn chịu ảnh hưởng tiêu cực do bởi gia đình tan rã; những trẻ nhỏ bị dẫn dụ vào việc buôn bán xấu xa những cơ phận và buôn bán người. Và phải nói gì hơn nữa về thảm kịch của bệnh liệt kháng với những hậu quả tàn phá tại Phi Châu? Người ta nói đến con số hàng triệu người bị lây nhiễm tai ương này và biết bao trẻ đã bị lây bệnh ngay từ lúc mới sinh ra. Nhân loại không thể nhắm mắt trước thảm kịch đáng lo ngại ấy” (số 3).

* Về người nghèo, Đức Gioan Phaolô II viết: “Bên cạnh những trẻ nhỏ, Chúa Giêsu đặt “những anh chị em thấp hèn nhất”; đó là những kẻ khốn cùng, những người nghèo, những kẻ đói khát, những người ngoại kiều, những kẻ không áo mặc, những bệnh nhân, những anh chị em bị giam tù. Khi tiếp đón và yêu thương họ, hoặc ngược lại khi đối xử lãnh đạm và từ chối họ, chúng ta nói lên thái độ của mình đối với Chúa, bởi vì Chúa hiện diện đặc biệt nơi những con người đó” (số 1)

Ở cuối sứ điệp, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình Mùa Chay, được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện sốt sáng, bởi việc đền tội và chú tâm trợ giúp những anh chị em túng thiếu. Một cách đặc biệt ước chi Mùa Chay trở nên dịp thuận tiện để dấn thân nhiều hơn vào việc chăm sóc cho những nhu cầu của trẻ nhỏ, trong chính gia đình chúng ta và trong xa hội nói chung, bởi vì các trẻ nhỏ là tương lai của nhân loại” (số 4).

KẾT LUẬN

Ăn chay, cầu nguyện và làm việc từ thiện bác ái là những việc chúng ta phải thực hành suốt cả đời và nhất là trong Mùa Chay. Các việc ấy đều phải được bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng vì yêu thương, đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Các việc ấy đều xuất phát từ động cơ cao cả là noi gương bắt chước Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn và chỉ thị của Người.

Ước mong bài chia sẻ này giúp quí anh chị bước vào Mùa Chay 2004 một cách ý thức và dấn thân hơn.