Vài gương Thánh Tử Đạo Việt Nam: Những Bậc Thầy

Bài chia sẻ trong giờ Suy Tôn
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Vùng Paris, ngày 14 tháng 11 năm 2010


Kính thưa quí Cha, quí thầy, quí vị tu sỉ;
Thưa quí ông bà cô bác và các em các cháu.

Hôm nay tôi được vinh dự thật lớn đến trình với quí vị vài mẫu chuyện tuyệt vời về các bậc tiền nhân anh dũng và thánh thiện của chúng ta để cùng nhau ta ngắm nhìn một vài trân châu bảo ngọc của đại gia đình giáo hội VN mình.

Vì thời giờ giới hạn, tôi xin chỉ nêu lên một vài tấm gương sống đạo tử đạo của 2 vị trong số 117 ông bà được ĐGH Gioan Phaolô 2 phong thánh ngày 19-6-1988.

Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng long trọng giới thiệu các thánh chúng ta với cả trăm ngàn người có mặt, trước mặt ngoại giao đoàn đại diện cả trăm nước, trước rất nhiều ống kính truyền hình thu cuộc lễ chuyển vào hằng triệu gia đình khắp hoàn cầu. Ngài nói: Các vị thánh Việt nam « là những Bậc Thầy ». Mỗi lần đọc lại mấy lời nầy, trong tai tôi còn vang dội tiếng vỗ tay kéo dài rầm rộ của công trường thánh Phêrô.

Cũng trong mùa phong thánh, khi cộng đoàn Yvelines họp một ngày nghe kể chuyện để học hỏi về các thánh ông bà của chúng ta, có Đức giám mục Charles Thomas của giáo phận Versailles tham dự, vào giờ đúc kết, chính Đức Cha tuyên bố : « Tôi xin được làm học trò của các ông bà thánh thiện của anh chị em».

Những lời từ thật cao đem cho nhiều người niềm vui, hãnh diện khôn tả. Ai ai đều biết các thánh ta, từ linh mục qua thầy giảng, chức sắc, họ đạo, không ai có bằng cấp cao, không ai viết sách dạy đạo hay dạy đời, không ai có lập dòng tu hay hội từ thiện nào…Khác hẳn nhiêu vị thánh khác như Phanxicô, Têrêsa Cả, Augustin hay Têrêsa Hài Đồng đã được tôn là tiến sỉ, là bậc thầy của giáo hội.

Cũng không một vị nào trong các thánh ta được Chúa, Đức Mẹ hay một thiên thần nào hiện ra, dạy dổ, ủi an hay trao cho một sứ mạng đặc biệt như Bernadette ở Lộ-đức, ba trẻ chăn chiên ở Fatima v.v…Từ xa xưa, người ta thường cho rằng chỉ có những ông bà thánh thật sự mới được ơn thấy Chúa, Mẹ hiện ra.

Nhưng xem lại tài liệu xưa, tôi đã say mê như đi vào một kho báu. Không nhọc công lắm vẫn có thể lượm lặt nhiều trân châu bảo ngọc.

Như vài mẫu chuyện vui đem kể ra hôm nay để chúng ta, con cháu các ngài, ta kính, ta yêu, ta suy nghĩ và tự rút bài học noi gương sống đạo tuyệt vời của ông bà thánh thiện đúng theo Tin Mừng Ân Phúc của Thiên Chúa

KHÔNG AI THẤY CHÚA HIỆN RA NHƯNG ĐÃ ĐI TÌM VÀ GẶP CHÚA

Tôi đã thưa quí vị sẽ không thấy một vị nào được Chúa hiện ra dạy bảo như một số các thánh khác. Nhưng, ngồi ngay dưới ánh sáng Phúc âm, phải có thể thấy rõ các ngài đã ôm một trái tim bừng cháy mà đi tìm Chúa. Tìm và gặp. Gặp rồi chính tay mình dọn cơm nấu cháo, kho cá cho Chúa ăn, pha trà, sắc thuốc bưng tận miệng Chúa uống, giặt giủ áo quần cho Chúa, và cũng có khi cạo gió, đấm bóp cho Chúa theo cách người VN mình.

Người VN nhân lành, Thánh Hồ Đình Hy (1808-1857)

Ta thữ tưởng tượng Thánh Luca, vị thánh sử viết truyện ‘Người Samaritanô nhơn lành’ (Lc 10, 30-37) và Matthieu, vị thánh sử viết truyện ngày phán xét (Mt 25, 31-46), cùng với hai thánh Gioan và Marcô, cả bốn vị cặp nách 4 quyển Phúc Âm trở lại trên đời nầy, đi một chuyến công tác vòng quanh thế giới.

