Theo tin Thượng Hội Đồng về tính đồng nghị, sáng ngày 23 trong cuộc họp toàn thể của Phiên đầu trong diễn trình Thượng Hội Đồng về tính đồng nghị, linh mục Ormond Rush, người Úc, đã trình bầy với cuộc họp về tường trình tóm tắt các cuộc thảo luận từ đầu đến nay. Sau đây là nguyên văn bài trình bầy của ngài, dựa vào bản tiếng Anh do Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội Đồng cung cấp:



Sau khi lắng nghe quí vị trong ba tuần qua, tôi có ấn tượng rằng một số qúi vị đang lao đao với ý niệm về truyền thống, dưới ánh sáng tình yêu chân lý của các quí vị. Qúi vị không phải là người đầu tiên lao đao với điều này. Đó là một điểm thảo luận chính tại Công đồng Vatican II. Tôi nghĩ có thể sẽ hữu ích nếu nhớ lại những câu hỏi họ đã tranh luận và những câu trả lời họ đã đưa ra. Đối với chúng ta, câu trả lời của họ là thẩm quyền hướng dẫn suy gẫm của chúng ta về các vấn đề mà chúng ta phải đối diện ngày nay. Vì vậy, có lẽ Vatican II có một số bài học cho Thượng Hội đồng này, khi giờ đây qúi vị tổng hợp sự phân định của qúi vị về tương lai của Giáo hội.

Trong bốn phiên họp của Công đồng, một trong những điểm căng thẳng chính thường xuyên xảy ra là vấn đề “truyền thống”. Trong phiên họp đầu tiên năm 1962, một bản thảo đã được trình lên phiên họp về “các nguồn mặc khải”; nó được sắp xếp theo các phạm trù của chủ nghĩa tân kinh viện, vốn nói về sự mặc khải, đức tin, kinh thánh và truyền thống theo cách hầu hết một chiều: chỉ dưới dạng các tuyên bố tín lý có tính định đề. Khi được đưa ra công đồng, các giám mục hầu như đã bác bỏ nó. Ngày hôm sau, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đồng ý thực sự cần có một bản văn mới. Về ý nghĩa lịch sử của cuộc tranh luận này, cũng như quyết định can thiệp của Đức Giáo Hoàng, chuyên viên công đồng Joseph Ratzinger đã viết vào thời điểm đó:

"Câu hỏi thực sự đằng sau cuộc thảo luận có thể được đặt ra theo cách này: Liệu quan điểm trí thức của “phong trào phản duy hiện đại” - chính sách cũ về độc quyền, lên án và bảo vệ dẫn đến sự phủ nhận gần như loạn thần kinh đối với tất cả những gì mới - có nên tiếp tục hay không? Hoặc liệu Giáo hội, sau khi đã thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa cần thiết để bảo vệ đức tin, sẽ lật sang trang mới và bước vào một cuộc gặp gỡ mới và tích cực với nguồn gốc của chính mình, với [đồng loại] và với thế giới ngày nay? Vì phần lớn các nghị phụ đã chọn giải pháp thứ hai, nên chúng ta thậm chí có thể coi Công đồng như một sự khởi đầu mới. Chúng ta cũng có thể nói rằng với quyết định này đã có một bước tiến lớn so với Công đồng Vatican I. Cả Công đồng Trent và Công đồng Vatican I đều đã thiết lập những bức tường thành để bảo đảm và bảo vệ đức tin; Công đồng Vatican II chuyển sang một nhiệm vụ mới, xây dựng trên công việc của hai Công đồng trước đó". (1)

