GIÁO HỘI VIỆT NAM VÀ SỨ MẠNG PHỤC VỤ CON NGƯỜI
TRONG LĨNH VỰC BÁC ÁI XÃ HỘI 50 NĂM QUA

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký UBBAXH

Các bạn độc giả thân mến,

Uỷ ban Bác ái Xã hội xin gửi các bạn bài “Giáo hội Việt Nam và Sứ mạng phục vụ con người trong lĩnh vực bác ái xã hội 50 năm qua” và mời các bạn góp ý kiến để chúng ta cùng tìm ra những đường hướng hoạt động tốt nhất cho Giáo hội Việt Nam. Đề tài này đã được một thân hữu phát lên từ ngày 2-4-2009 nhưng chưa hoàn chỉnh. Đây mới là bài chính thức được UBBAXH/HĐGMVN gửi tới các bạn.

Chúng tôi rất mong ước các bạn cùng chúng tôi soạn ra những kỹ năng sống trong phần thứ 3 của bài này để đào tạo lối sống mới cho người tín hữu cũng như cho đồng bào Việt Nam.

Xin chân thành cám ơn các bạn và cầu chúc các bạn tràn đầy niềm vui và ân phúc của Chúa Phục Sinh.

Mọi liên lạc xin gửi về địa chỉ: UBBAXH-Caritas VN, 72/12 Trần Quốc Toản, P.8, Q.3, TP. HCM, ĐT: (08) 38208716, Email: ubbaxh_vn@hcm.vnn.vn

NHẬP ĐỀ

Kể từ Công đồng Vatican II (1965) đến nay, hoạt động bác ái xã hội (BAXH) của Giáo Hội toàn cầu đã có nhiều đổi mới, nhất là từ khi Giáo Hội công bố học thuyết xã hội của mình qua cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, xuất bản năm 2004. Hoạt động này không còn bị coi như một hành động phụ thêm vào đời sống bí tích phụng tự, cũng không còn mang tính cách từ thiện nhưng chính “là cách thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi” (x. ĐTC Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus Caritas est, số 19). Hơn nữa, sứ mạng phục vụ con người chính là thể hiện lại sứ mạng phục vụ của Đức Giêsu Kitô: “Con người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo phẩm Giáo hội Việt Nam, chúng ta được mời gọi nhìn lại đôi nét về sứ mạng phục vụ con người trong lĩnh vực xã hội của Giáo hội Việt Nam (GHVN), trong thời gian vừa qua để có thể định hướng hoạt động này trong thời gian tới khởi đi từ hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.

Bài trình bày gồm 3 phần chính sau đây:

- Sơ lược hoạt động BAXH của GHVN từ 1960-2009
- Tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay
- Định hướng hoạt động BAXH trong thời gian tới

1. SƠ LƯỢC HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM TỪ 1960-2009

Chúng ta chọn thời điểm 1960 vì ngày 24-11-1960 ĐTC Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Các giáo phận hiệu toà từ 350 năm qua (1659) nay trở thành chính toà. Nhưng về mặt xã hội, thời điểm quan trọng có lẽ phải tính từ ngày 20-7-1954 với Hiệp định đình chiến tại Geneva, đất nước Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc theo chế độ Xã hội Chủ nghĩa, do Đảng Cộng Sản nắm chính quyền; miền Nam theo chế độ Tư bản. Sự đối kháng giữa hai ý thức hệ khiến dân tộc bị phân hoá, đất nước bị tàn phá nặng nề trong 2 cuộc chiến tranh với thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) đã gây nên bao thảm cảnh xã hội cho đến khi đất nước được thống nhất vào năm 1975. Chúng ta có thể chia giai đoạn này thành 3 thời kỳ:

o Từ 1960-1975: Hoạt động BAXH khác nhau tại hai miền Nam - Bắc.
o Từ 1975-1990: Thời kỳ khép kín và hoạt động BAXH âm thầm.
o Từ 1990-2010: Thời kỳ cởi mở và hoạt động BAXH công khai.

1.1. TÌNH TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI TRONG THỜI KỲ 1960-1975

1.1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam

Cuộc chiến tranh Pháp-Việt với mệnh lệnh “tiêu thổ kháng chiến” và chiến thuật “vườn không nhà trống” đã khiến cho đất nước Việt Nam kiệt quệ: nhà cửa, cầu cống, đường xá, đồng ruộng đều bị tàn phá, bỏ hoang để cho quân địch không thể sử dụng trong cuộc chiến. Hàng triệu người chết đói (năm Ất Dậu, 1945), hàng trăm ngàn người tàn tật, mồ côi, goá bụa cần cứu giúp.

Hiệp định Geneva về Đông Dương lại dẫn đến cuộc di cư của khoảng 800.000 người, trong đó có 650.000 người Công giáo, từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, làm cuộc sống của người dân ở cả hai miền có những xáo trộn và thay đổi lớn lao.

Hai miền Nam Bắc trở thành tuyến đầu của hai phe Cộng Sản và Tư Bản. Sự đối kháng giữa hai ý thức hệ này khiến dân tộc bị phân hoá, chia rẽ và thậm chí giết hại lẫn nhau. Cuộc chiến tranh tương tàn kéo dài từ 1954 đến 1975 gây nên những thiệt hại gấp nhiều lần so với cuộc chiến Pháp-Việt. Hơn 1 triệu người chết, 2,5 triệu người goá bụa, trên 2 triệu trẻ em mồ côi và hơn 1 triệu thương phế binh. Hàng triệu tấn bom đạn và hàng trăm ngàn tấn chất độc rải xuống đồng ruộng, rừng cây làm nghèo tài nguyên thiên nhiên và gia tăng tình trạng nghèo đói của con người.

Chiến tranh còn tàn phá tâm hồn người Việt nặng nề hơn nữa khi làm cho người ta luôn sống trong sợ hãi, nghi ngờ, đánh mất niềm hy vọng vì cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Chiến tranh làm cho con người trở nên tàn ác, dối trá, lọc lừa vì thủ đoạn tuyên truyền của cả hai bên khiến cho sự thật bị bóp méo và lương tâm bị sai lạc. Tình trạng lo sợ chiến tranh, chết chóc dẫn đến tâm lý yêu cuồng, sống vội của một bộ phận thanh niên và những tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, phá thai, tự tử… như nói lên sự đổ vỡ ngay trong cấu trúc tâm hồn người Việt còn nặng nề hơn cả những thiệt hại về vật chất.

Chính phủ hai miền đã lập ra nhiều tổ chức để giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật và các nạn nhân chiến tranh, nạn nhân xã hội. Người dân Việt Nam, nhất là các tín hữu Công giáo, với tinh thần “lá lành đùm lá rách” cũng đã tích cực đóng góp rất nhiều cho công tác xã hội.

1.1.2. Giáo hội Việt Nam

a. Miền Bắc

Hoạt động BAXH công khai của giáo hội miền Bắc trong thời kỳ này không được tổ chức vì nhiều nguyên nhân như sự nghi ngại của chính quyền, thiếu các phương tiện, thiếu nhân sự chuyên môn do nhiều linh mục, tu sĩ đã di cư vào miền Nam. Sau cuộc vận động cải cách ruộng đất (1955-1956), nhằm đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến, hầu như toàn bộ tài sản của các giáo phận, giáo xứ như ruộng đất, vườn tược bị Nhà Nước tịch thu và các cơ sở BAXH như viện mồ côi, nhà dưỡng lão, trường học bị tiếp quản, phải ngưng hoạt động. Do nghi ngờ về lập trường chính trị của người Công giáo, nhiều hoạt động bị theo dõi chặt chẽ nên tín hữu chỉ tập trung vào việc dự lễ, đọc kinh.

Tuy nhiên, trong thời kỳ này, nhiều hoạt động BAXH tự nguyện và âm thầm vẫn được thực hiện trong nội bộ xứ đạo hay trong giáo phận như nuôi dưỡng các trẻ mồ côi, tàn tật, giúp đỡ những gia đình nghèo khổ, neo đơn, dạy học cho những người mù chữ. Tổng kết về giáo dục và các cơ sở xã hội: giáo phận Hải Phòng có 40 trường nam với 4.865 học sinh, 29 trường nữ với 2.900 học sinh và 2 cơ sở từ thiện với 160 người; Bắc Ninh có 4 cơ sở từ thiện; Phát Diệm có 42 trường nam với 12.465 học sinh và 42 trường nữ với 6.233 học sinh, 2 cơ sở từ thiện với 25 người; Vinh có 110 trường, 9 cơ sở từ thiện (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 180-205).

b. Miền Nam

Do các giám mục miền Nam được thôi thúc bởi tinh thần dấn thân của Công đồng Vatican II mới được tổ chức tại Rôma từ 1962-1965, cũng như chính quyền tôn trọng tự do tôn giáo nên hoạt động BAXH ở miền Nam mạnh mẽ và phong phú hơn:

- Năm 1965, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) đã thành lập tổ chức Caritas Việt Nam và Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm chủ tịch. Từ năm 1966, Caritas được thành lập tại các giáo phận miền Trung (5 giáo phận), miền Nam (6 giáo phận) để trực tiếp giúp đỡ những người nghèo, các nạn nhân xã hội, nạn nhân thiên tai, nạn nhân chiến tranh. Mạng lưới hoạt động của Caritas lan rộng tới tận các giáo xứ với các chương trình như cấp dưỡng sữa bột và bánh mì cho học sinh tiểu học, cấp học bổng cho học sinh trung học. Nhiều cơ sở xã hội được các dòng tu xây dựng để nuôi dưỡng các trẻ mồ côi tàn tật (như Ttrường Câm Điếc Lái Thiêu (Bình Dương), các người già yếu, các bệnh nhân phong cùi [trại phong Bến Sắn (Bình Dương), Thanh Bình (Thủ Thiêm), Di Linh (Đà Lạt)]. Tổ chức Caritas Việt Nam ở Trung ương hay ở giáo phận thường phối hợp với các dòng tu này trong công tác BAXH. Tổng kết về các cơ sở xã hội của miền Nam: có 435 cơ sở xã hội (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 506).

- Hoạt động BAXH mở rộng trên phạm vi giáo dục: hầu như xứ đạo nào cũng có trường tiểu học, ở vùng đông dân cư có trường trung học cơ sở (đệ nhất cấp), trung học phổ thông (đệ nhị cấp) thậm chí cả đại học như ở Đà Lạt (Viện Đại học Đà Lạt), Sài Gòn (Đại học Minh Đức). Nhiều linh mục, tu sĩ dạy trong các trường Công giáo cũng như các trường của Nhà Nước. Các trẻ em, sinh viên nghèo hiếu học thường nhận được học bổng từ các tổ chức của Giáo Hội. Riêng tại Sài Gòn, Giáo hội Công giáo có hơn 300 trường tư thục lớn nhỏ từ cấp mẫu giáo đến đại học. Một số dòng tu mở các trường tư thục rất nổi tiếng như Trường Taberd, La San Đức Minh ở TP.HCM của Dòng La San, Trường Dạy Nghề của Dòng Salesien Don Bosco ở Thủ Đức, Trường Mẫu giáo ở TP.HCM của Dòng Phaolô thành Chartres, Trường nữ Mai Anh ở Đà Lạt của Dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn, Trường Couvent des Oiseaux ở Đà Lạt của Dòng Đức Bà… Các trường này dù mở ra cho các học sinh có điều kiện khá giả nhưng vẫn luôn có chỗ cho các học sinh nghèo, nhất là những em hiếu học. Nhiều giáo phận miền Bắc cũng mở các trường tư thục ở miền Nam như một phương cách để giúp cho anh chị em đồng hương, giúp giáo phận mẹ và hoạt động bác ái. Các trường này có mặt ở Sài Gòn hay ở các vùng có đông người di cư như ở Biên Hoà, Đồng Nai, Gia Kiệm, Cái Sắn của Kiên Giang.

Tổng kết về giáo dục năm 1961-1962, Giáo hội Công giáo miền Nam có 145 trường Trung học với 62.324 học sinh và 1.060 trường tiểu học với 209.283 học sinh (riêng tại giáo phận Sài Gòn có 56 trường trung học với 30.748 học sinh và 338 trường tiểu học với 91.870 học sinh) (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 506).

- Năm 1972, tổ chức COREV được thành lập. Tổ chức này được gọi là Hội Hợp tác để Tái thiết Việt Nam (Cooperation pour la Réédification du Vietnam), do Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch Caritas Việt Nam, đặc trách. Hội gồm các thành viên Caritas Việt Nam, hội Hồng Thập Tự VN, Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam, Catholic Relief Services của Hoa Kỳ… Hội đã giúp đỡ các nạn nhân chiến tranh ổn định đời sống trong những làng định cư mới, như các làng Đồng Tâm ở Bình Thuận. Caritas Việt Nam có nhiều dự án tái thiết và phát triển cộng đồng được các tổ chức Caritas quốc tế giúp đỡ. Caritas Việt Nam có Văn phòng Trung ương đặt tại toà nhà 4 tầng ở đường Trần Hoàng Quân (nay là số 1 Nguyễn Chí Thanh, Q.5) với khoảng 10 nhân viên làm việc. Ngoài ra, Caritas còn có nhiều cán sự xã hội làm việc ở các Caritas giáo phận do Trường Cán sự Xã hội Quốc gia phối hợp với Dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn đào tạo.

1.2. TÌNH TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI TRONG THỜI KỲ 1975-1990

1.2.1. Xã hội Việt Nam

Sau khi đất nước thống nhất, hàng triệu người trước đây đã bỏ làng quê, tìm sống yên ổn trong các thành thị, nay muốn trở về quê hương để làm ăn sinh sống đã tạo nên nhiều thay đổi ở một số vùng nông thôn. Hơn nữa, Nhà Nước muốn chuyển một bộ phận dân chúng trong những tỉnh thành có mật độ dân số cao như TP.HCM, Hà Nội, Bùi Chu, Nam Định, Ninh Bình đến những vùng thưa vắng như Cao Nguyên, Tây Nguyên để phát triển kinh tế. Đây là chính sách di dân đến các vùng kinh tế mới.

Ngoài ra, do chính sách nhân đạo của cộng đồng quốc tế cũng như do những cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam – Trung Quốc (1979) và Việt Nam – Campuchia (1978-1979), nhất là do những cuộc cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản… đã tạo nên một làn sóng di tản lớn với hàng trăm ngàn người Việt đi đến nhiều nước trên thế giới. Nhiều người đã bỏ tất cả tải sản, người thân để ra đi bất chấp những nguy hiểm lớn lao như bị đói khát, hãm hiếp, bão tố, cướp bóc… trên đường vượt biên, nhất là bằng đường biển (họ là những “thuyền nhân” Việt Nam). Những ký ức hãi hùng đó in đậm trong tâm hồn người Việt khiến họ giữ mãi lòng hận thù cho đến hôm nay. Đó cũng là những vết thương xã hội cần chữa trị bằng tình yêu của Chúa Kitô.

Nền kinh tế tập trung, bao cấp do Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa hoạch định không thành công (x. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ V, tập 1, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1982, tr. 38; Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử lớp 12, tập 2, NXB Giáo Dục, tr. 188) đã dẫn đến tình trạng nghèo khổ, khoa học kém phát triển, Việt Nam bị cô lập đối với thị trường thế giới. Hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề: gần 40% dân chúng ở trong tình trạng nghèo đói, trên 5 triệu người tàn tật, mồ côi, 2 triệu người goá bụa nghèo khổ. Số người thất nghiệp và không được đào tạo tay nghề rất lớn. Trong khi đó, đồng ruộng bị bỏ hoang vì bom mìn, vì chất độc màu Da Cam, vì thiếu phân bón, giống tốt đã dẫn đến tình trạng thiếu lương thực trong vài năm đầu của thời kỳ này: dân chúng phải ăn độn khoai sắn, bo bo.