Để làm gì ? Thưa lập báo cáo về cách người đời sống Phúc âm. Khi đi một vòng trên đất nưóc VN, Thánh Luca không thể nào quên lật lại sách PÂ của ông, chưong 10, từ câu 30 đến 37 để cả 4 ông cùng đọc lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về ‘người samaritanô nhân lành’, rồi bàn với nhau xem có người VN nào đem ra áp dụng hay không.

Chắc chắn thánh Luca và ba vi thánh Sử sẽ lưu ý tới một ông quan lớn VN là Hồ Đình Hy mà lòng yêu thương tha nhân đã được thể hiện tuyệt vời, phải nói là hơn người samaritanô xưa nhiều bậc.

Thật vậy, Hồ Đình Hy là quan lớn của triều đình, giàu sang phú quí. Được báo cáo có một cựu quân nhơn bị người ta khinh bỉ, xua đuổi, vì mắc bịnh giang mai ghê tởm (như là sida thời nay), cho nên lang thang rách rưới không còn chỗ tựa nương.- Thì quan lớn, không cần hỏi ‘nó có đạo không ?’ lập tức kêu người ta đưa anh ấy về nhà mình, bất chấp phản đối của vợ con.

Quan có nhiều tiền nhưng không giao y cho một ‘chủ quán’ nào săn sóc giùm, mà quan đem về nhà mình, cho ở một căn sau vườn, vì dầu sao quan cũng phải nể bà lớn phu nhân không chấp nhận cho y ở trong nhà. Rồi vợ con cũng không thèm ngó ngàng gì tới. Còn đầy tớ của quan không chịu phục vụ bất cứ việc gì cho y. Quan lớn đành phải vui lòng đích thân lo việc cơm cháo, thuốc thang cho người xấu số. Rồi còn ra tay lo việc tắm rửa, giặt giủ áo quần cho y. Y như làm cho Chúa (Mt 25,40).

Lòng từ bi thương người của quan lớn HĐHy đã hoán cải con người xấu số và anh ta đã xin được rữa tội theo Chúa Kitô, theo đạo của quan trước khi lìa đời.

Thưa quí vị, sau khi tìm đọc tài liệu quí nầy, tôi trầm ngâm, sung sướng, mắt lim dim trong lơ lững vài phút đẹp mơ, nghe thấy bốn thánh sử hỏi nhau ‘chúng ta sẽ viết tựa đề thế nào để lập báo cáo lên Thầy Chí Thánh về người Việt nam nầy’ ? Và Thánh Luca, tác giả truyện ‘người Samaritanô nhân lành’ đưa tay lên: « tôi lấy tựa: « Người Việt Nam sống Phúc âm tuyệt vời ».Thánh Mathieu thì góp ý: « Bậc Thầy cao vời Sống Phúc Âm ». Nghe tiếng vỗ tay rầm rô của ba thánh sử kia cùng với muôn vàn thần thánh hợp với Thầy Giêsu Chí thánh đã lay động đánh thức, kéo cẳng tôi, kêu tôi tỉnh mộng mau mau đi rủ anh chị em mình lo đăng ký làm học trò của ‘Người VN tuyệt vời’ nầy, đúng là một ‘Bậc Thầy’ tuyệt hảo của thời đại chúng ta.

Người cha nuôi nhân lành, Hồ Đình Hy

Rồi cũng quan lớn HĐHy. Đã xuất sắc đóng vai ‘người samaritanô nhân lành, cãi tiến như vừa kể, thi cũng diễn lại một cách tuyệt vời xuất sắc vai người cha trong dụ ngôn ‘Đứa con hoang đàng’ (Lc 15, 11-32) …….

Trong chuyện sống thật nầy, HĐHy đã làm gương khoan dung thứ tha cho một đứa con vô ơn bạc nghĩa. Mà nó chỉ là một đứa con nuôi, tên là Đạt, mà người ngoài nhìn vô coi như con ‘chuột sa hủ nếp’.

Sung sướng trong nhà quan một thời, đi đâu cũng vênh váo ta con nhà quan, Đạt bị nhều bạn xấu lợi dụng, rủ rê vào đường hoang dâm, trác táng.

Cho đến một ngày. Cạn túi. Rách rưới. Đói khổ. Cái thân tàn ma dại lết về gục ngã sau hè người cha nuôi. Như một nùi giẻ rách.