Nhiệm vụ mới đó là sự gắn kết giữa đức tin Kitô giáo với lịch sử. Điều mà Joseph Ratzinger nhìn thấy trong Vatican II như là nguồn gốc của sự căng thẳng ở đây về cơ bản là hai cách tiếp cận truyền thống. Ngài gọi chúng là cách hiểu “tĩnh” về truyền thống và cách hiểu “động”. (2) Cách hiểu trước mang tính duy pháp lý, định đề và phi lịch sử (tức là phù hợp với mọi thời gian và địa điểm); cái sau mang tính duy bản vị, bí tích và bắt nguồn trong lịch sử, và do đó phải được giải thích với ý thức lịch sử. Cách trước có xu hướng tập trung vào quá khứ, cách sau nhìn thấy quá khứ được hiện thực hóa trong hiện tại, nhưng vẫn mở ra một tương lai vẫn chưa được tiết lộ. Công đồng đã sử dụng cụm từ “truyền thống sống động” để mô tả truyền thống sau (Dei Verbum, 12). Khi nói về cách hiểu năng động chứ không phải tĩnh tại về “truyền thống tông đồ”, Dei Verbum 8 dạy: “Truyền thống xuất phát từ các tông đồ tạo nên sự tiến bộ [proficit, “phát triển”] trong giáo hội, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Có sự tăng trưởng trong cái nhìn thông sáng về các thực tại và những lời nói đang được truyền lại.” Và nó tiếp tục nói về ba cách liên hệ qua lại với nhau mà qua đó Chúa Thánh Thần hướng dẫn sự phát triển của truyền thống tông đồ: công việc của các nhà thần học; kinh nghiệm sống của tín hữu; và sự giám sát của huấn quyền. Nghe giống như một Giáo Hội đồng nghị phải không?

Theo một sự hiểu biết năng động về truyền thống, Ratzinger nói: “Không phải tất cả mọi điều hiện hữu trong Giáo hội vì lý do đó đều phải là một truyền thống hợp pháp; nói cách khác, không phải mọi truyền thống nảy sinh trong Giáo hội đều là việc cử hành thực sự và giữ cho mầu nhiệm Chúa Kitô hiện diện. Có một truyền thống xuyên tạc cũng như hợp pháp… Do đó, truyền thống không thể chỉ được xem xét một cách khẳng định mà còn phải được xem xét một cách phê phán; chúng ta lấy Kinh Thánh làm tiêu chuẩn cho sự phê bình không thể thiếu này đối với truyền thống, và do đó, truyền thống phải luôn liên hệ ngược lại với nó và đo lường bằng nó.” (3) Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ám chỉ đến hai cách hiểu khác nhau về truyền thống này, nhân dịp kỷ niệm 25 năm việc ban hành Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo: “Truyền thống là một thực tế sống động và chỉ có một cái nhìn phiến diện coi ‘kho tàng đức tin’ là một điều gì đó tĩnh tại. Lời Chúa không thể bị đóng băng như một tấm chăn cũ để xua đuổi côn trùng! Không. Lời Chúa là một thực tại năng động và sống động đang phát triển và tăng trưởng vì nó hướng tới một sự hoàn thành mà không ai có thể ngăn cản được”.4

Trọng tâm của việc Dei Verbum khôi phục lại một cách hiểu năng động về truyền thống là việc nó khôi phục lại một cách hiểu mang tính duy bản vị về mạc khải, như được tìm thấy trong Kinh thánh và trong các tác phẩm giáo phụ của những thế kỷ đầu của Giáo hội. Mặc khải không chỉ là sự truyền đạt các chân lý về Thiên Chúa và đời sống con người, được trình bày rõ ràng trong Kinh thánh và trong các tuyên bố về tín lý vào những thời điểm cụ thể trong lịch sử Giáo hội, để trả lời các câu hỏi có điều kiện thời gian được đặt ra cho truyền thống. Mặc khải chủ yếu là sự truyền đạt tình yêu của Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần. Dei Verbum nói về sự mặc khải của Thiên Chúa dưới dạng tình bạn và sự gặp gỡ bản thân, đặc biệt là về tình yêu và sự thật. Tôi xin trích dẫn Dei Verbum 2: “Như vậy, qua mạc khải này, Thiên Chúa vô hình, từ tình yêu trọn vẹn của mình, ngỏ lời với các người đàn ông và đàn bà như bạn hữu của mình, và sống giữa họ, để mời và đón nhận họ vào tình đồng hành của Người… do đó, sự thật sâu sắc nhất [intima veritas] được mặc khải về Thiên Chúa và ơn cứu độ con người chiếu sáng cho chúng ta nơi Chúa Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là trọn bộ mạc khải.”