Nhiều tệ nạn xã hội tồn tại và phát triển hơn cả thời kỳ chiến tranh như mại dâm, nghiện ngập ma tuý, phá thai. Sự xung đột âm ỉ giữa hai ý thức hệ diễn ra gay gắt trong xã hội, nhất là ở miền Nam. “Những sai lầm, khuyết điểm trong việc lãnh đạo và quản lý đã được Đảng và Nhà Nước nhận ra” (x. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Tạp chí Cộng Sản, số 1, 1987, tr. 117; Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử lớp 12, tập 2, NXB Giáo Dục, tr. 190) và quyết tâm đưa đất nước vào con đường đổi mới qua Đại hội Toàn quốc lần thứ VI của Đảng, họp từ 15-12 đến 18-12-1986. Tuy nhiên, con đường đổi mới này còn lắm chông gai kéo dài cho đến 1990 (x. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 17-27, 50-51; Bộ Giáo dục và Đào tạo, Lịch sử lớp 12, tập 2, NXB Giáo Dục, tr. 195-196).

1.2.2. Giáo hội Việt Nam

GHVN cũng chịu nhiều hậu quả từ những sai lầm, xung đột về ý thức hệ trên đây: nhiều linh mục phải đi học tập; một số dòng tu phải bị giải thể, các cơ sở xã hội, trường học Công giáo được Nhà Nước tiếp quản. Hàng ngàn linh mục, tu sĩ giáo viên trở thành những thợ thủ công làm mành trúc, giỏ mây, nón lá thay vì đứng trên bục giảng. Hoạt động của Caritas Việt Nam bị đình chỉ trên toàn quốc (1976), các cán sự xã hội bàn giao cơ sở cho những người tiếp quản, nhiều trẻ em mồ côi, tàn tật trong các cơ sở đó buộc phải rời cơ sở để bước vào đời. GHVN hầu như không có những hoạt động BAXH chính thức nào trong thời kỳ này.

Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn luôn đồng hành với dân tộc. Các vị lãnh đạo Giáo Hội mời gọi người tín hữu nhận ra ý nghĩa của các biến cố lịch sử để can đảm ở lại và xây dựng đất nước (x. Thư ngỏ của các giám mục thuộc Tổng Giáo phận TP.HCM gửi các tín hữu Công giáo trên thế giới về vấn đề di tản, ngày 3-7-1979). Các tín hữu Công giáo vẫn thực hiện lòng bác ái, tiếp tục cứu giúp những người nghèo đói, bệnh tật, mồ côi, goá bụa qua những hoạt động cụ thể nhưng âm thầm trong phạm vi giáo xứ hay giáo phận. Những lớp học tình thương vẫn được các dòng tu lặng lẽ mở ra để nâng đỡ những học sinh nghèo. Các dòng tu có điều kiện vẫn âm thầm giúp đỡ những di dân nghèo trong các vùng kinh tế mới. Từ 1986, các trường mẫu giáo do các nữ tu phụ trách mọc lên hầu như ở khắp các thành phố lớn để giúp đỡ phụ huynh có điều kiện lao động trong các xí nghiệp, cơ quan cũng như để giáo dục trẻ thơ.

1.3. TÌNH TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI TRONG THỜI KỲ 1990-2010

1.3.1. Xã hội Việt Nam

Sau những biến cố ở Liên Xô và một số nước Đông Âu, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương đổi mới toàn diện trong hệ thống kinh tế xã hội, từ một nền kinh tế quốc dân (tự cung tự cấp) đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế thị trường; từ chính sách Nhà Nước độc quyền trong mọi lĩnh vực đã chuyển sang chủ trương “Nhà Nước và nhân dân cùng làm” trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, y tế, xã hội; từ chủ trương chuyên chế sang chủ trương pháp chế; từ chính sách khép kín chuyển sang chính sách mở rộng đối thoại với các nước trên thế giới.

Kết quả là nền kinh tế Việt Nam có nhiều bước phát triển vượt bậc, từ một nước phải nhập khẩu lương thực đã tiến tới việc xuất khẩu lúa gạo và nhiều mặt hàng nông sản, dệt may, cơ khí… Xã hội đang từng bước thay đổi và hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại là những vấn đề xã hội lớn cần phải giải quyết như sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng, nạn tham nhũng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực, sự trì trệ trong việc cải cách hành chính, nền giáo dục hình thức và thụ động, nhiều tệ nạn xã hội cần giải quyết như nghiện ma tuý, thuốc lá, rượu, phá thai, mại dâm, tai nạn giao thông và nhiều dịch bệnh phải phòng chống như HIV/AIDS, cúm gia cầm, tâm thần, lao phổi…

1.3.2. Giáo hội Việt Nam

Trong tình hình đổi mới của đất nước, chính quyền chủ trương xã hội hoá việc giáo dục. Nhưng các xứ đạo cũng như các tổ chức dòng tu hiện nay chỉ tập trung cho nhà trẻ mẫu giáo và ít quan tâm đến trường học các cấp, một phần do không còn quản lý các cơ sở giáo dục đã có từ trước năm 1975, một phần không còn đủ nhân sự để quản lý các cơ sở ấy. Tuy nhiên, nếu muốn thúc đẩy công cuộc Tin Mừng hoá xã hội, GHVN và cụ thể là các dòng tu, các tổ chức giáo dân nên quan tâm hơn cho công tác giáo dục các cấp, ngay cả cấp đại học, bằng cách chuẩn bị đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ. Cho đến hôm nay, Nhà Nước chỉ cho phép cá nhân người Công giáo chứ chưa cho phép Giáo hội Công giáo mở một trường học nào với tư cách pháp nhân, dù rằng nhiều tổ chức nước ngoài đã đến mở các trường quốc tế ở Việt Nam từ cấp mẫu giáo cho đến đại học. Tổng kết năm 2007, GHVN đang phục vụ tại 883 nhà trẻ, mẫu giáo, lớp học tình thương (x. Bảng Tổng kết các giáo phận năm 2007, Phụ lục, Bảng 20).

Về hoạt động từ thiện, bác ái, người Công giáo, nhất là các tu sĩ, đang điều hành hoặc làm việc tại 123 trạm xá, bệnh viện, 13 trại phong, trung tâm tâm thần, người nghiện ma tuý và nhiễm HIV/AIDS, 169 cơ sở khuyết tật, cô nhi viện, nhà dưỡng lão, 80 trung tâm di dân, lưu xá cho sinh viên học sinh và nhà mở cho các bà mẹ đơn hành (x. Bảng Tổng kết các giáo phận năm 2007, Phụ lục, Bảng 20). Sự tham gia về mặt xã hội như thế là tương đối ít so với nhu cầu xã hội. Trong chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế, người tín hữu Công giáo có nhiều điều kiện dễ dàng hơn để trực tiếp thành lập và quản lý các cơ sở y tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra vẫn là tình trạng thiếu hụt trầm trọng những người có khả năng chuyên môn để làm việc trong các cơ sở đó.

Ở Việt Nam, nhu cầu về công tác từ thiện xã hội rất cao, nhưng nhiều tín hữu Công giáo dường như chỉ nghĩ đến việc đóng góp, giúp đỡ chút ít về vật chất, mà không hiểu được rằng công tác xã hội bao gồm việc thăng tiến con người toàn diện và phát triển cộng đồng nên họ cần được đào tạo kỹ lưỡng để biết tổ chức các hoạt động này cho hiệu quả hơn. Cách đây vài năm, nữ tu Nguyễn Thị Loan, Phó Giám đốc Trại phong Bến Sắn, đã chia sẻ kinh nghiệm về công tác xã hội của các giáo xứ đến thăm các bệnh nhân phong ở đây như sau: “Đoàn nào đến cũng chuẩn bị một bữa ăn, thường là mì xào, bún, kèm theo trái chuối hay một bìa đậu phụ, cộng thêm một bịch đồ dùng gồm bột giặt, khăn lau, kem và bàn chải đánh răng với một phong bì tiền từ 15.000-20.000 đồng. Nhưng, đoàn vừa ra về là nhiều bệnh nhân đã đổ đồ ăn vào thùng rác vì ăn hoài những món đó cũng ngán. Một đầu nậu trong trại thu gom tất cả những quà tặng với giá phân nửa, và nhiều bệnh nhân dùng tiền vừa nhận được để đánh tứ sắc, bài cào. Tuy nhiên, những người đến thăm trại đều vui mừng vì đã được gặp mặt các bệnh nhân và đưa tận tay cho họ đồ cứu trợ. Họ cảm nghiệm mình đang thật sự làm việc bác ái. Thực ra, chỉ những người có trách nhiệm và ở chung với các bệnh nhân mới biết được gia đình người này cần một chậu nhựa để giặt quần áo hay gia đình kia cần tiền đóng phí cho con. Hành động bác ái của nhiều người tín hữu thường tương tự như vậy: họ không quan tâm đến hiệu quả thật sự. Dĩ nhiên, Chúa biết lòng họ và thưởng công cho họ rồi. Nhưng đối với những người làm công tác xã hội, thiết nghĩ cần phải thay đổi kiểu làm từ thiện này”.

Nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đã tham gia vào các lĩnh vực chính trị - xã hội như Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Thanh Niên, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Công đoàn để phục vụ và làm chứng cho Tin Mừng trong các môi trường khác nhau.

Nhiều uỷ ban đã được HĐGM thiết lập để lo các công tác BAXH như UBBAXH (2000), Uỷ ban Gia đình, Uỷ ban Mục vụ Giới trẻ, Uỷ ban Di dân (2005), Uỷ ban Truyền thông Xã hội (2006) với nhiều hoạt động cụ thể và tích cực. Đặc biệt, GHVN vừa được Nhà Nước cho phép tái lập Caritas Việt Nam (7-2008) và mở rộng hoạt động BAXH đến từng giáo phận, giáo xứ.

Rất nhiều những tổ chức tự nguyện của các dòng tu cũng như các cá nhân trong nước cũng như kiều bào Công giáo nước ngoài đã có những hoạt động thiết thực để giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật, các nạn nhân thiên tai trong thời kỳ này.

2. NGHIÊN CỨU TÌNH TRẠNG XÃ HỘI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

Tình trạng xã hội Việt Nam trong vài năm gần đây đã có những biến đổi sâu xa đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể hoạt động cách đúng đắn và hiệu quả theo đường hướng mà Giáo hội Công giáo đã đề ra từ thời Công đồng Vatican II đến nay. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về con người Việt Nam, tình trạng xã hội, và những hoạt động cụ thể của UBBAXH-Caritas Việt Nam trong khoảng thời gian 5 năm (2004-2009).

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐÁNG LƯU TÂM Ở VIỆT NAM

Chúng ta sẽ lược qua tình trạng con người Việt Nam, tình hình xã hội tổng quát ở Việt Nam và một số lĩnh vực nổi bật trước khi bàn đến những lĩnh vực xã hội được 26 giáo phận quan tâm.

2.1.1. Tình trạng con người Việt Nam

Muốn thay đổi và phát triển xã hội Việt Nam, chúng ta phải quan tâm nghiên cứu kỹ lưỡng con người Việt Nam hiện đại để thấy rõ những mặt mạnh và yếu. Nhà Nước đã giao cho Viện Khoa học Xã hội Việt Nam nghiên cứu một chương trình trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 2006-2010 là: “Xây dựng con người và phát triển văn hoá Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”. Chủ nhiệm chương trình: GS.TS. Dương Phú Hiệp. Mã số: KX.03/06-10. Viện Triết học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cũng đang nghiên cứu chương trình này với đề tài: “Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”. Chủ nhiệm đề tài là PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà. Mã số: KX.03.07/06-10.

Ngay từ năm 2007, UBBAXH đã quan tâm và nghiên cứu về con người Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại. Linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký UBBAXH, cũng đã trình bày đề tài: “Cấu trúc tâm lý và văn hoá của người Việt Nam đối với các vấn đề xã hội” trong Hội nghị Quốc tế được tổ chức tại Hà Nội, từ 15 đến 19-10-2007, và trình bày đề tài “Trách nhiệm xã hội của UBBAXH-Caritas Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” trong Hội nghị Quốc tế được tổ chức tại Đồ Sơn, Hải Phòng, từ 12 đến 15-2-2009. UBBAXH-Caritas Việt Nam đang tiếp tục nghiên cứu đề tài này để đưa vào chương trình hành động của UBBAXH-Caritas Việt Nam trong tương lai.

Khi nghiên cứu hiện trạng xã hội, chúng ta thấy con người Việt Nam, giống như bất cứ dân tộc nào, bị tác động bởi những yếu tố địa lý, lịch sử, văn hoá nên đã kết thành một thực thể phức tạp với nhiều đức tính và khuyết điểm. Chỉ khi hiểu rõ thật sự con người, ta mới có thể giải quyết được những vấn đề của con người, cá nhân, gia đình và xã hội.

Nói đến con người Việt Nam, chúng ta có thể nhắc đến bao điều kỳ diệu, bao đặc tính tốt đẹp mà nhiều người đã không ngớt lời ca tụng như Toan Ánh trong bộ Nếp Cũ - Con người VN, Sơn Nam trong Người Sài Gòn, Vương Hồng Sển trong Sài Gòn năm xưa... nhất là Vũ Hạnh (A. Pazzi) trong Người Việt kỳ diệu. Những lời ca tụng đó có thể ru ta vào giấc mộng đẹp đã qua mà không dám nhìn thẳng vào thực tế để giải quyết những vấn đề hiện nay.

Có lẽ chúng ta cần nhìn rõ con người VN để nhận ra cả hai mặt tốt xấu, nhất là mặt xấu mà ít người dám nói vì sợ bị kết tội “vạch áo cho người xem lưng”. Nhà văn Bá Dương đã dám viết Người Trung Hoa xấu xí, được Nguyễn Hồi Thủ dịch sang tiếng Việt. Những bài viết này tác động mạnh đến dân tộc ông cũng như đóng góp nhiều cho công cuộc phát triển đất nước Trung Hoa. Chỉ trong vòng 50 năm qua, từ một dân tộc lạc hậu, chậm phát triển, nước Trung Hoa đã tiến lên địa vị của một cường quốc, và nhiều lĩnh vực vượt cả Anh, Pháp, Đức.

Đã có những nghiên cứu lớn về con người Việt Nam, thí dụ như của Viện Nghiên cứu Xã hội Hoa Kỳ, kết quả rất đáng cho chúng ta lưu ý. Viện này đã đưa ra 10 đặc điểm của người Việt Nam như sau:

- Cần cù lao động, song dễ thoả mãn, nặng tâm lý hưởng thụ.

- Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tư duy dài hạn nên ít chủ động.

- Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

- Vừa thực tế, vừa mơ mộng nên không có ý thức nâng lên thành lý luận.

- Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi chịu học từ đầu đến đuôi nên không hệ thống hoá được kiến thức, mất căn bản. Ngoài ra, học tập không phải vì tự thân của mỗi người (nhỏ học vì gia đình, lớn học vì sĩ diện, vì cần kiếm công ăn việc làm, ít khi học vì thú vui được khám phá và hiểu biết những điều mới lạ).

- Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

- Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

- Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, những trường hợp khó khăn, bần hàn; còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít xuất hiện.

- Có tính hiếu hoà, nhẫn nhịn, nhưng nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những tự ái vặt, đánh mất đại cuộc.

- Thích hợp quần, tụ tập, nhưng lại thiếu khả năng liên kết để tạo ra sức mạnh: cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng.