Van lơn năn nỉ lạy lục đầy tớ nhà quan « anh chị làm ơn, làm phước tâu quan lớn cho tôi vào quì lạy tạ tội » …

-«Dẹp mầy ra đi ! Đồ vô ơn bạc nghĩa ! Ngu hơn con bò ! »…Người nhà quan xua đuổi kẻ mà mấy năm trước họ đã tận tình phuc vụ như ‘cậu ấm’. Có lý thôi !

Đối với đạo đức truyền thống VN vô cùng trọng vọng nhân nghĩa, còn gì đáng ghét, có chi đáng khinh hơn cái thứ vô ơn bạc nghĩa làm hại thanh danh người ơn và gia đình…Vã lại, tên nầy chỉ là con nuôi. Ruột thịt gì mà phải bận tâm. Xã hội nào trách mình độc ác đối với cái thứ người như vậy.

Nhưng suy nghĩ của ông quan công giáo vượt cao nhiều bậc, trái ngược hoàn toàn lý lẽ thường tình của người đời.

Bởi vì người kitôhữu HĐHy nhận thấy nơi đứa con nuôi tội lỗi một con người mà tình ‘thương người như thể thương thân’ của đạo đức dân tộc và của giáo lý Phúc Âm dạy phải nâng đỡ cưu mang, như giúp đỡ chính Thiên Chúa. Bởi vì, trên hết và cần nhứt, có một linh hồn phải cứu vớt, có một hình ảnh Thiên Chúa bị tàn phá cần được phục hồi.

Cho nên HĐHy cho đón về cái xác tả tơi của đứa con nuôi khốn nạn.

Không hạ dê bò mở tiệc mừng, không kêu phường kèn vui ca mừng hát, mà lặng lẻ, y như người cha ruột tràn đầy yêu thương và tha thứ đúng theo Phúc Âm, người cha nuôi tức tốc lo chữa trị thằng con nuôi sa đoạ, chữa trị bịnh thân xác, chỉnh đốn tật linh hồn. Nuôi dưởng, ủi an, vun trồng lại trong óc trong tim người thống hối niềm hy vọng cãi hoá và cứu độ.

Thánh Philip Phan Văn Minh, linh mục (1815-1853)

( theo sách ‘HẠNH Cha MINH và LÁI GẨM Tử đạo là hai vị Á Thánh thứ nhứt Địa phận Nam Kỳ, in lần thứ hai,Tân định 1902) tác giả: L.m Matthêu Đức

Sau hết, xin kể mẫu chuyện nhỏ thôi trong rất nhiều chuyện rất hay về Thánh Philip Phan văn Minh, linh mục.

Đúng là ấn bản mới và cải tiến của dụ ngôn Mục tử nhân lành (Jn 10, 11)

Một hôm, quân lính vây bắt cha Lựu tại nhà ông trùm Lựu tại họ đạo Mặc Bắc ở miền Nam. Nhưng cha Lựu vừa được di chuyển đi nhiệm sở khác, cha Philip Minh thì mới đến thay cho nên chưa được biết tới. Lính liền bắt ông trùm Lựu, tra hỏi dữ tợn, và còn toan làm hổn, hành hung cả bà trùm.

Động lòng trắc ẩn, không muốn vì mình mà giáo dân phải bị hại, cha Minh tự khai tên tuổi và chức phận để nộp mình. Nhưng, thấy vị linh mục trẻ trung, mặt mày khôi ngô tuấn tú, cho nên nghi ngờ và do dự rất lâu trước khi trói cha bắt đi cùng với một số chức sắc họ đạo.

Cha đã noi gương Người mục tử Nhân lành sẳn sành thí mạng vì đoàn chiên’như Chúa đã kể trong Phúc âm. ( th’ Gioan, Jn 10,11).

Tha thứ cho kẻ làm hại mình

Tài liệu xưa cho biết vụ vây bắt Cha Lựu tại nhà ông trùm Lựu là do một Giuđa thời đại tên là Nhẫn cũng là người kitô hữu. Xấu nết, tham tàn, gian dối, y xin xõ, vay mượn khắp nơi để ăn chơi thoả thích. Bị Cha Lựu từ chối cho tiền, y tìm cách tố cáo và ăn tiền của công an để nộp cha. Nhưng chính hôm ấy, cha Minh sập bẫy. Cha Lựu về sau cũng sẽ bị bắt và tử đạo, cũng như ông trùm Lựu và cha Minh.

Nhiều giáo dân vô cùng bực tức cho nên bàn bạc lập kế trừng trị tên phản trắc. Biết được tin nầy, cha Minh vận dụng mọi cách kêu các anh em nầy vào thăm mình và làm mọi cách thuyết phục, khuyên can, nài nỉ họ lấy long quảng đại khoan dung đối với kẻ làm hại mình, đúng theo lời Chúa dạy.