Trong Dei Verbum – và điều này rất quan trọng để hiểu tính đồng nghị và chính mục đích của Thượng Hội đồng này – sự mặc khải thần thiêng này được trình bày như một cuộc gặp gỡ đang diễn ra trong hiện tại, chứ không chỉ là một điều gì đó đã xảy ra trong quá khứ. Biến cố Thiên Chúa tự mạc khải (luôn luôn ở trong Chúa Kitô, qua Chúa Thánh Thần) và việc Thiên Chúa cung ứng mối quan hệ, tiếp tục là một thực tại sống động ở đây và bây giờ. Điều đó không có nghĩa là có thể có một sự mặc khải mới nào đó về Thiên Chúa là ai. Tuy nhiên, cùng một Thiên Chúa, trong cùng một Chúa Giêsu Kitô, qua sự soi sáng và ban sức mạnh của cùng một Chúa Thánh Thần, luôn tiếp xúc và đối thoại với con người trong cái mới luôn luôn ở đây và bây giờ của lịch sử không ngừng đưa nhân loại vào những tri nhận mới, những câu hỏi mới và những hiểu biết thông sáng mới, trong các nền văn hóa và nơi chốn đa dạng, khi Giáo Hội thế giới xuyên thời gian tiến vào một tương lai không xác định cho đến cánh chung [eschaton].

Chúng ta thấy bản chất hiện tại này của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người trong Dei Verbum 8: “Thiên Chúa, Đấng đã phán trong quá khứ, vẫn tiếp tục đối thoại với hiền thê của Con yêu dấu của Người [Giáo hội]. Và Chúa Thánh Thần, qua Người, tiếng nói sống động của Tin Mừng vang lên trong Giáo hội - và qua Giáo hội trên thế giới - dẫn các tín hữu đến chân lý trọn vẹn và làm cho lời của Chúa Kitô ngự trong họ với tất cả sự phong phú của nó.” Do đó, theo Joseph Ratzinger, trong Dei Verbum, chúng ta được ban cho “một sự hiểu biết về mạc khải được coi một cách cơ bản như một cuộc đối thoại… Việc đọc Kinh thánh được mô tả như một colloquium inter Deum et hominem [một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người] … Cuộc đối thoại của Thiên Chúa luôn được tiếp tục trong hiện tại… với mục đích buộc chúng ta phải đáp lại.” (5)

Thượng Hội đồng này là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Đó chính là đặc ân và thách thức cho “những cuộc đàm luận trong Thánh Thần” của qúi vị. Chúa đang chờ đợi câu trả lời của qúi vị. Vào cuối tuần tổng hợp này, qúi vị có thể muốn bắt đầu phần tổng hợp đó bằng cách nói, giống như Công đồng Giêrusalem đầu tiên, được mô tả trong Công vụ 15: “Chúa Thánh Thần và chúng tôi thấy điều đó…” Vào thời của họ, lá thư của họ gửi cho các giáo hội sau đó tiếp tục đề cập đến một vấn đề mà chính Chúa Giêsu đã không để lại chỉ dẫn cụ thể nào. Họ và Chúa Thánh Thần cùng nhau phải đi đến một sự thích ứng mới với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô liên quan đến câu hỏi mới đó, điều chưa từng được dự tính trước đây.