Thạc sĩ Nguyễn Lê Minh Tiến, trong bài phát biểu tại cuộc Hội thảo Khoa học về “Đặc điểm Tư duy và Lối sống của người Việt trước yêu cầu hội nhập quốc tế”, ngày 20-3-2009, tại CLB Nguyễn Văn Bình, TP.HCM, cũng đã kể thêm một số khuyết điểm của người Việt hiện nay như:

+ Giờ cao su: không tuân thủ chặt chẽ yếu tố thời gian trong hoạt động của mình bắt nguồn từ lối sống nông nghiệp.

+ Tình lý lẫn lộn: xét đoán mọi việc dựa trên tình cảm chứ không phải lý trí do xuất thân từ mô hình xã hội cộng đồng.

+ Trách nhiệm tập thể lấn át trách nhiệm cá nhân: ít dám nhận trách nhiệm về mình.

+ Tư duy “ăn xổi”: Chỉ thấy cái lợi thiết thực trước mắt hơn lợi ích lâu dài.

+ Thích làm theo hơn là sáng tạo: do thiếu tự tin và óc phê phán.

+ Trọng hình thức hơn chất lượng: chú ý đến bằng cấp, điểm số hơn là khả năng thật sự.

Những nhận định trên đây và những kết quả nghiên cứu khác có thể giúp ích nhiều cho những ai quan tâm đến những vấn đề xã hội. Nhưng những vấn đề xã hội chỉ có thể được giải quyết một cách hiệu quả nếu chúng ta tìm ra nguồn gốc những đức tính và khuyết điểm trong cấu trúc tâm lý và văn hoá của người Việt Nam, cũng như tìm ra được đường hướng sửa chữa những khuyết điểm. Điều này cần đến sự nghiên cứu và làm việc lâu dài của các nhà giáo dục, tâm lý, xã hội học.

Con đường hình thành nên cấu trúc tâm lý xã hội của người VN đi từ những nhận thức, diễn tả ra hành động, rồi những hành động được lặp đi lặp lại tạo thành thói quen để lâu dài thành đặc tính cá nhân, rồi nhiều cá nhân tạo nên bản sắc dân tộc. Vì thế, muốn sửa đổi những khuyết điểm trong đặc tính này, chúng ta cũng phải bắt đầu từ việc gây ý thức xã hội, rồi tạo nên những thói quen cho tập thể và sau một vài thế hệ mới có thể tạo nên những yếu tố mới trong bản sắc dân tộc. Do đó, chúng ta cần quan tâm đến lĩnh vực đào tạo lương tâm ngay chính, công lý, trách nhiệm và liên đới xã hội cho các công dân, nhất là những người trẻ trong đất nước hiện nay. Sau đó, phải tìm được những biện pháp hay đường hướng thích hợp để hoàn thiện nhân cách theo từng độ tuổi hay môi trường sống. Những công việc này đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ của các nhà tâm lý, khoa học, giáo dục, xã hội cũng như các văn nghệ sĩ, những nhà truyền thông xã hội và cả những người hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo…

Riêng đối với người tín hữu Công giáo, chúng ta càng phải tích cực cũng như chủ động trong việc xây dựng và hoàn thiện giá trị con người VN theo Tin Mừng vì con người là đối tượng chính yếu trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa và là đích điểm cứu độ của Đức Giêsu Kitô. “Không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng người môn đệ Đức Kitô” (Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 1). Chúng ta lại có một lợi điểm lớn là cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo với những đường hướng tích cực và những nguyên tắc rõ ràng để giải quyết các vấn đề xã hội cũng như cổ vũ cho công lý, hoà bình (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế về “Công bằng, Trách nhiệm và Liên đới Xã hội” từ ngày 15 đến 19-10-2007, tại Hà Nội, Việt Nam, tr. 980-992).

Chính vì thế, UBBAXH sẽ quan tâm nhiều đến việc hoạch định đường hướng để đào tạo con người Việt Nam mà chúng ta sẽ khai triển sau đây.

2.1.2. Tình hình xã hội tổng quát

* Những chỉ số của Việt Nam so với thế giới

• Việt Nam là một nước nghèo và đông dân, được Liên Hiệp Quốc (LHQ) xếp vào khu vực các nước đang phát triển. Tổng dân số thế giới tính đến giữa năm 2007 là 6.625.000.000 người, trong đó Việt Nam có 85.154.900 người, đứng thứ 12 trên thế giới.

• Theo báo cáo của Chương trình Phát triển LHQ, năm 2006, Chỉ số phát triển con người (HDI: Human Development Index): Việt Nam xếp hạng 109/177. Đây là chỉ số tổng hợp gồm 3 thành phần: tuổi thọ, mức độ phổ cập giáo dục và thu nhập bình quân đầu người.

• Xét về Tổng Sản lượng Nội địa (GDP: Gross Domestic Product): Việt Nam xếp hạng 122/177 nước (723 USD, năm 2007) (x. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2007, NXB Thống Kê, tr. 687-688).

• Chỉ số Nghèo đói (HPI: Human Poverty Index): Việt Nam cũng đang ở mức 45/90 nước đang phát triển.

• Chỉ số Phát triển Giới (GDI: Gender related Development Index): phản ánh sự bất bình đẳng giữa nam và nữ theo 3 khía cạnh: tuổi thọ, kiến thức, mức sống: Việt Nam xếp thứ 91/157 nước.

• Chỉ số Ghi nhận Tham nhũng (CPI: Corruption Perceptions Index): Việt Nam xếp thứ 121/180 nước.

* Cơ cấu dân số Việt Nam

• Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ. Theo thống kê 2006, độ tuổi của dân số Việt Nam như sau: từ 0-4 tuổi chiếm 7,45% dân số; từ 5-9 tuổi, 8,18%; từ 10-14 tuổi, 10,65%; từ 15-19 tuổi, 10,80%; từ 20-24 tuổi, 8,79%; từ 25-29 tuổi, 7,79%; từ 30-34 tuổi, 7,72%; từ 35-39 tuổi, 7,62%; từ 40-44 tuổi, 7,30%; từ 45-49 tuổi, 6,37%; từ 50-54 tuổi, 4,80%; từ 55-59 tuổi, 3,30%; từ 60-64 tuổi, 2,19%; từ 65 tuổi trở lên, 7,03% (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 4, 2008).

• Dân số Việt Nam, năm 2007: 85.154.900 người, tăng 1,21% so với năm trước.

- Trong đó, nam: 41.855.300, chiếm 49,15% dân số;

nữ: 43.299.600, chiếm 50,85% dân số.

Số chênh lệch nam nữ, 1.444.300 người, cũng liên quan đến các vấn đề xã hội như: vấn đề bình đẳng giới, mại dâm, lấy chồng nước ngoài…

- Trong đó, người sống ở thành thị: 23.370.000, chiếm 27,44% dân số;

người sống ở nông thôn: 61.784.900, chiếm 72,56% dân số.

Tình trạng đô thị hoá tương đối chậm, nếu so sánh vào năm 1995: tỷ lệ người dân thành thị/nông thôn là 20,75%/79,25%. Tình trạng này liên quan đến nhiều vấn đề như di dân, y tế, thất nghiệp, giáo dục (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 39).

• Quy mô hộ: Hộ trung bình hiện nay là 4,1 người, ở thành thị là 3,9 người, nông thôn là 4,1 người. Quy mô hộ của dân số Việt Nam trong mấy năm vừa qua liên tục giảm: từ 4,5 người (2001) xuống còn 4,1 người (2006). Số người bình quân một hộ thấp nhất trong cả nước là đồng bằng Sông Hồng (3,7 người), cao nhất là Tây Bắc (4,6 người).

• Cả nước còn tới 11.058 hộ không có nhà ở; gần 23% số hộ ở nhà tạm, đơn sơ; 22% số hộ chưa được dùng điện; mới chỉ có 12,7% số hộ được dùng nước máy; 16,5% số hộ ở nông thôn có phương tiện sản xuất.

• Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, Việt Nam có khoảng trên 5 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6,3% dân số. Tỷ lệ dân số bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ chiếm khoảng 1,5%. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn ở mức 25,2% dân số, vào năm 2005 (x. Tổng cục Thống kê, Điều tra biến động dân số, nguồn lao động và kế hoạch hoá gia đình, ngày 1-4-2006, NXB Thống Kê, Hà Nội, 2007).

• Theo báo cáo của Trung tâm Tâm thần Quốc gia, cứ 100 người Việt Nam thì có 10 người bị tâm thần nhẹ và 1 người bị tâm thần nặng, tỷ lệ này mỗi năm một gia tăng phản ánh tình trạng căng thẳng và bất ổn trong đời sống xã hội.

2.1.3. Một vài lĩnh vực đặc biệt

* Giới trẻ và vấn đề giáo dục

Dân số Việt Nam dưới 35 tuổi là 63,42%, tính theo cơ cấu dân số năm 2006. Tính đến thời điểm 30-9-2007, cả nước có 15.686.200 học sinh đang theo học 3 cấp phổ thông. Trong tổng số trẻ em ở độ tuổi nhập học tiểu học (6 tuổi) ở Việt Nam chỉ có 93,5% học lớp 1; và 6,5% không đi học. Tỷ lệ học sinh giảm dần qua mỗi lớp hay cấp: từ 6.860.300 học sinh học cấp I, đến cấp II còn 5.803.300 học sinh (84,6%), lên cấp III chỉ còn 3.021.600 học sinh (tức 44%) (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 10, 2007). Số học sinh bỏ học tương đối cao do nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh: khó khăn về kinh tế gia đình, học phí cao, phải lao động sớm, thiếu trường lớp, thiếu giáo viên tận tâm, nhất là thiếu chương trình nhất quán…

Năm học 2007-2008, số sinh viên là 1.928.400, trong đó: trường công lập là 1.622.500 và ngoài công lập là 265.900 trong tổng số 345 trường trên toàn quốc. Về giáo dục trung học chuyên nghiệp, có 273 trường với 621.000.100 học sinh. Nói chung, trình độ giáo dục trên đại học ở Việt Nam tương đối thấp so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 523tt).

Hầu hết phụ nữ ở lứa tuổi từ 15-24 ở thành thị biết chữ (99%), trong khi ở nông thôn là 90%. Phụ nữ dân tộc ít người có tỷ lệ thấp hơn (dưới 70%). Tình trạng mù chữ có tương quan chặt chẽ với chỉ số giàu nghèo của hộ gia đình (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 11, 2007).

Kết quả giáo dục còn là điều đáng quan tâm hơn nữa khi một bộ phận lớn người trẻ sống buông thả để hưởng thụ vật chất, chiều theo những dục vọng thấp hèn qua số sách báo, phim ảnh đồi truỵ nhan nhãn khắp nơi, qua những quán bar, bia ôm, massage trá hình mọc lên khắp nơi trong các thành phố và đô thị, qua số trẻ vị thành niên phá thai càng ngày càng tăng (mỗi năm có từ 1,4-2 triệu ca phá thai trong cả nước), số người nhiễm HIV (300.000 người), số người nghiện ma tuý (tính đến tháng 5-2008 là hơn 200.000 người).

* Lao động

Năm 2007, trong tổng số 85.154.900 người dân, có 44.171.900 người lao động (chiếm 51,87% dân số). Người lao động được tính từ tuổi 15 đến 60. Trong số người lao động có 22.176.400 người thuộc ngành nông và lâm nghiệp (chiếm 50,20% tổng số), thuỷ sản 1.634.400 người (3,70%), công nghiệp chế biến 5.963.100 người (13,50%), xây dựng 2.267.700 người (5,13%), thương nghiệp 5.291.700 người (11,98%), đảng và công đoàn 192.900 người (0,44%), còn lại là các ngành khác (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 51-54).

Điều đáng lưu ý trong lĩnh vực lao động là trong số hơn 44 triệu người, có 3.974.600 người làm trong lĩnh vực kinh tế Nhà Nước (chiếm 9%), trong khi số người làm ở lĩnh vực ngoài Nhà Nước là 38.657.700 (chiếm 87,51%), và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 1.539.600 người (chiếm 3,49%) (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 51-54).

Số người thất nghiệp trong cả nước, năm 2007, tương đối lớn (4,64%) và thời gian làm việc cả nước, năm 2006, là 81,79%; số người nhàn rỗi khi không có việc tương đối cao. Người nông dân chỉ làm khoảng 80% ngày công (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 61-62). Trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, đã có thêm hơn 500.000 người thất nghiệp, tính đến thời điểm tháng 3-2009.

Trong tổng số trẻ em từ 5-14 tuổi, có 16% phải tham gia lao động, hầu hết trong số này tham gia vào các kinh tế hộ gia đình (13%), 2,4% làm các công việc nội trợ trong gia đình, ít nhất 28 giờ/tuần nên không thể học hành dễ dàng như các em khác (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 10, 2007).

* Thu nhập

Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế trong cả nước là 636,000 đồng (2006), trong đó: thành thị là 1.058.000 đồng và nông thôn là 506.000 đồng (x. Niên giám Thống kê 2007, tr. 607).

Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 15,47% (2006) xuống còn 14,75% (2007). Tuy nhiên, một số tỉnh miền núi tại những vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người, số hộ nghèo vẫn còn chiếm tỷ trọng cao: Lai Châu 55,32%, Điện Biên 40,77%, Hà Giang 39,44% và Bắc Cạn 37,8% (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 11, 2007).

Tình trạng thiếu đói vẫn xảy ra ở một số vùng bị thiên tai. Năm 2007, cả nước có 723.900 hộ với 3.034.500 nhân khẩu bị thiếu đói giáp hạt, giảm 6% hộ và 11,6% nhân khẩu so với năm 2006 (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 4, 2008).

* Thiên tai và môi trường

Hằng năm Việt Nam chịu khoảng 10 cơn bão lớn và nhiều thiên tai khác như lũ lụt, hạn hán. Mỗi thiên tai đều gây ra những thiệt hại lớn lao về người và của mà cộng đồng xã hội chúng ta chưa biết cách phòng chống. Các nước châu Á đã tìm hiểu về vấn đề này để lập nên những hệ thống cảnh báo thiên tai và giáo dục cộng đồng về những phương pháp phòng chống để giảm thiểu thiệt hại.

Năm 2007 đã xảy ra 7 cơn bão và lũ lụt tại 50 tỉnh thành trực thuộc Trung ương với 435 người chết và mất tích, 850 người bị thương, trên 1.300 công trình bị phá huỷ, khoảng 460 km đê kè và 1.176 km kênh mương bị sạt lở, vỡ và cuốn trôi; làm ngập úng, hư hại 113.800 ha lúa; 6.900 ngôi nhà và 921 phòng học bị sập; 920.900 ngôi nhà bị ngập, tốc mái và nhiều công trình kinh tế-xã hội khác bị ảnh hưởng. Thiệt hại ước tính trên 11.600 tỷ đồng (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 4, 2008).

Hội nghị Quốc tế về Môi trường ở Hà Nội, tháng 2-2008, đã chỉ rõ cho ta thấy Afganistan và Việt Nam là hai quốc gia sẽ chịu nhiều thiệt thòi nhất về việc thay đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều vùng ven biển và các vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long sẽ chìm dưới mực nước biển và 17 triệu người dân sẽ trực tiếp bị ảnh hưởng.

Theo báo cáo kết quả tình hình thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Nước sạch và Vệ sinh Môi trường Nông thôn, năm 2007, có 69% dân số khu vực nông thôn được sử dụng nước sạch, 51% hộ nông thôn có hố xí hợp vệ sinh.

Mức độ ô nhiễm về bụi và khói xe trong các thành phố lớn gấp hàng chục lần so với mức độ cho phép, sẽ dẫn đến nhiều bệnh tật về đường hô hấp. Các nguồn nước bị huỷ hoại hay bị ô nhiễm do chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp tham lợi không có hệ thống lọc nước thải. Nhiều người dân đã bị những bệnh nguy hiểm vì thiếu nước sạch (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 4, 2008).