Cha còn nhờ các anh em nhắn tin và giúp cho tên Nhẩn được phép vào thăm cha để cha khuyên lơn dạy dỗ. Trước lòng khoan dung đại lượng của vị mục tử nhơn lành và thánh thiện, tên Nhẩn đã vào lạy cha, tạ tội, và nhiều lần trở lại viếng thăm, nghe lời dạy dổ để hoán cải thành người lương thiện, dứt hẳn thói lưu manh ngang tàn và chấm dứt hẳn mọi cấu kết với phường gian ác.

Phải chăng một phép lạ ?

Cha Minh là một trong ít vị thông minh rất cao, khi chưa làm linh mục đã cọng tác với Đức cha Taberd ba năm liền để hoàn chỉnh cuốn ‘Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị’ (Dictionarium Anamitico-Latinum) (tiếng việt và tiếng latinh) ấn hành năm 1838. Với quyển tư vị nầy, chữ quốc ngữ của chúng ta đã hoàn chỉnh từ đó cho đến ngày nay.

Sử gia Trần Trọng Kim, trong quyển VN Sử lược, II, tr 263, nhìn nhận “Ngày nay cũng nhờ có chữ quốc ngữ ấy mà nuớc ta có một lối chữ riêng rất tiện”.

Về phía Hànội, sữ gia Nguyễn Khắc Viện thuộc Ủy ban Khoa học đã nhìn nhận (mà không bị kiểm duyệt) rằng chữ Việt ngày nay là công trình sáng tạo của người công giáo. « Avec le catholicisme fut créé le quốc ngữ »(Histoire du Vietnam, tr 96, Editions sociales. Paris 1974).

Đọc Hạnh Thánh Minh, chúng ta, con cháu, có thể tự hỏi phải chăng người xưa đã gặp một phép lạ lớn khi cải táng mồ thánh Minh ngày 6 tháng 5 năm 1870, 17 năm sau khi vị thánh tử đạo. Thật vậy, sách kể rằng khi ấy ba vi linh mục thừa sai và hai y sỉ Pháp đã nhận thấy óc của vị Thánh có tên Minh và rất thông minh được Chúa giữ cho còn nguyên vẹn.

Hài cốt được chứng nhận, niêm phong và giao cho nhà dòng Mến Thánh Giá Cái Mơng giữ gìn, cho đến năm 1900 thì đưa về chủng viện Thánh Giuse tại Sàigòn nhơn dịp Phan Văn Minh được phong Chân Phước.

Ước mong quí vị khi có dịp về Sàigòn, đến chủng viện th’Giuse xin kính viếng hài cốt thánh Minh và nhứt là bộ óc còn nguyên của vị thánh.

Kính thưa các Thánh, để kết thúc những phút thân tình hội mừng giờ nầy, con xin thưa rằng, đúng thật, quí thánh đã không ai viết để lại sách vở dạy dỗ chúng con, nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã tôn quí thánh là « Những Bậc Thầy » và còn có ông tây giám mục Charles Thomas « xin được làm học trò » của quí thánh. Bây giờ, cão thơm lần giở trước đèn, chúng con hãnh diện nhận ra gương sống Phúc Âm của quí ngài thật sáng ngời rực rỡ.

Lời nói nào hùng biện hơn, sách báo nào cao siêu bằng, và tình yêu nào quí trọng hơn thí mạng vì yêu, để yêu. Xin giúp chúng con can đảm bưóc đi theo các ngài, không bao giờ lạc khỏi con đường Tin Mừng Ân Phúc, dầu chỉ một centimètre.

Chúng con cũng nguyện cầu các thánh phù hộ đất nước thân yêu không bao giờ trở lại đường xưa lối cũ của thời bách hại đạo Chúa, đường lối mà một nhà cách mạng đáng kính là cụ Phan Bội Châu (1867-1940) đã phê trong quyển ‘Việt Nam Vong Quốc Sử’ là « đáng bỉ hơn hết »… « ức chế dân quyền, coi thường dư luận…thật là dã man, chính giáo, dân quyền càng ngày càng bị tước bớt, công luận không được mở rộng » …đưa đất nước tới chỗ suy đồi và mất vào tay ngoại bang. (‘Việt Nam vong quốc Sữ’ (tr 24-28).

Khẩn cầu các thánh cầu xin Đức Mẹ LaVang của chúng ta đoái thương đến nước Việt Nam của chúng ta./.