Do đó, Vatican II kêu gọi Giáo hội luôn chú ý đến các chuyển động của Thiên Chúa mạc khải và cứu rỗi hiện diện và hoạt động trong dòng chảy lịch sử, bằng cách chú ý đến “các dấu chỉ của thời đại” dưới ánh sáng của Tin Mừng sống động. (6) Phân định các dấu chỉ của thời đại trong hiện tại tìm cách xác định điều Thiên Chúa đang thúc giục chúng ta nhìn thấy – bằng con mắt của Chúa Giêsu – trong thời đại mới; nhưng cũng thúc giục chúng ta chú ý đến những cạm bẫy - nơi chúng ta có thể bị lôi kéo vào những lối suy nghĩ không phải “của Chúa”. Những cái bẫy này có thể nằm ở chỗ chúng chỉ được neo trong quá khứ, hoặc chỉ ở hiện tại, hoặc không mở ra cho sự thật trọn vẹn trong tương lai của Chúa mà Thánh Thần Chân lý đang dẫn dắt Giáo hội hướng tới. Phân định sự khác biệt giữa cơ hội và cạm bẫy là nhiệm vụ của tất cả các tín hữu – giáo dân, giám mục và thần học – mọi người, như Gaudium et Spes 44 dạy: “Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, đó là nhiệm vụ của toàn thể dân Chúa, đặc biệt của các mục tử và các nhà thần học, lắng nghe, phân định và giải thích nhiều tiếng nói của thời đại chúng ta, và phán xét chúng dưới ánh sáng của lời Chúa, để sự thật được mặc khải đó luôn có thể được thấm nhuần sâu sắc hơn, được hiểu rõ hơn và đạt được lợi thế lớn hơn.” (7) “Chân lý được mặc khải” đó là một bản vị, Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, khi chúng ta tiến tới việc phân định tổng hợp cuối cùng của mình, ước gì chúng ta được hướng dẫn bởi lời huấn thị của Thư gửi tín hữu Do Thái 12: 2: “Chúng ta hãy chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu”.
_________________________________________________________________________________________________

1.Joseph Ratzinger, Theological Highlights of Vatican II [Những điểm nổi bật về thần học của Vatican II] (New York: Paulist Press, 2009), 44.

2.Xem toàn bộ Joseph Ratzinger, "Chapter II: The Transmission of Divine Revelation," [Chương II: Truyền tải Mặc khải của Thiên Chúa] trong Commentary on the Documents of Vatican II [Chú giải các Văn kiện của Vatican II] Tập 3, Herbert Vorgrimler biên tập (New York: Herder, 1969), 181-98.

3. Cùng nguồn, 185. Sự can thiệp của Meyer có thể được tìm thấy trong AS III/3, 150–51. Để có bản dịch tiếng Anh bài phát biểu của ngài, xem Albert Cardinal Meyer, "The Defects of Tradition," [Những khiếm khuyết của truyền thống] trong Third Session Council Speeches of Vatican II [Các bài phát biểu của Phiên họp thứ ba của Vatican II], William K. Leahy và Anthony T. Massimini biên tập (Glen Rock, N.J.: Paulist Press, 1966), 79–80.

4 https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2017/october/documents/papafrancesco_20171011_convegno-nuova-evangelizzazione.pdf [Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022].

5 Ratzinger, “Chương I: Chính Mặc Khải,” 171.

6 Gaudium et Spes, §4. Xem thêm Gaudium et Spes, §11.

7 Gaudium et Spes, §44.

Meyer, Hồng Y Albert. "The Defects of Tradition." [Những khiếm khuyết của truyền thống] Trong Third Session Council Speeches of Vatican II [Các bài phát biểu của Phiên họp thứ ba của Vatican II], do William K. Leahy và Anthony T. Massimini biên tập, 79–80. Glen Rock, NJ: Nhà xuất bản Paulist, 1966.

Ratzinger, Joseph. "Chapter I: Revelation Itself." [Chương I: Sự mặc khải của chính nó] Trong Commentary on the Documents of Vatican II. Volume 3 [Bình luận về các Văn kiện của Vatican II Tập 3], do Herbert Vorgrimler biên tập, 170–80. New York: Herder, 1969.

———. "Chapter II: The Transmission of Divine Revelation." [Chương II: Việc truyền tải sự mặc khải thiêng liêng] Trong Commentary on the Documents of Vatican II. Volume 3 [Bình luận về các Văn kiện của Vatican II Tập 3], do Herbert Vorgrimler biên tập, 181-98. New York: Herder, 1969.

———. Theological Highlights of Vatican II [Những điểm nổi bật về thần học của Vatican II]. New York: Nhà xuất bản Paulist, 2009.