* Phụ nữ

Gần 51% dân số là phụ nữ nhưng nhiều người còn bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng giới, chưa biết bảo vệ sức khoẻ sinh sản. Tuổi trung bình kết hôn ở Việt Nam từ 26,6 (nam) và 23,2 (nữ). Tuy nhiên, có sự chênh lệch đôi chút giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tỷ suất ly hôn và kết hôn tính theo phần ngàn là 0,2 so với 6,3 vào năm 2004 (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 11, 2007).

Tỷ lệ kết hôn sớm, trước 15 và 18 tuổi, tương đối cao ở các vùng được coi là nghèo nhất bao gồm vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đông Bắc và đồng bằng sông Cửu Long, cũng có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 11, 2007).

Hiện tại có 75,7% phụ nữ đang có chồng hoặc đang sống chung như vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai. Biện pháp được sử dụng phổ biến nhất là vòng tránh thai được 35,9% phụ nữ áp dụng.

Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nạo phá thai cao nhất thế giới, đặc biệt là số ca nạo phá thai ở tuổi vị thành niên và thanh niên trẻ. Năm 2003 là 1,7%, năm 2004 còn 1,2%. Các chuyên gia ước tính mỗi năm có từ 1,4-2 triệu ca nạo phá thai (x. Nguyễn Thiện Trưởng, Dân số và Phát triển Bền vững ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 23).

Tại Việt Nam chưa có số thống kê chính xác về số lượng, tính chất và mức độ của bạo hành trong gia đình. Theo số liệu của Bộ Công an, cứ 2 đến 3 ngày có 1 người chết vì liên quan đến bạo hành gia đình. Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm 2005, ở đồng bằng sông Cửu Long có 1.011 người tự tử, ở Tây Nguyên có 715 người tự tử vì bạo hành trong gia đình. Toà án Nhân dân Tối cao chỉ rõ, từ năm 2000-2005, toà án các cấp đã xử 186.954 vụ ly hôn do bạo hành gia đình (x. Uỷ ban các Vấn đề Xã hội của Quốc hội, 2006). Theo các cuộc khảo sát được tiến hành trên một số vùng của Việt Nam, có tới 60-75% phụ nữ đã từng bị các dạng bạo hành gia đình, bao gồm: bạo hành thể xác, bạo hành tinh thần, bạo hành tình dục (x. Tạp chí Dân số và Phát triển, số 11, 2007).

Nhiều miền cao, vùng sâu vùng xa, nhất là đồng bằng sông Cửu Long có đến 60%-80% phụ nữ mắc bệnh phụ khoa vì thiếu nước sạch. Gần 3 triệu người goá bụa sống nghèo khổ, trong đó hơn 2 triệu là phụ nữ. Do tình trạng nghèo khổ, nhiều phụ nữ bị lạm dụng tình dục, phải lấy chồng nước ngoài, thậm chí phải bán cả thân xác. Theo Cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 6 tháng đầu năm 2007, cả nước có 55.000 người hành nghề mại dâm, nhưng đó chỉ là con số kê khai hành chính, số người thực tế chắc chắn còn cao hơn nhiều.

* Y tế và sức khoẻ cộng đồng

Tính đến 31-8-2007, số người nhiễm HIV ước tính khoảng 293.000 người. HIV có mặt trong tất cả 64 tỉnh thành, 96% trong tổng số 659 quận huyện và 66% trong số 10.732 phường xã. Số người nhiễm HIV trong độ tuổi từ 20-39 là 78,9% và 85,2% là nam giới (x. Báo cáo của Nhà nước Việt Nam về Cam kết Phòng chống HIV/AIDS, Hà Nội, 1-2008, tr. 6). Cứ mỗi một ngày qua đi, có thêm 100 người nhiễm HIV mới và 40 người qua đời vì AIDS. Các tổ chức quốc tế đã trợ giúp hàng trăm tỷ đồng Việt Nam mỗi năm nhưng số người nhiễm HIV vẫn không giảm bớt do nhiều nguyên nhân. Các tổ chức đó đang thiết tha kêu gọi Giáo hội Công giáo cộng tác vào hoạt động xã hội này để ngăn chặn hiểm hoạ.

Ngành Y tế đã tập trung chỉ đạo việc phòng chống dịch bệnh, ứng cứu khi thiên tai, vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nước sạch. Tuy nhiên, trong ít năm gần đây, một số bệnh gây dịch thông thường như sốt xuất huyết, viêm gan siêu vi, sốt rét, dịch tiêu chảy, cúm gia cầm vẫn tiếp tục xảy ra trên nhiều địa phương. Điều này cần đến việc gây ý thức quần chúng về các dịch bệnh.

Tình hình ngộ độc thực phẩm chưa được cải thiện. Trên cả nước liên tiếp xảy ra các vụ ngộ độc tập thể với số lượng và quy mô ngày càng tăng. Trong năm 2007, cả nước có 6.800 trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có 53 người đã chết. Tình trạng thực phẩm không an toàn như rượu có nồng độ Methanol quá cao, các sản phẩm sữa có chất Melamin, các thực phẩm có chất Formon đang là những vấn đề thời sự hiện nay. Chúng ta cần gây ý thức quần chúng để chỉ mua bán những thực phẩm an toàn.

2.1.4. Sự quan tâm của các giáo phận đối với các vấn đề xã hội

UBBAXH đã nhận được một số báo cáo của các giáo phận gửi về để biết những vấn đề xã hội ưu tiên. Chúng tôi xin liệt kê các vấn đề xã hội được quan tâm nhiều nhất (x. Bảng Thống kê những Vấn đề Xã hội tại 26 Giáo phận).

Tính đến ngày 12-3-2008, những vấn đề xã hội được quan tâm nhiều nhất là:

• Nghèo đói: 23
• Thất nghiệp: 19
• Giáo dục: 16
• HIV/AIDS, Ma tuý, Di dân: 12
• Nước sạch: 11
• Ô nhiễm môi trường: 10
• Khuyết tật: 10
• Thiên tai: 9
• Nạo phá thai: 9
• Mại dâm: 7
• Nghiện rượư: 6
• Y tế: 6

Chúng tôi cũng liệt kê số liệu những đối tượng nghèo tại các giáo phận trên. Các đối tượng này đang được quan tâm săn sóc. Chúng tôi chia đối tượng thành hai loại: người lớn và trẻ em theo thống kê sau: (x. Bảng Thống kê Xã hội 26 Giáo phận)

Trẻ em

* Nghèo: 112.500
* Thất học: 72.830
* Khuyết tật: 8.221
* Mồ côi: 5.189
* Nhiễm HIV: 5.241
* Bị lạm dụng lao động: 3.364
* Trẻ đường phố: 546
* Bị lạm dụng tình dục: 411
* Phạm pháp: 337

Người lớn

Chúng tôi cũng thấy một số vấn đề xã hội đang được các giáo phận quan tâm như:

- Vấn đề di dân (620.700 người): các giáo phận Phát Diệm, Vinh, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc quan tâm, không kể TP.HCM.

- Vấn đề giúp các dân tộc thiểu số (2.091.538 người): được các giáo phận Phát Diệm, Thanh Hoá, Vinh, Nha Trang, Đà Lạt, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc quan tâm.

- Vấn đề giúp phụ nữ nghèo (161.795 người): được các giáo phận Thái Bình, Vinh, Cần Thơ, Long Xuyên quan tâm.

- Vấn đề giúp các người nhiễm HIV (14.539 người): được các giáo phận Thái Bình, Phát Diệm, Nha Trang, Cần Thơ, Đà Lạt, Long Xuyên, Xuân Lộc quan tâm (không kể TP.HCM có riêng một ban mục vụ về vấn đề này).

- Vấn đề giúp người nghiện ma tuý (8.227 người): được các giáo phận Thái Bình, Vinh, Nha Trang, Cần Thơ, Đà Lạt, Long Xuyên, Xuân Lộc quan tâm.

- Vấn đề giúp các bệnh nhân phong (3.277 người): được các giáo phận Thái Bình, Thanh Hoá, Vinh, Nha Trang, Vĩnh Long, Đà Lạt, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc quan tâm.

- Vấn đề giúp các sinh viên nghèo (2.380 sinh viên): được các giáo phận Thái Bình, Phát Diệm, Vinh, Long Xuyên, Xuân Lộc quan tâm.

Trước tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay, với nhiều vấn đề đáng quan tâm, chúng ta sẽ tìm hiểu GHVN đang có những hoạt động nào để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của đất nước.

2.2. HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

Trước khi tìm hiểu các hoạt động BAXH cụ thể của GHVN, chúng ta nên lược qua về một số khó khăn và thách thức của UBBAXH-Caritas Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.

2.2.1. Một số khó khăn và thách thức

Trên nguyên tắc, UBBAXH và Caritas Việt Nam là hai cơ quan khác nhau vì trong khi đối tượng của Caritas là những người nghèo khổ thì UBBAXH hoạt động trong lĩnh vực rộng lớn hơn nhiều. Uỷ ban này còn phụ trách về các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, công lý và hoà bình là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến những người sống trong xã hội. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, HĐGMVN chưa thiết lập được các uỷ ban cho các lĩnh vực này theo cơ cấu tổ chức của Toà Thánh và các nước trong khu vực, nên UBBAXH được hiểu ngầm là phụ trách luôn các lĩnh vực trên. Qua sự cho phép của Nhà Nước với Quyết định số 941/TGCP-CG, ngày 2-7-2008, của Ban Tôn giáo Chính phủ, UBBAXH-Caritas Việt Nam được coi là một tổ chức thuộc HĐGMVN để hoạt động về các lĩnh vực BAXH.

UBBAXH được thành lập từ năm 2001, nhưng cho đến thời điểm này (31-3-2009), ngoại trừ Tổng Giáo phận TP.HCM có một Ban bác ái xã hội và Caritas Sài Gòn, một số giáo phận khác như Nha Trang, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Kontum, Xuân Lộc, Phan Thiết, Đà Lạt, Vĩnh Long, Long Xuyên, Cần Thơ, Mỹ Tho vừa mới tổ chức được Ban bác ái xã hội-Caritas giáo phận với văn phòng làm việc được một vài tháng nay. 14 giáo phận còn lại vẫn chưa tổ chức được văn phòng có nhân viên làm việc thường xuyên, dù Văn phòng Trung ương Caritas Việt Nam đã có dự án tài trợ cho các giáo phận đó.

Ở Việt Nam hiện nay, giám mục thường chỉ định một linh mục đặc trách Ban BAXH và Caritas Giáo phận nhưng linh mục này vẫn phải trực tiếp lo mục vụ giáo xứ nên có ít thời gian để tập trung lo cho các hoạt động xã hội. Lý do có thể là vì tình trạng thiếu linh mục hay thiếu người chuyên môn về xã hội hoặc vì những người có trách nhiệm chưa nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động BAXH trong đời sống của Giáo Hội cũng như của từng người tín hữu Kitô giáo. Điều thiếu sót này bắt nguồn từ việc các linh mục và các chủng sinh không được hay chưa được đào tạo đủ về học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo.

Sau 33 năm ngưng hoạt động (từ 1976-2008), có thể nói Caritas Việt Nam bắt đầu lại từ số không: không trụ sở, không phương tiện làm việc, không có nhân sự vì các nhân viên cũ đã già yếu, không có tài chính ban đầu cho các dự án. Nhưng Caritas Việt Nam tin vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa, tin vào sự quan tâm của người Việt Nam về các hoạt động BAXH theo tinh thần “lá lành đùm lá rách”, tin vào sự nhiệt tình hoạt động, tinh thần hy sinh quảng đại của đồng bào Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước, của các tổ chức đoàn thể quốc nội cũng như quốc tế dành cho Caritas Việt Nam.

GHVN hiện có 6.087.659 tín hữu, với 3.510 linh mục, 1.370 chủng sinh, 14.968 tu sĩ, 1.458 tu hội viên, 56.133 giáo lý viên (x. Bảng Tổng kết các giáo phận năm 2007, Bảng 20). Đây là nguồn nhân sự lớn lao mà Caritas Việt Nam hy vọng có thể thôi thúc tinh thần bác ái yêu thương để hoạt động của tổ chức này thật sự mang tính cộng đồng. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 140 dòng tu nam nữ với nhiều hoạt động BAXH cũng như có nhiều cơ sở xã hội trong các giáo phận. Năm 2007, GHVN có 883 nhà trẻ, lớp học tình thương; 46 cơ sở văn hoá; 60 cơ sở dạy nghề; 123 trạm xá; 13 trại phong, trại tâm thần, cơ sở cai nghiện ma tuý; 169 nhà mở cho người khuyết tật, cô nhi, người già neo đơn; 80 cơ sở cho người di cư hay sinh viên học sinh nghèo (x. Tổng kết các cơ sở xã hội của các giáo phận từ năm 2000-2007, phụ lục, bảng 24). Nhưng mỗi dòng thường chỉ hoạt động theo mục đích riêng tư của dòng mình và chưa liên kết với nhau trong một mạng lưới chung của toàn giáo phận hay toàn quốc để được điều phối cho hợp lý. Vì thế, một vài nơi xuất hiện tình trạng cạnh tranh (nhiều trường mẫu giáo của các dòng tu ở trong cùng một địa phương) hoặc thừa thãi (nhiều nhà mở cho trẻ khuyết tật trong cùng một địa phương) trong khi những nơi cần lại chưa có.

Một số giáo phận như Xuân Lộc, Kontum đã tổng kết hoạt động BAXH của các xứ đạo và dòng tu trong một vài năm gần đây với những kết quả rất lớn. Giáo phận Xuân Lộc đã tổng kết công tác BAXH từ 31-8-2007 đến 31-8-2008 là 52.716.430.000 đồng Việt Nam so với năm trước là 41.852.386.000 đồng Việt Nam. Công tác này gồm các mục lớn sau đây: giáo dục, chăm sóc bệnh nhân nghèo, phòng chống ma tuý và tệ nạn xã hội, xã hội hoá giao thông, nhà tình thương, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc người khuyết tật, phát triển cộng đồng (x. Giáo phận Xuân Lộc, Thành quả BAXH 31-8-2007 đến 31-8-2008, Báo cáo tại tuần tĩnh tâm linh mục giáo phận, 1-2009, tr. 84). Giáo phận Kontum tổng kết các hoạt động BAXH năm 2007 là 4.955.068.000 đồng Việt Nam (x. Giáo phận Kontum, Vài nét về việc Bác ái Xã hội của Giáo phận Kontum, Báo cáo, 10-2008, tr. 14).

Nhiều giáo phận khác tuy không làm tổng kết nhưng các tu sĩ và tín hữu vẫn có những hoạt động này. Điều đáng lưu ý là các hoạt động BAXH này thường mang tính tự phát, không được điều phối theo kế hoạch chung của toàn giáo phận, không được đào tạo huấn luyện để phù hợp với những đối tượng cần được giúp đỡ nên kết quả chỉ nhất thời và không bền lâu. Thí dụ: Không được đào tạo kỹ năng để giúp những người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, không được đào tạo kỹ năng tham vấn tâm lý cho những cô gái lầm lỡ, những người tự tử…

Hoạt động BAXH của các dòng tu thường thu hẹp vào một vài lĩnh vực tương đối dễ dàng như giáo dục trẻ mẫu giáo, trẻ mồ côi, giúp đỡ phụ nữ đơn hành… nhưng chưa dám dấn thân vào các lĩnh vực mới cần nhiều chuyên môn hơn như phục hồi cho người nghiện ma tuý, nhiễm HIV/AIDS, chăm lo sức khoẻ cộng đồng, di dân, tham vấn tâm lý cho các bệnh nhân tâm thần, đồng hành với các phụ nữ lỡ lầm, người già neo đơn, phòng chống thiên tai, dịch bệnh…

Người tín hữu Việt Nam rất nhiệt thành và quảng đại nhưng lòng đạo lại tập trung cho đời sống phụng tự, bí tích, và vì chưa được đào tạo về BAXH, nên chỉ làm những hành động từ thiện nhất thời bằng cách góp tiền hay phẩm vật cứu trợ. Đúng như lời nhận xét của các đại biểu trong Hội nghị của Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, tại Rôma, từ 28-2-2008 đến 1-3-2008, như sau: “Vì trong Giáo Hội hiện nay chỉ có việc cử hành bí tích là được coi trọng, việc rao giảng bị coi nhẹ hơn, còn việc bác ái thì bị coi như một hoạt động ngoại khoá, nghiệp dư, tuỳ thích… Người ta dành quá nhiều tiền để xây nhà thờ và tổ chức các lễ nghi. Ít tiền hơn dành cho việc rao giảng Tin Mừng. Còn bác ái thì như của dư thừa, bố thí. Phải chăng như thế mà Giáo Hội mất đi sức sống? Phải chăng vì thế mà Giáo Hội thiếu tính thuyết phục? Bác ái không phải là một bổn phận. Đó là sự sống của Giáo Hội. Quên bác ái, sự sống sẽ suy giảm”.

2.2.2. Những hoạt động của UBBAXH thuộc HĐGMVN, từ 2004-2009

Hoạt động của UBBAXH được chia theo 5 lĩnh vực sau:

- Tổ chức và tham dự các Hội nghị.
- Cứu trợ nạn nhân thiên tai và người nghèo.
- Đào tạo nhân sự về lĩnh vực xã hội.
- Nghiên cứu các vấn đề xã hội để cố vấn cho HĐGMVN.
- Thực hiện một số dự án với các tổ chức khác.

Tổ chức và tham dự các hội nghị

Trong vòng 5 năm qua (2004-2009), UBBAXH đã tổ chức và tham dự các Hội nghị sau đây:

1. Tham dự Đại hội Toàn cầu của Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình về Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo từ ngày 27 đến 30-10-2004, tại Rôma, Ý.

2. Tham dự Hội nghị châu Á do Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình về Học thuyết Xã hội Công giáo, từ ngày 25 đến 27-1-2007, tại Bangkok, Thái Lan.

3. Tham dự Hội nghị Quốc tế về “Công bằng xã hội, Trách nhiệm xã hội và Liên đới xã hội” từ ngày 15 đến 19-10-2007, tại Hà Nội, Việt Nam.

4. Tham dự Đại hội Toàn cầu về Phát triển, từ ngày 22 đến 24-11-2007, do Hội đồng Giáo Hoàng Công lý và Hoà bình tổ chức, tại Rôma, Ý.

5. Tổ chức Hội thảo Quốc tế về HIV/AIDS, từ ngày 14 đến 16-1-2008, tại Toà Tổng Giám mục Hà Nội.

6. Tổ chức Hội thảo về Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, từ ngày 12 đến 13-03-2008, tại Toà Giám mục Xuân Lộc, Long Khánh, Đồng Nai.

7. Tổ chức gặp mặt cho 12 giáo phận chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế về HIV/AIDS, ngày 27-5-2008, tại Trung Tâm Công giáo, TP.HCM, Việt Nam.

8. Tham dự Hội nghị Quốc tế về HIV/AIDS của CHAN (Catholic HIV/AIDS Network), từ ngày 3 đến 6-6-2008, tại Geneva, Thuỵ Sỹ.

9. Gặp gỡ với tổ chức Secours Catholique – Caritas Pháp (SCCF), từ ngày 7 đến 10-6-2008, tại Paris, Pháp.

10. Gặp gỡ với Caritas Germany, từ ngày 11 đến 13-6-2008, tại Freiburg, Đức.

11. Tổ chức Hội nghị Quốc tế Ra mắt Caritas Việt Nam, từ 21 đến 24-10-2008, tại Xuân Lộc, Đồng Nai, Việt Nam.

Cứu trợ nạn nhân thiên tai và người nghèo

HĐGMVN đã lập Quỹ Dự phòng Thiên tai để trợ giúp các nạn nhân thiên tai trước các nhu cầu khẩn cấp, thu tiền mỗi năm 1 lần vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Số tiền thu được khoảng 1 tỷ đồng mỗi năm. Ngoài số tiền và phẩm vật cứu trợ do các tín hữu đóng góp trong cả nước, Uỷ Ban còn nhận được sự trợ giúp của các tín hữu Việt Nam trên thế giới như Liên đoàn Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu, và nhiều nước khác như Canada, Nhật Bản, Korea, các tổ chức bác ái như Hội đồng Giám mục Ý, Caritas Đức, Secours Catholique-Caritas Pháp, Misereor của Đức.

Số tiền giúp đỡ các nạn nhân thiên tai trong 4 năm qua là: 829.931 USD (tương đương 13.361.889.000 VNĐ) và 15.150.314.964 VNĐ. Tổng cộng: 28.512.203.964 VNĐ. Ngoài số tiền cứu trợ khẩn cấp mua mì ăn liền, sữa, thuốc men, nước uống, mùng mền, Uỷ Ban cũng cứu trợ phục hồi và phát triển các vùng bị thiên tai như xây dựng lại nhà cửa, nạo vét các giếng nước, tẩy mặn cho đồng ruộng, cung cấp lúa giống, cây trồng và vốn cho các gia đình nghèo. Số người thụ hưởng lên tới hàng trăm ngàn người, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc.

Ngoài các nạn nhân trong nước, Uỷ Ban cũng đã gửi đến các nạn nhân thiên tai Châu Á bị sóng thần Tsunami tàn phá, ngày 26-12-2004, tổng số tiền là 290.000 USD, cứu trợ cơn bão Katrina ở Hoa Kỳ, ngày 29-8-2005 tổng số tiền: 30.000 USD, và cơn bão Ike ở Hoa Kỳ, tháng 9-2008, tổng số tiền: 20.000 USD.

Uỷ Ban cũng đã giúp đỡ những người nghèo khổ, các cô nhi, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghiện ma tuý, bệnh nhân tâm thần trong dịp Giáng Sinh và Tết trong các giáo phận, mở lớp thêu may cho các em gái nghèo ở Battambang, Campuchia để đào tạo nghề nghiệp.

Đào tạo nhân sự về lĩnh vực xã hội

Tình trạng thiếu hụt nhân sự chuyên môn của GHVN hiện nay đã đặt ra nhiều vấn đề và gây nên nhiều khó khăn cho các hoạt động xã hội ở Việt Nam. Vì thế, Uỷ Ban tập trung vào việc đào tạo nhân sự cho các Ban BAXH tại các giáo phận cũng như gây ý thức về xã hội cho cộng đồng dân Chúa.

Uỷ Ban đã mở các khoá đào tạo cho nhân sự đang làm việc trong UBBAXH và các Ban BAXH của các giáo phận về các chuyên môn như:

- Về lĩnh vực quản lý và tổ chức:

+ Khoá Công tác Xã hội, từ ngày 20 đến 23-7-2004, 46 linh mục tu sĩ lãnh đạo, tại TP.HCM.
+ Khoá Kỹ năng Viết Dự án, từ ngày 12 đến 17-4-2004, 47 học viên, tại TP.HCM.
+ Khoá Kỹ năng Sống cho các bạn thanh thiếu niên, từ ngày 17 đến 25-6-2005, 30 học viên, tại TP.HCM.
+ Khoá Quản lý và Đánh giá Dự án, từ ngày 3 đến 6-1-2006, 65 học viên, tại TP.HCM.
+ Khoá Kỹ năng Sống cho các phụ nữ, tháng 5-2006, 30 học viên, tại TP.HCM.

Tổng Cộng 5 khoá với 218 học viên

- Về lĩnh vực ma tuý và HIV/AIDS:

1. Ngày 17-11 đến 15-12-2004, 50 học viên, tại TP.HCM.
2. Ngày 23 đến 29-7-2005, 70 học viên, tại TP.HCM.
3. Ngày 28 đến 30-7-2008, 160 tu sĩ, tại TP.HCM.

Tổng cộng 3 khoá với 280 học viên

Ngoài ra Uỷ Ban cũng trực tiếp tổ chức 6 khoá cai nghiện cho hơn 100 em nghiện ma tuý tại Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM. Mỗi khoá 1 tuần. Hiện Uỷ Ban có mở hai nhà mở ỏ xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa, để giúp đỡ các người nghiện ma tuý. Trung bình giúp khoảng 60 người mỗi năm.

- Về khuyết tật: gồm 11 khoá đào tạo cho những người đang hoạt động tại các trường khuyết tật.

+ Khoá khuyết tật gồm 3 dạng tật: khiếm thính, khiếm thị, chậm phát triển trí tuệ, do các giảng viên cô Trần Thị Ngời, cô Võ Thị Khoái, Thầy Nguyễn Quốc Phong.

1. Ngày 15 đến 2-4-2004, 38 học viên, tại TP.HCM.
2. Ngày 19 đến 29-7-2004, 80 học viên, tại TP.HCM.
3. Ngày 1 đến 12-8-2004, 113 học viên, tại TP.HCM.
4. Ngày 1 đến 12-8-2005, cho 165 học viên, tại TP.HCM.

Tổng cộng 4 khoá với 396 học viên

* Khoá khuyết tật “Chăm sóc và Giáo dục trẻ Tự kỷ” dành cho các bác sĩ, y sĩ, giáo viên tại các trung tâm và trường học, do thầy Thạc sĩ Nguyễn Văn Thành (Thuỵ Sỹ), Tiến sĩ Olivette (Hoà Lan), Ms. Roelie Wolting (Caritas Đức), Bs. Nguyễn Lan Hải, cô Võ Thị Khoái, Hiệu trưởng trường Chuyên biệt Gia Định cùng hướng dẫn:

1. Ngày 1 đến 30-6-2005, 120 học viên, tại TP.HCM.
2. Ngày 5 đến 23-6-2005, 120 học viên, tại TP.HCM.
3. Ngày 4 đến 21-7-2005, 150 học viên, tại TP.HCM.
4. Ngày 31 đến 12-8-2006, 170 học viên, tại Hà Nội.
5. Ngày 2 đến 14-7-2007, 120 học viên, tại TP.HCM.
6. Ngày 6 đến 18-8-2007, 109 học viên, tại Hà Nội.
7. Ngày 20 đến 31-8-2007, 82 học viên, tại Hà Nội.

Tổng cộng 7 khoá gồm 871 học viên

- Gây ý thức xã hội cho cộng đồng:

Uỷ Ban cũng mở các khoá đào tạo nhằm gây ý thức cho cộng đồng dân Chúa hoặc cho các giới thanh thiếu niên về các vấn đề xã hội như phòng chống HIV/AIDS, ma tuý, chăm sóc sức khoẻ sinh sản…

Uỷ Ban cũng trình bày về tình hình lây nhiễm HIV/AIDS trên thế giới và tại Việt Nam, kiến thức về HIV/AIDS, những nguyên nhân và hậu quả của đại dịch HIV/AIDS, tầm quan trọng của giáo dục giới tính, kỹ năng sống cho các bạn thanh thiếu niên, quan điểm của Giáo Hội về HIV/AIDS, vai trò của linh mục, tu sĩ và giáo dân trước đại dịch HIV/AIDS cho một số giáo phận như:

* Giáo phận Vĩnh Long

Ngày 15-8-2006, cho 2.000 bạn trẻ về ma tuý.

* Giáo phận Cần Thơ

+ Ngày 6-4-2008, cho 150 linh mục, tu sĩ và giới trẻ.
+ Ngày 17-8-2008, cho 30 người trong giới y bác sĩ.
+ Ngày 21-8-2008, cho 200 hiền mẫu.

* Giáo phận Long Xuyên

+ ngày 13-4-2008, cho 200 người giáo dân.
+ Ngày 27-4-2008, cho 100 sinh viên.

* Giáo phận Đà Nẵng

+ Ngày 13-5-2008, cho 40 hướng đạo sinh.
+ Ngày 2-7-2008, cho 45 giáo lý viên.

* Giáo phận Kontum

+ Ngày 14-7 đến 15-7-2008, cho tu sĩ, giáo lý viên (khoảng 100 người), 115 Yao Phu (thuộc các dân tộc Xê Đăng, Jrai, Bahnar, Ra Đê), cho khoảng 1.000 Chức Việc của Hạt Kontum và Pleiku, cho khoảng 80 chị em nữ tu người dân tộc. Cho 200 bạn trẻ lớp giáo lý hôn nhân tại Giáo xứ Phương Quý.

* Ngày 18-7-2004, cho 45 em về sức khoẻ sinh sản, tại Mái ấm Hoa Hồng Nhỏ.

Nghiên cứu các vấn đề xã hội để cố vấn cho HĐGMVN

Uỷ Ban phối hợp với các bác sĩ, chuyên viên để nghiên cứu các phương pháp giúp cai nghiện ma tuý, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống nghiện rượu, tình trạng gia đình Việt Nam và cấu trúc tâm hồn người Việt. Uỷ Ban đã phổ biến các bài nghiên cứu đó trong Bản tin Bác ái Xã hội, số 2, về việc phục hồi người nghiện ma tuý, 196 trang, khổ A5, cuốn Loan báo Tin Mừng trong Xã hội Hôm nay, 200 trang, khổ A5 và cuốn Hiệp thông và Liên đới (Communion and Solidarity, 124 trang, khổ A4).

Uỷ Ban cũng phổ biến các nghiên cứu về vấn đề xã hội trong các Bản tin Bác ái Xã hội (4 số, khổ 14x20, 200 tr./số), in tập sách nhỏ Cảm thông và Liên đới với người nhiễm HIV/AIDS (10.000 bản). Giúp các bạn trẻ vượt qua cơn sốt chơi games trên mạng Internet bằng những hành động bổ ích qua tập Hành Khất Kitô (10.000 bản). Uỷ Ban cũng đã phổ biến 1 số đĩa VCD, DVD để giáo dục Thanh Thiếu Niên và tín hữu như: «Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật thánh», «Sứ điệp Loài hoa», «Bí tích Thánh Thể» (1.000 đĩa). Uỷ Ban cũng đã hỗ trợ để soạn thảo và in nhiều sách để thúc đẩy, gây ý thức về xã hội cho tín hữu giáo dân như sách về Hôn nhân Công giáo (10.000 cuốn), Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (Compendium of the Social Doctrine of the Church) (10.000 bản), Toát yếu Giáo lý Hội Thánh Công giáo (100.000 bản), để thúc đẩy các bạn trẻ học hỏi và sống Lời Chúa qua các sách Daily Gospel 2006-2007-2008-2009 (100.000 bản), Cẩm nang Caritas (20.000 bản).

Thực hiện một số dự án với các tổ chức khác

UBBAXH-Caritas Việt Nam đang thực hiện 4 dự án sau đây:

+ Dự án thiết lập mạng lưới hoạt động của Caritas Việt Nam tại 26 giáo phận: thời gian từ 2008-2011, nhằm thiết lập Văn phòng Caritas thường trực tại 26 giáo phận để có người làm việc thường xuyên, liên lạc với Văn phòng Trung ương và điều hành các công việc bác ái trong giáo phận. Xây dựng mạng lưới liên kết giữa Caritas Internationalis và Caritas Việt Nam, Caritas Giáo phận và Caritas Giáo xứ để cùng thực hiện các hoạt động BAXH. Tổng giá trị dự án: 639.632 Euro.

+ Dự án Chương trình Hành động của Giáo hội Công giáo VN trước đại dịch HIV/AIDS: thời gian 2 năm, từ 2009-2010, nhằm xây dựng mạng lưới liên kết và hợp tác trong các chương trình gây nhận thức, tăng năng lực cho cộng đồng và người sống chung với H nhằm đẩy mạnh hoạt động ngăn ngừa lây nhiễm HIV và chăm sóc cho người nhiễm. Tổng giá trị dự án là 144,800 Euro.

+ Dự án Củng cố Hoạt động của UBBAXH và nhân viên của các Ban BAXH giáo phận: thời gian từ 2005-2009, nhằm nâng cao năng lực cho nhân viên của UBBAXH, các Ban BAXH giáo phận và huấn luyện đội ngũ chuyên viên đặc trách các vấn đề công tác xã hội và phát triển cộng đồng. Tổng giá trị dự án: 84.620 Euro.

+ Dự án Cứu trợ Nạn nhân Thiên tai cho miền Bắc và miền Trung Việt Nam: thời gian 1 năm, từ 10-2008 đến 10-2009, nhằm cứu trợ khẩn cấp và phục hồi đời sống cho các nạn nhân thiên tai tại 4 giáo phận: Hà Nội, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang do cơn bão số 7 Mekkhala, tháng 10-2008 gây nên. Tổng giá trị dự án: 40.000 Euro.

3. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG BÁC ÁI XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

Để có thể định hướng được hoạt động BAXH trong một tương lai gần, tính đến năm 2020, chúng ta dựa trên những dữ liệu nghiên cứu về con người và xã hội Việt Nam trong phần số 2 trên đây để soạn thảo những chương trình hành động cụ thể cho UBBAXH-Caritas Việt Nam. Tuy nhiên, trước khi đi vào chương trình chúng ta nên ôn lại một vài điểm cơ bản của học thuyết xã hội Công giáo như những tiêu chuẩn để hành động.

3.1. MỘT VÀI ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO TRONG SỨ MẠNG PHỤC VỤ CON NGƯỜI

Mọi hoạt động BAXH của người tín hữu đều được hướng dẫn bởi Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Chúng ta thấy học thuyết xã hội Công giáo đã phát triển rất rõ ràng trong các văn kiện của Công đồng Vatican II (1962-1965), nhất là trong cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (2004) và Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu (Deus Caritas est, 25-12-2005) của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Sau đây là vài điểm cơ bản:

3.1.1. Giáo huấn của Công đồng Vatican II

Nhận định: nhiều linh mục, tu sĩ và hầu hết giáo dân đang hoạt động BAXH theo kiểu từ thiện, làm được thì tốt, không làm cũng chẳng sao vì chưa đặt nền tảng hoạt động xã hội của mình trên giáo huấn của Công đồng Vatican II. Ở miền Bắc hầu như không biết về Công đồng này; ở miền Nam nhiều nơi đã bỏ tài liệu Công đồng vì những biến cố sau năm 1975.

Công đồng dạy rằng: hoạt động BXH là nhằm diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nên Thiên Chúa Ba Ngôi là nền tảng của mọi hoạt động này (x. Hiến chế Lumen Gentium, số 42; Hiến chế Gaudium et Spes, số 38; Sắc lệnh Ad Gentes, số 12; Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, số 2). Chính Thiên Chúa đổ tình yêu vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần mà Ngài đã ban cho ta. Con đường bác ái mở rộng cho tất cả mọi người (Hiến chế Gaudium et Spes, số 38). Giáo Hội là cộng đồng bác ái nên phải hoạt động BAXH (Hiến chế Lumen Gentium, số 8-9; Sắc lệnh Ad Gentes, số 5), phải làm chứng về bác ái (Sắc lệnh Ad Gentes, số 15; Sắc lệnh Christus Dominus, số 30). Các hoạt động này là nguồn sứ mệnh của Giáo Hội (Sắc lệnh Ad Gentes, số 2). Các hoạt động bác ái của Giáo Hội mở ra cho mọi lĩnh vực trong xã hội và thế giới (Hiến chế Gaudium et Spes).

3.1.2. Giáo huấn của Giáo Hội qua cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của GHCG

Nhận định: Chỉ mấy năm gần đây, Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo mới tương đối hoàn chỉnh và trình bày một cách mạch lạc, có hệ thống về sứ mạng phục vụ con người. Hầu hết các thành phần dân Chúa ở Việt Nam chưa học hỏi về giáo huấn này nên hoạt động BAXH chỉ hạn hẹp trong việc giúp đỡ một số người nghèo, nạn nhân xã hội hay thiên tai chứ chưa mở rộng đến các lĩnh vực khác.

Chúng ta có thể tóm tắt vài điểm quan trọng sau đây:

- Giáo Hội có sứ mạng xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới theo đúng chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mọi hoạt động BAXH đều nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại và vũ trụ (x. HTXH của GHCG, chương I&II).

- Hoạt động BAXH phải tôn trọng con người như là hình ảnh của Thiên Chúa, với tất cả các giá trị cơ bản của đời sống cá nhân và xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ, nhân phẩm và nhân quyền (x. HTXH của GHCG, chương III).

- Các hoạt động đó được thực hiện dựa trên 3 nguyên tắc: công ích, bổ trợ và liên đới. Từ đó xác tín về mục tiêu phổ quát của của cải, sự tham gia của cá nhân và tổ chức rất cần thiết, sự liên đới mọi thành phần trong xã hội là quan trọng (x. HTXH của GHCG, chương IV).

- Hoạt động BAXH được thể hiện trong mọi lĩnh vực cụ thể như:

• Gia đình: Giáo dục về tình yêu, lòng chung thuỷ, tôn trọng sự sống, giáo dục con cái (x. HTXH của GHCG, chương V).

• Lao động: giá trị của lao động, quyền được lao động và nghỉ ngơi, được trả lương cân xứng, được bảo vệ quyền lợi bằng nghiệp đoàn (x. HTXH của GHCG, chương VI).

• Kinh tế: thị trường với công ty lớn nhỏ khác nhau, các nước giàu nghèo khác nhau nên phải có một nền luân lý kinh tế, hệ thống tài chính quốc tế. Thị trường tự do và sự can thiệp của Nhà Nước. Vấn đề tiết kiệm và việc sản xuất hàng tiêu dùng (x. HTXH của GHCG, chương VII).

• Cộng đồng chính trị: với việc tham gia chính trị, nền dân chủ và tự do cá nhân, vấn đề thông tin trung thực. Các đảng phái (x. HTXH của GHCG, chương VIII).

• Cộng đồng quốc tế với các tổ chức quốc tế, quyền tự chủ của dân tộc. Vấn đề nợ nước ngoài và chống nghèo đói, cổ vũ hoà bình và giải trừ quân bị, chống khủng bố và việc bảo vệ người vô tội (x. HTXH của GHCG, chương IX).

• Bảo vệ môi trường thiên nhiên và hoà bình trong vũ trụ. Vấn đề công nghệ sinh học (x. HTXH của GHCG, chương X).

3.1.3. Giáo huấn về bác ái xã hội qua Thông điệp Deus Caritas est (2005)

Nhận định: trong nhiều thế kỷ, hoạt động BAXH của người tín hữu luôn mang tính tự nguyện và tự phát, không được đào tạo chuyên môn, không có kế hoạch cụ thể nên chưa có hiệu quả thiết thực và bền vững. Người ta đặt ra vấn đề “con cá và chiếc cần câu” để nhắc nhở người tín hữu nên giúp cho những người nghèo khó những phương tiện để sinh sống như chiếc cần câu thay vì giúp cho họ một số vật chất nhất thời giống như cho con cá. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, dù được cung cấp chiếc cần câu nhưng người nghèo vẫn đói vì họ không thể câu được con cá nào nếu không cung cấp cho họ những kỹ năng câu cá cần thiết như hiểu biết về loại cá, loại mồi, cách mắc mồi câu, cách thả mồi nông hay sâu tuỳ loại cá, cách giật mồi và kéo cá đã cắn câu… Đó chính là vấn đề cung cấp các kỹ năng sống.

Hơn nữa, nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội rất quan tâm đến người nghèo nhưng lại không tổ chức được văn phòng BAXH với những nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Rồi khi xin được tiền trợ giúp lại không muốn làm báo cáo đầy đủ cho những tổ chức cung cấp tài chính, không giữ những chứng từ cần thiết cho việc kiểm toán khiến các tổ chức giúp đỡ đặt nghi ngờ về sự minh bạch trong việc thực hiện các dự án của Giáo Hội dù rằng các nhân viên xã hội làm việc rất công tâm.

Nói đến tổ chức Caritas của Giáo Hội là nhiều người Việt Nam lại nghĩ ngay đến việc xin trợ giúp những phương tiện vật chất từ những tổ chức từ thiện nước ngoài và sử dụng những phương tiện đó một cách dễ dãi, thiếu trách nhiệm như đã và đang xảy ra trong nhiều dự án của Nhà Nước mà chúng ta đã thấy báo chí phanh phui. Người ta không nghĩ được rằng mỗi đồng bạc từ quỹ Caritas Quốc tế đều phải được sử dụng đúng đắn và hiệu quả vì đó là của người nghèo và phải dành cho người nghèo.

Chính vì thế, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã gửi đến cộng đồng dân Chúa toàn cầu Thông điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình Yêu) để bổ xung cho giáo huấn về BAXH một số điểm cơ bản sau đây:

- Hoạt động xã hội dựa trên tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa, được gọi là Caritas (Bác ái) (tiếng Hy Lạp gọi là agape) mà vẫn không loại trừ tình ái (eros). Đó là một tình yêu toàn diện, mang tính sáng tạo, vĩnh cửu, cứu độ nhưng lại rất cụ thể, thiết thực, gần gũi vì Thiên Chúa tình yêu đã trở thành Đức Giêsu Kitô (số 12), trở thành Mình và Máu Người đem lại sự hiệp thông với Thiên Chúa (số 13). Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người đã hoà nhập thành một (số 2-18).

- Caritas với hoạt động bác ái của Giáo Hội là cách thể hiện tình yêu mang đặc tính của Chúa Ba Ngôi. Đó là trách nhiệm của Giáo Hội nên cần được thể hiện như một bổn phận chứ không còn là việc tuỳ tiện, muốn làm hay không cũng chẳng sao (số 20-22).

- Hoạt động này nhắm đến việc cứu độ toàn diện con người nên cần được tổ chức chặt chẽ để Giáo Hội thể hiện bản chất của mình (số 23-26).

- Hoạt động này phải thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, bao trùm tất cả mọi người và mọi nhu cầu (số 30).

- Những người hoạt động trong lĩnh vực BAXH phải được đào tạo kỹ lưỡng về nghiệp vụ (số 31), có tình người với con tim biết cảm thông, phải độc lập với mọi ý thức hệ, và hoàn toàn vô vị lợi. Họ cần phải biết liên kết và cộng tác với các tổ chức khác (số 34), biết khiêm tốn (số 35), cầu nguyện (số 36) và dám chấp nhận cả đau khổ, thiệt thòi (số 38).

3.2. ĐƯỜNG HƯỚNG ĐỀ NGHỊ ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI

UBBAXH-Caritas Việt Nam hết sức quan tâm đến các vấn đề xã hội ở Việt Nam và quyết tâm liên kết với mọi thành phần trong xã hội để xây dựng và phát triển cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, muốn giải quyết tận gốc các vấn đề xã hội phải tập trung vào việc đào tạo con người Việt Nam để giúp họ đổi mới cách nghĩ và lối sống phù hợp với Tin Mừng Đức Giêsu Kitô trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay. Người Công giáo Việt Nam trong dòng lịch sử đã có kinh nghiệm quý báu này khi đổi mới xã hội bị ảnh hưởng bởi Nho giáo, theo chế độ quân chủ chuyên chế, hôn nhân đa thê, nam nữ bất bình đẳng, chậm tiến, lạc hậu về khoa học trong hai thế kỷ XVIII-XIX sang xã hội tôn trọng nhân phẩm, hôn nhân một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, khoa học phát triển (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Từ kinh nghiệm truyền giáo ở Việt Nam và Hàn Quốc đến việc xây dựng nền văn hoá nhân bản tâm linh).

Vì thế, ngoài việc xây dựng những chương trình và dự án cho những vấn đề xã hội cụ thể như xoá đói giảm nghèo, phòng chống các tệ nạn xã hội, giúp đỡ các nạn nhân thiên tai… UBBAXH-Caritas Việt Nam tập trung vào việc đào tạo con người Việt Nam và giới thiệu cho xã hội một nền nhân bản toàn diện và liên đới đã được Giáo Hội cổ vũ. Xin giới thiệu một vài đường hướng tổng quát sau đây:

3.2.1. Xây dựng nền nhân bản toàn diện và liên đới để đổi mới con người

* Định nghĩa:

Gọi là nền nhân bản vì đây là một hệ thống suy tư và hành động lấy con người làm gốc, làm nền tảng thay vì lấy vật chất hay thần linh. Hệ thống suy tư giúp con người có những nhận thức đúng đắn về chính mình, về con người, về vạn vật cũng như về cả Thiên Chúa. Hệ thống hành động bao gồm những kỹ năng sống để con người thể hiện tốt đẹp và hiệu quả những nhận thức trên.

Lưu ý về tên gọi “nền nhân bản”: Chúng ta dùng từ “nền nhân bản” thay vì “chủ nghĩa nhân bản” để tránh sự hiểu lầm rằng Giáo Hội đang muốn xây dựng một chủ nghĩa đối kháng với các chủ nghĩa đã từng có mặt hay đang ảnh hưởng trong đời sống con người như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa duy thực, duy nghiệm, duy tâm, duy vật… Nền nhân bản này được xây dựng cho con người và vì con người nên bất cứ chế độ chính trị, tổ chức chính quyền, loại hình kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo nào cũng có thể tiếp nhận và hoà hợp, miễn là không đi ngược với những quyền lợi căn bản của con người, dù rằng nền nhân bản này có nói đến Thiên Chúa.

* Những giai đoạn phát triển về nhận thức của con người

Trước đây, khi nhận thức của con người còn hạn hẹp, khoa học chưa phát triển, con người bái thờ những sức mạnh thiên nhiên hay vật chất vì thấy chúng mạnh hơn con người. “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Nhưng khi con người chế ngự được thiên nhiên, thì thần linh cũng biến mất. Chế tạo ra cột thu lôi thì thần Thiên Lôi cũng không còn.

Sau đó, con người lại tìm ra các thần linh tưởng tượng làm nguồn gốc cho những hoạt động tinh thần của mình như thần Jupiter, Mars, Venus, Diana, Minerva… Đó là thời kỳ bái thần với nhiều hình thức mê tín. Nhưng khi con người khám phá ra những khả năng và giá trị tinh thần của chính mình thì các thần linh đó cũng không tồn tại.

Với khoa học tiến bộ, càng ngày con người càng ý thức rằng mình phải định hướng đúng những năng lực của chính mình vì chúng có thể phục vụ con người nhưng cũng có thể đè bẹp và huỷ diệt con người. Những quả bom nguyên tử nổ ở Hirosima và Nagasaki cũng như những bệnh nhân của chất độc Dioxin, của games online dạy ta điều đó.

Con người nhận ra rằng những bất ổn đang giày vò thế giới hôm nay gắn liền với những bất ổn căn bản hơn bắt nguồn từ thâm tâm con người vì trong chính con người đã có những yếu tố xung khắc nhau. Con người cảm thấy mình bị hạn chế về nhiều phương diện nhưng lại luôn có những khát vọng vô biên. Vì yếu đuối và tội lỗi, nhiều khi con người làm chuyện mình không muốn và không làm được điều mình muốn (x. Rm 7,14tt).

Vì thế, con người vẫn không ngừng đặt ra những câu hỏi cơ bản cho cuộc sống của mình như: Con người là gì? Làm sao giải thích được đau khổ, sự dữ và cái chết? Tại sao có nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật như thế mà chúng vẫn tồn tại? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và mong đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ theo sau cuộc sống ở trần gian này? (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 10).

* Đi tìm một nền nhân bản đích thực

Ngày nay người ta dường như trở về với thời kỳ bái vật khi sùng bái vật chất, coi tiền bạc của cải là thước đo của mọi giá trị, có khả năng vô biên, “có tiền mua tiên cũng được”, và coi thường những giá trị cao quý của con người.

Hơn nữa, người ta dường như lại quay trở về thời kỳ bái thần với hàng ngàn tôn giáo mới, đạo pháp mới ra đời, với đủ thứ kiểu tu luyện lạ lùng, những trò trừ ma diệt quỷ mê tín, những mơ tưởng hão huyền về những loại phù phép (Rowling với bộ sách Harry Potter), về những chiêu thức võ lâm thần kỳ ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…

Trong lịch sử, nhiều tôn giáo, trong đó có cả Kitô giáo, đã có lúc quá chú trọng đến hình thức, nghi lễ dành cho thần linh, cho Thiên Chúa mà coi nhẹ những hoạt động dành cho con người. Đây cũng là một trong các nguyên nhân phát sinh ra những thái độ của con người chối từ thần thánh, tạo nên chủ nghĩa vô thần. Những chủ nghĩa này đã nhân danh con người hay xã hội loài người để đòi lại những gì mà các tôn giáo đã dành cho thần linh, cho Thiên Chúa (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 19-21).

Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội Công giáo đã bắt đầu xây dựng một nền nhân bản dựa vào Chúa Kitô để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 10).

Giáo hội Công giáo đã xác định rằng con người là con đường của Giáo Hội (x. UBBAXH/HĐGMVN, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, số 62) và cũng là con đường của Thiên Chúa, vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người” trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14). Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong Đức Giêsu Kitô” (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 22).

* Mục đích của nền nhân bản toàn diện và liên đới

Nền nhân bản này nhằm mục tiêu là đổi mới và xây dựng mỗi người tín hữu thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô. Người là con người mới, con người hoàn hảo, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15), là Ađam mới (x. Rm 5,14) vì nhờ Người mà “bản tính nhân loại của chúng ta đã được nâng lên một phẩm giá siêu việt qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Người” (CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 22).

Người tín hữu nhờ kết hợp với Đức Kitô sẽ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23) để trở thành con người mới có khả năng chu toàn lề luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây dựng được nền văn minh tình yêu (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 575-580) cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 431).

Lúc đó loài người chúng ta vượt qua bí ẩn của đau khổ và sự chết để sống trọn vẹn trong niềm vui, bình an và tình yêu của Thiên Chúa (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 583).

Nền nhân bản toàn diện bao gồm các lĩnh vực nào?

Nền nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của con người như thể chất và tinh thần, cá nhân và tập thể, tự nhiên và siêu nhiên, nội tâm và ngoại giới vì con người thật sự là một mầu nhiệm không thể nào khám phá cho cùng. Ta có thể tóm tắt vào mấy lĩnh vực chính sau đây:

* Thể chất và tinh thần

Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất với tinh thần và thể xác (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 127; CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 14). Hai yếu tố thể xác và tinh thần đều do Thiên Chúa dựng nên, chứ không phải bắt nguồn từ hai phía đối nghịch nhau (Thuyết Nhị Nguyên) (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 14). “Tinh thần lành mạnh trong một thể xác tráng kiện” (Anima sana in corporesano).

“Thông qua thân xác mình, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất” (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 128). Mỗi ngày, qua đồ ăn, thức uống, khí trời, con người hoà hợp với vạn vật và thống nhất chúng nơi mình.

Nhờ tinh thần, con người có thể đi vào vạn vật để khám phá ra chúng và thấy mình vượt lên trên thế giới vật chất bên ngoài với phẩm giá độc đáo và lương tâm ngay chính.

* Nội tâm và ngoại giới

Con người khám phá ra mình hiện hữu như một cái “tôi” độc lập, có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 131).

Khoa Tâm lý học cũng khám phá ra cấu trúc phức tạp của tinh thần con người với những tầng lớp như ý thức, tiềm thức, vô thức tác động lên nhau và ảnh hưởng lẫn nhau cũng như những khả năng lạ lùng của con người với trí nhớ, trí hiểu, trí tưởng tượng, ý chí, tình cảm, khả năng hoạt động… khiến cho mỗi con người trở thành độc đáo với sứ mạng đặc biệt của riêng mình.

* Tự nhiên và siêu nhiên

Ngoài những gì tồn tại trong thế giới vật chất, hoặc do con người làm ra, có thể cân đo đong đếm hay xác định được trong không gian và thời gian, con người còn cảm nghiệm được nhiều điều thuộc về lĩnh vực siêu nhiên. Lĩnh vực siêu nhiên này mời gọi con người khám phá để phát huy những khả năng vô tận của con người vượt lên trên nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện nay. Con người có thể mở lòng mình để đón nhận những ân phúc như những quà tặng của Thiên Chúa và trao đổi những giá trị tinh thần cho người khác như tình yêu, lòng nhân ái, lời cầu nguyện…

Khi nhận ra mình có tự do như quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người và muôn loài có tinh thần để yêu Ngài, vì Ngài là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16), thì con người cũng có thể khước từ tình yêu Thiên Chúa (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 128; CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 14). Và con người đã làm thế trong đời sống của mình. Con người cắt đứt với nguồn chân thiện mỹ là Thiên Chúa nên con người đã cảm nghiệm những nổi loạn của thân xác, làm nô lệ cho những xu hướng xấu xa của tinh thần dẫn con người đến tội lỗi (x. 1Cr 6,13-20; Rm 7,24; CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 13). Vì thế, con người cần luyện tập những đức tính và loại bỏ những tật xấu ra khỏi cuộc sống của mình.

* Cá nhân và tập thể

Nhờ tinh thần, con người có thể gặp gỡ được những con người khác để xây dựng thành những cộng đồng yêu thương. Cộng đồng đầu tiên và cơ bản là gia đình với định chế hôn nhân, với nhiệm vụ nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Cộng đồng rộng lớn hơn là xã hội, tập thể để xây dựng nên nền văn hoá dân tộc với những mối liên hệ với tổ tiên, ông bà.

Hơn nữa, con người có thể mở ra với siêu việt để gặp gỡ được tinh thần tuyệt đối là Thiên Chúa ngay trong cõi thâm sâu của lòng mình và gặp gỡ những thụ tạo khác để xây dựng và phát triển một cộng đồng yêu thương (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 128, 129, 130).

Con người có các mối tương quan nào?

Con người toàn diện này có 4 mối quan hệ căn bản kèm theo 4 tinh thần phải tập luyện để thể hiện tốt đẹp các mối quan hệ ấy:

* Trong tương quan với Thiên Chúa, con người giữ tinh thần thảo hiếu, vì Ngài là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên.

Con người sẽ giữ tinh thần thảo hiếu này đối với cha mẹ, thầy dạy, ông bà, tổ tiên, dân tộc, là những người thay mặt Chúa chuyển sự sống, sự thật, tình yêu và ân phúc cho ta.

Phân tích con người mình, mỗi người chỉ thấy được những cái thuộc về vật chất, chỉ là những nguyên tử, phân tử Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ… thế mà ta đang sống, đang yêu, đang suy nghĩ. Vậy thì sự sống, tình yêu, sự khôn ngoan phải bắt đầu từ một nguồn nào đó vượt ra ngoài vật chất, không gian và thời gian cố định. Nhờ tinh thần mở ra cho siêu việt mà ta khám phá ra Đấng Siêu Việt là Thiên Chúa, nguồn gốc của muôn sự muôn loài (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 12; Tóm lược HTXH của GHCG, số 130).

Từ cội nguồn Thiên Chúa, con người sẽ giữ tinh thần thảo hiếu này đối với cha mẹ, thầy dạy, ông bà, tổ tiên, dân tộc, là những người thay mặt Chúa chuyển sự sống, sự thật, tình yêu và ân phúc cho ta.

Tinh thần ái quốc và bảo vệ nền văn hoá dân tộc là nhiệm vụ cơ bản của con người biết gìn giữ chủ quyền căn bản của quốc gia và biết đưa Tin Mừng hội nhập vào nền văn hoá ấy.

* Trong tương quan với mọi người sống trên trái đất và cả trong vũ trụ, con người giữ tinh thần huynh đệ, đối xử với nhau như anh em trong cùng một đại gia đình, không kỳ thị vì bất cứ khác biệt nào.

Con người thể hiện tinh thần huynh đệ này bằng cách tránh những hành vi tiêu cực như dối trá, tham lam, bất công, dâm đãng, xúc phạm đến thân xác hay danh dự người khác theo tinh thần của Mười Điều Răn và bằng cách thể hiện những hành vi tích cực qua đời sống trong sáng, bác ái, chân thực, ôn hoà, dám hy sinh vì đại nghĩa, dám chấp nhận những thiệt thòi để nhường cho người khác những cái tốt hơn theo tinh thần Tám Mối Phúc của Đức Giêsu.

Trong vũ trụ bao la vẫn có thể có những “người khác” để ta tìm hiểu, gặp gỡ và cùng nhau xây dựng một nền hoà bình giữa các vì sao.

Thiên hà của chúng ta với hơn 400 triệu ngôi sao và có khoảng 8.000 hành tinh có điều kiện giống như trái đất, nghĩa là có thể có người. Thiên hà Andromede cách ta 3,5 triệu năm ánh sáng. Cả vũ trụ có khoảng 10.000 thiên hà đã được kính thiên văn Hubble của Mỹ chụp được.

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Ngài sáng tạo con người có nam, có nữ (x. St 1,27). Sự liên kết giữa hai người nam nữ tạo nên một cộng đồng đầu tiên giữa người với người. Từ bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có tính xã hội và nếu không liên lạc với những người khác con người không thể phát triển và hoàn thiện chính mình.

* Trong tương quan với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì Thiên Chúa Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho con người để thay Ngài quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo (x. Mc 16,15).

Tinh thần này được thể hiện qua việc:

- Chuyên cần học hỏi, nghiên cứu vạn vật qua các khoa học kỹ thuật.
- Siêng năng lao động cũng như biết nghỉ ngơi.
- Làm ra các của cái và biết chia sẻ những tài nguyên và vật lực cho người yếu kém.
- Bảo vệ môi trường sống cho xanh, sạch, đẹp, an lành.
- Phát triển kinh tế làm cho dân giàu nhưng tự nguyện sống tiết kiệm, giản dị theo gương Đức Giêsu.

* Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ: làm chủ bản thân, tình cảm, những tham vọng và cả dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống.

Làm chủ thời giờ, tiền bạc, tài năng và ân huệ Chúa ban để mỗi giây phút sống đều tạo ra những giá trị tích cực cho đời mình và đời người. Một nụ cười, một lời cám ơn, một lời xin lỗi, một câu khích lệ chỉ tốn vài giây, nhưng thử hỏi mỗi ngày chúng ta đã thể hiện được bao nhiêu cho người thân, cho bạn bè và những người ở quanh ta để giảm sự căng thẳng và những áp lực trong cuộc sống!

Tinh thần này nhắc nhở mọi người cố gắng làm chủ bản thân, tình cảm, thời giờ, tài năng, ân huệ cả những tham vọng, dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống. Khả năng tự chủ này được đào luyện mỗi ngày qua một số kỹ năng sống sau đây.

Làm chủ ân phúc Chúa ban qua đời sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thần thánh bằng cầu nguyện, phụng tự và các bí tích. Tất cả là hồng ân để luôn sống trong tâm tình tạ ơn và không bỏ phí bất kỳ một ơn nào. (Kỹ năng cầu nguyện)

Làm chủ cá tính với những đặc tính như cảm tính, hoạt tính, sơ tính hay thứ tính, những nhu cầu xu hướng, năng khiếu để hiểu rõ con người mình có khả năng, ưu điểm, khuyết điểm nào. (Kỹ năng phân tích cá tính)

Làm chủ các tài năng tinh thần như trí hiểu, trí nhớ, trí tưởng tượng, ý chí qua việc tích cực học hành, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đào tạo năng khiếu chuyên môn để trở thành những người có khả năng sống tự lập, làm sáng danh Chúa và mang lại hạnh phúc cho con người (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 15). (Kỹ năng học hành, kỹ năng đọc sách báo)

Làm chủ sức khoẻ, các bản năng và tình cảm bằng đời sống điều độ trong việc ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, vui chơi với những giờ thể dục, thể thao để luyện một ý chí vững vàng trong một thân thể khoẻ mạnh. Tập luyện để sống quảng đại, vui tươi, khiêm tốn, dũng cảm, biết tha thứ, biết nhường nhịn vì Thiên Chúa hiểu rõ lòng con người và sẽ bù đắp cho con người hơn cả điều lòng họ ước mong. (Kỹ năng luyện ý chí, làm chủ tình cảm)

Làm chủ thời giờ: thời giờ là hồng ân và cũng là vốn liếng Chúa trao ban nên quý trọng từng giây phút sống trên đời. Một nụ cười, một lời cám ơn, xin lỗi, một cử chỉ đẹp chỉ tốn một vài giây sống nhưng sẽ làm cho đời mình và đời người hạnh phúc nên không để mất giây phút nào mà không sống đẹp, sống bác ái, sống hào hùng. Mỗi giây phút đều có giá trị vĩnh hằng vì Ngôi Lời làm người đã biến đổi tất cả những giá trị con người thành cao cả, vô biên (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 22). (Kỹ năng tổ chức và quản lý đời sống, lập chương trình, kế hoạch cho năm, tháng, sử dụng lịch để bàn)

Làm chủ các phương tiện vật chất như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, quần áo, đồ dùng để bảo đảm cho mình những điều kiện cần thiết cho đời sống độc lập, tự do, hạnh phúc (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 176). Tuy nhiên, của cải không phải chỉ làm lợi cho người sở hữu mà còn phải làm lợi cho người khác vì Thiên Chúa ban trái đất chung cho mọi người (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 177). Đó là mục tiêu phổ quát của các phương tiện vật chất và nhờ đó tạo ra một thế giới công bằng và liên đới (x. Tóm lược HTXH của GHCG, số 174). Người sở hữu vật chất còn được mời gọi để sống tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu Kitô, Người giàu có vô song nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó để chúng ta trở thành giàu có như Người (x. 2Cr 8,9). (Kỹ năng sử dụng vật chất, làm sổ chi tiêu)

Đào tạo lương tâm ngay chính: con người khám phá tận đáy lòng mình lương tâm như một lề luật phải theo, như một tiếng nói của Thiên Chúa kêu gọi con người phải yêu mến và làm điều thiện cũng như phải tránh những điều ác (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 16). Tuân theo lề luật ấy là tuân theo các giá trị đạo đức đặt nền móng trên luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm con người, nhờ đó phẩm giá con người được nâng cao và xã hội được ổn định (x. CĐ Vat.II, Gaudium et Spes, số 20). (Kỹ năng lắng nghe tiếng lương tâm ngay chính)

3.2.2. Củng cố hệ thống bác ái xã hội trong Giáo hội Việt Nam

Trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, đồng thời luôn mở rộng cho những đường hướng mới mẻ do Chúa Thánh Thần soi sáng, người tín hữu cũng như các tổ chức, cộng đồng của GHVN được mời gọi thể hiện sứ mạng phục vụ con người qua những điểm cơ bản:

* Đào tạo nhân sự

Hiện nay GHVN có nguồn nhân lực rất phong phú với 42 giám mục, 3.500 linh mục, 16.000 tu sĩ nam nữ, 3.000 chủng sinh và dự tu, 57.000 giáo lý viên, chưa kể hàng trăm ngàn đoàn viên của các đoàn thể Công giáo Tiến hành như Thiếu nhi Thánh Thể, Giới trẻ Con Đức Mẹ, Legio Mariae, Liên minh Thánh Tâm, Gia đình Phạt tạ, các Bà mẹ Công giáo, Dòng Ba Đa Minh, Dòng Ba Phan Sinh, Dòng Ba Cát Minh, Gia đình Cùng theo Chúa, Gia đình Khôi Bình, Gia đình Nagia… Nếu UBBAXH biết soạn sẵn các tài liệu và mở khoá huấn luyện để đào tạo con người Việt Nam và giáo huấn xã hội của Giáo Hội cho các tín hữu này, họ sẽ trở thành các tác viên xã hội tích cực, năng động và làm việc có hiệu quả.

GHVN có một tổ chức quy củ với kỷ luật chặt chẽ từ cấp HĐGM đến giáo phận với hội đồng mục vụ, và giáo xứ với hội đồng mục vụ giáo xứ. Tính kỷ luật cao sẽ giúp cho việc đào tạo nhân sự dễ dàng và thực hiện các dự án về BAXH.

Cần phải đào tạo về nghiệp vụ đủ loại trong nhiều lĩnh vực xã hội cho các tác viên xã hội. Lòng nhiệt thành và tình yêu thương đồng loại cần thiết nhưng chưa đủ. Nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân ưu tuyển mới chỉ biết hăng hái trong việc từ thiện, nhưng trong lĩnh vực BAXH lại yếu kém về kỹ năng làm việc theo nhóm, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, viết và kiểm tra các dự án, truyền thông, chưa kể các kỹ năng chuyên môn khác như tham vấn tâm lý cho các loại nạn nhân xã hội khác nhau…

* Mở rộng hoạt động xã hội

GHVN cần sống tinh thần nhập thể và nhập thế của Ngôi Lời Thiên Chúa để mở rộng hoạt động xã hội và dấn thân vào nhiều lĩnh vực mới mẻ của xã hội như y tế, giáo dục, thể thao, văn hoá, nghệ thuật, truyền thông bằng cách thiết lập các uỷ ban mới trong HĐGM thay vì dồn gánh nặng lên UBBAXH như hiện nay. Những uỷ ban mới với những nhân sự mới sẽ có nhiều hoạt động đa dạng, hiệu quả và chuyên môn hơn.

GHVN nên can đảm nhận lãnh vai trò tiên phong của mình để xây dựng cho dân tộc và cộng đồng nhân loại vì Giáo Hội đã có cả một kho tàng giáo thuyết đúng đắn so với các tôn giáo khác. Trong quá khứ, chính GHVN đã đi tiên phong trong việc đổi mới xã hội Việt Nam về mặt xã hội như: bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em khỏi nạn “bán vợ, đợ con”, bình đẳng giới, bình đẳng nhân phẩm, hô hào cắt bỏ búi tóc, móng tay dài, mặc âu phục, gia đình một vợ một chồng, học chữ Quốc Ngữ… thì GHVN hiện nay cũng phải tích cực xây dựng một nền văn hoá mới, những cách suy nghĩ và lối sống mới để hướng dẫn cộng đồng xã hội, dù có thể gặp khó khăn và bất lợi.

GHVN, thông qua các uỷ ban giám mục, cổ vũ cho các tín hữu Việt Nam tinh thần tự nguyện dấn thân và tích cực làm chứng cho Đức Giêsu Kitô bằng các hoạt động BAXH khi liên kết với các tổ chức ngoài Công giáo và với các tôn giáo khác.

* UBBAXH-Caritas Việt Nam tin cậy vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa

UBBAXH-Caritas Việt Nam không cậy dựa vào tiền bạc giúp đỡ của các tổ chức hay tài năng của con người, nhưng trên hết, tin cậy vào ân sủng, quyền năng và nhất là tình thương của Thiên Chúa mà con người có thể đóng góp vào để thể hiện tình bác ái cho nhau (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Quy chế, Điều 15, tr. 35). Vì thế, UBBAXH-Caritas Việt Nam khuyến khích mọi hội viên sống kết hợp với Thiên Chúa và hiệp thông với Giáo Hội (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Nội quy, Điều 2 và 3, tr. 41-42).

UBBAXH-Caritas Việt Nam không chủ trương xây dựng nhiều cơ sở bác ái để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng cổ vũ linh đạo bác ái (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Nội quy, Điều 1, tr. 37-40) như là nền tảng để giải quyết các vấn đề này. Thật ra, các vấn đề xã hội đều phát xuất từ chính lòng con người vì trong cuộc đấu tranh giữa cái đúng và sai, giữa cái thiện và ác, giữa cái đẹp và xấu, nếu con người ý thức và chọn lựa Thiên Chúa là nguồn chân thiện mỹ, con người đã giải quyết cơ bản rất nhiều vấn đề xã hội rồi. Do đó, Caritas Việt Nam quan tâm hơn đến việc giáo dục con người toàn diện để xây dựng cho con người, nhất là cho giới trẻ, một nền nhân bản tâm linh và nền văn minh tình yêu.

* UBBAXH-Caritas Việt Nam tin cậy vào nội lực của đồng bào Việt Nam

Người Việt Nam rất trọng nhân nghĩa và tình đồng bào nên rất quảng đại trong các hoạt động từ thiện. Các hoạt động bác ái được phát động trong cả nước để cứu giúp các nạn nhân thiên tai, nạn nhân xã hội hay gặp cảnh khốn cùng trong bao năm qua đã chứng tỏ điều đó. Vì thế, UBBAXH-Caritas Việt Nam dựa vào nội lực của dân tộc để thực hiện các dự án xã hội trong cũng như ngoài nước với tinh thần tự lập và tự trọng của người Việt Nam (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Nội quy, Điều 1, tr. 37-40).

* Cổ vũ sự tham gia của cộng đồng

Để giải quyết các vấn đề xã hội trong địa phương, trước tiên chính cộng đồng người dân trong địa phương đó phải ý thức vấn đề của mình rồi cùng bàn thảo, đưa ra những việc cần làm. Chính họ là người xây dựng nên những dự án ở địa phương, đóng góp nguồn lực để thực hiện những dự án đó và kiểm tra việc sử dụng nguồn lực cũng như đánh giá việc thực hiện dự án. Đây là sự tham gia của cộng đồng theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Quy chế, Điều 15, tr. 35).

UBBAXH-Caritas Việt Nam là một tổ chức của cộng đồng, của quần chúng, bao gồm nhiều hội viên và tình nguyện viên trong một địa phương cụ thể là giáo phận, giáo hạt, giáo xứ, trong đó Caritas giáo xứ là cơ bản và là điểm xuất phát các chương trình hành động.

Chúng ta có thể minh hoạ bằng thí dụ sau đây: Việt Nam có cả triệu ca phá thai mỗi năm. Muốn ngăn ngừa tệ nạn phá thai, UBBAXH-Caritas Việt Nam không thể đủ tiền bạc và nhân sự để xây dựng và quản lý hàng ngàn nhà mở, đón nhận và nuôi dưỡng hàng trăm ngàn phụ nữ để giáo dục họ giữ thai lại, không thể đủ tiền để dạy nghề cho họ hay nuôi giữ con cái họ.

Muốn đạt kết quả ngăn ngừa phá thai và bảo vệ sự sống, UBBAXH-Caritas Việt Nam chủ trương cần phải gây ý thức trong cộng đồng tín hữu về một tình yêu trong sáng và quảng đại, về cách chăm sóc sức khoẻ sinh sản, về các phương pháp ngừa thai được Giáo Hội cho phép như phương pháp Billings để những người làm cha mẹ có thể sinh con với tất cả ý thức trách nhiệm khi làm chủ được định luật tâm sinh lý. Phương pháp này, nhờ những khám phá khoa học mới đây, thật sự là phương pháp có hiệu quả cao trong việc kế hoạch hoá sinh sản. Hơn nữa, nếu dạy cộng đồng tín hữu biết tôn trọng, tha thứ, yêu thương các bà mẹ lỡ lầm thì họ sẽ không cảm thấy bị hất hủi khi mang thai, từ đó họ mới giữ con lại. Rồi nếu các phụ nữ ấy được cộng đồng bảo đảm sẽ chung sức nuôi dưỡng con cái của họ, họ sẽ cảm thấy rất an tâm sống giữa cộng đồng. Lúc đó người Công giáo sẽ trở thành gương sáng cho anh em lương dân để xây dựng thật sự nền nhân bản tâm linh vì đã tôn trọng sự sống con người.

Đối với các vấn đề xã hội khác như phòng chống ma tuý (200.000 người), HIV/AIDS (300.000 người), khuyết tật (5 triệu người)… UBBAXH-Caritas Việt Nam cũng chủ trương dựa vào cộng đồng để đào tạo nhân sự chuyên môn cho các giáo phận, giáo xứ thay vì đứng ra trực tiếp xây dựng các cơ sở xã hội và quản lý các cơ sở ấy.

3.2.3. Củng cố tổ chức Caritas Việt Nam

Caritas Việt Nam đã được phép hoạt động chính thức từ 2-7-2008. Cần thiết lập tổ chức này trong toàn hệ thống Giáo Hội từ cấp quốc gia đến giáo tỉnh, giáo phận, giáo hạt và giáo xứ như một phương tiện thể hiện lòng bác ái Chúa Kitô cho mọi người.

Caritas Việt Nam với quy chế, mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc và đường hướng hoạt động BAXH, sẽ là một tổ chức do chính HĐGM quản lý và hướng dẫn để thúc đẩy tinh thần hoà nhập với hoạt động bác ái của Giáo Hội toàn cầu.

Qua Caritas Việt Nam, GHVN sẽ biểu lộ sự trưởng thành cả về nhân sự lẫn nguồn lực với sự tự nguyện và ý thức đóng góp cho các hoạt động BAXH hằng tháng, hằng quý, hay hằng năm. Người tín hữu Việt Nam thấy rằng mình có thể chia sẻ cho những người anh em nghèo khổ khác trên toàn thế giới, thay vì phải đi xin trợ giúp về tài chính cho các dự án như trước đây.

Caritas Việt Nam sẽ không chiếm độc quyền hay dùng ưu thế để lấn át các tổ chức BAXH khác, nhưng tôn trọng sự độc lập của tất cả các tổ chức đúng đắn trong lĩnh vực này. GHVN nên khuyến khích các tổ chức tự nguyện khác của người giáo dân để có thể tham gia vào sứ mạng phục vụ con người.

Caritas Việt Nam nên chọn và tập trung sức lực vào một số lĩnh vực chuyên môn để xây dựng một số những chương trình cụ thể, cần thiết như cho giới trẻ, phụ nữ và trẻ em, người có HIV/AIDS, người nghiện ma tuý, nạn nhân thiên tai, bảo vệ môi trường. Caritas không dàn trải hoạt động ra quá nhiều lĩnh vực trong xã hội như xây dựng và quản lý các cơ sở xã hội, nhà dưỡng lão, nhà tình thương…

* Xây dựng Caritas Giáo xứ

Trọng tâm hoạt động của Caritas Việt Nam trong 5 năm đầu tiên (2008-2013) là xây dựng được cơ cấu sinh hoạt của Caritas ở giáo xứ bằng những phương cách sau đây:

Giới thiệu Caritas Việt Nam như một tổ chức BAXH và như một hiệp hội Công giáo Tiến hành tại các giáo xứ để mời gọi tín hữu cùng tham gia bằng các buổi nói chuyện, phân phát tờ bướm, cẩm nang, giới thiệu Quy chế và Nội quy Caritas Việt Nam, viết bài giới thiệu trên các websites Công giáo.

Giới thiệu Caritas Việt Nam cho các linh mục, tu sĩ để mời gọi tham gia tích cực qua các buổi họp mặt, tĩnh tâm, thường huấn.

Mời gọi các linh mục quản xứ giới thiệu Caritas Việt Nam cho tín hữu trong xứ đạo để gây ý thức về hoạt động bác ái là trách nhiệm của từng tín hữu và cũng là trách nhiệm của Giáo Hội.

* Xây dựng Caritas Giáo phận

Trong thời hạn 2 năm, sau Hội nghị Ra Mắt Caritas Việt Nam (2008-2010), mỗi Giáo phận thiết lập được văn phòng Caritas giáo phận, có nhân viên làm việc, có phương tiện hoạt động, nhân viên được trả lương. Caritas Giáo phận có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề xã hội của giáo phận, đề xuất những dự án, thực hiện các hoạt động BAXH của giáo phận (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Quy chế, Điều 13, tr. 32).

Caritas Giáo phận thúc đẩy việc giới thiệu Caritas Việt Nam tại các giáo xứ và đưa sinh hoạt BAXH thành hoạt động thường xuyên trong giáo phận bằng cách tổ chức các khoá tập huấn cho các hội viên của giáo xứ học hỏi về thể thức thành lập, cơ cấu tổ chức ở giáo xứ, việc quản lý nhân sự và nguồn lực, việc xây dựng các dự án nhỏ, học hỏi về cách quản trị tài chính, về nội quy…

* Củng cố Caritas Việt Nam ở Trung ương

Cố gắng hoàn thiện cơ cấu tổ chức và điều hành Văn phòng Trung ương của Caritas Việt Nam như điều 11 và 12 của bản Quy chế ấn định, nhất là thiết lập các phòng ban chuyên môn.

Văn phòng Trung ương thực hiện “Dự án Thành lập Mạng lưới của Caritas Việt Nam tại các giáo phận” trong thời hạn 3 năm để chuyển giao các phương tiện làm việc và đào tạo nhân sự cho các giáo phận.

Văn phòng Trung ương tập trung vào việc đào tạo nhân sự cho các giáo phận bằng các khoá tập huấn như: tổ chức và quản lý nhân sự, tổ chức và quản lý phương tiện, nguồn lực; học thuyết xã hội Công giáo, viết và quản lý dự án, nghiên cứu các vấn đề xã hội, phòng chống HIV/AIDS, cắt cơn và phục hồi cho người nghiện ma tuý, giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ, sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, giảm thiểu thiệt hại thiên tai nhờ cộng đồng…

Văn phòng Trung ương nghiên cứu về việc đào tạo con người Việt Nam với các kỹ năng sống cũng như về một số vấn đề xã hội đặc biệt ở Việt Nam để có thể biên soạn, cung cấp tài liệu hướng dẫn và học hỏi cho các Caritas Giáo phận, chủng viện, dòng tu, các tổ chức trong mạng Caritas Quốc tế.

Văn phòng Trung ương phối hợp với các tổ chức khác để thực hiện một số dự án ở tầm mức quốc gia cũng như giới thiệu dự án của các Caritas Giáo phận cho các tổ chức này (x. Cẩm nang Caritas Việt Nam, Quy chế, Điều 13, tr. 32).

KẾT LUẬN

Sau khi nhìn lại sứ mạng phục vụ con người trong lĩnh vực BAXH của GHVN trong 50 năm qua, và giới thiệu một vài nét định hướng cho hoạt động BAXH trong thời gian tới, căn cứ vào tình trạng xã hội Việt Nam hiện nay, chúng ta muốn dâng lên tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã hướng dẫn GHVN trong dòng lịch sử dân tộc. Qua những hoạt động BAXH của người tín hữu, dân tộc Việt Nam trong mấy thế kỷ qua đã thật sự đổi mới. Chính khi phục vụ con người, GHVN đã tìm ra con đường dẫn mình đến với Đức Giêsu Kitô cũng như đến với xã hội loài người để trở thành hiện thân của Người.

Chúng ta hy vọng rằng GHVN, qua những hoạt động BAXH, sẽ tiếp tục công trình yêu thương này của các tiền nhân để đổi mới xã hội hôm nay và làm cho ơn cứu độ trở thành hiện thực cho con người.

Bấy giờ Giáo Hội, giống như Đức Giêsu Kitô, lại trở thành con đường dẫn con người tới Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc và sự sống vĩnh hằng.