Sáng Chúa Nhật 31 tháng Ba, lúc 9:30, Đức Thánh Cha đã viếng thăm trung tâm nông thôn của các dịch vụ xã hội ở Témera.

Sau đó, vào lúc 10:35, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ nam nữ và Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô tại nhà thờ chính tòa giáo phận Rabat.

Lúc 12g, Đức Thánh Cha đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật với mọi người trước khi dùng bữa trưa với đoàn tùy tùng.

Lúc 14:45, Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại Cung thể thao Hoàng Thân Moulay Abdellah ở thủ đô Rabat, cách Tòa Sứ thần Tòa Thánh 8 cây số. Đây là thánh lễ công cộng duy nhất Đức Thánh Cha cử hành tại Marốc.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:


“Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu.” (Lc 15:20).

Trong câu này, Tin Mừng đưa chúng ta đến trung tâm của dụ ngôn, cho thấy phản ứng của người cha khi thấy sự trở về của con trai mình. Xúc động sâu sắc, ông chạy ra gặp anh trước khi anh về đến nhà. Một đứa con trai được mong đợi từ lâu. Một người cha vui mừng khi thấy anh ta trở về.

Đó không phải là lần duy nhất người cha chạy đi chạy lại. Niềm vui của ông sẽ không trọn vẹn nếu không có sự hiện diện của người con trai cả. Thế nên, ông bắt đầu đi tìm anh và mời anh tham gia vào các tiệc mừng (xem câu 28). Nhưng người con trai cả đã tỏ ra buồn bã trước các tiệc mừng em anh trở về. Anh thấy thật khó thông cảm được niềm vui của cha mình; anh ta không chấp nhận sự trở lại của em mình: “thằng con trai của cha”, đó là cách anh gọi em mình (câu 30.). Đối với anh, người em ấy vẫn lạc mất, vì nó đã lạc mất trong tim anh.

Khi không sẵn lòng tham gia các tiệc mừng, người con cả không nhìn nhận em mình đã đành, anh ta cũng không nhìn nhận cả cha mình nữa. Anh thà là một đứa trẻ mồ côi hơn là một người anh. Anh thích sự cô lập hơn sự gặp gỡ, thích cay đắng hơn vui mừng. Không chỉ không thể hiểu hay tha thứ cho người em, anh ta cũng không thể chấp nhận một người cha có khả năng tha thứ, sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi, tin tưởng và tiếp tục tìm kiếm, kẻo có ai đó bị bỏ rơi. Tắt một lời, đó là một người cha có khả năng thương cảm.

Ở ngưỡng cửa của ngôi nhà đó, chúng ta thấy thấp thoáng một cái gì đó trong mầu nhiệm nhân loại chúng ta. Một bên, là tiệc mừng người con đã mất và nay được tìm thấy; và một bên, là cảm giác bị phản bội và phẫn nộ trước tiệc mừng đánh dấu sự trở lại của người đó. Một bên, là sự chào đón dành cho người con trai đã trải qua khổ đau và thương tích, thậm chí đến mức khao khát được ăn cám ném vào cho lợn; và một bên là sự cáu kỉnh và tức giận đối với cái ôm dành cho một người đã chứng tỏ mình không xứng đáng được như vậy.

Những gì chúng ta thấy ở đây một lần nữa là sự căng thẳng mà chúng ta trải nghiệm trong xã hội và trong cộng đồng của chúng ta, và thậm chí trong chính trái tim của chúng ta. Một sự căng thẳng sâu thẳm trong chúng ta kể từ thời Cain và Abel. Chúng ta được mời gọi để đối đầu với nó và xem nó là gì. Bởi vì chúng ta cũng đặt câu hỏi: “Ai là người có quyền ở lại giữa chúng ta, có quyền ngồi đồng bàn với chúng ta và tham dự các cuộc họp của chúng ta, trong các hoạt động và những mối quan tâm của chúng ta, trong các quảng trường của chúng ta và trong các thành phố của chúng ta?” Câu hỏi liên quan đến vụ giết người dường như không ngừng trở lại: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu? “(x St. 4: 9).

Trước ngưỡng cửa của ngôi nhà đó, chúng ta có thể thấy sự chia rẽ và xung đột của chính mình, thái độ hiếu chiến và các cuộc xung đột luôn luôn tìm cách len lỏi trước thềm những lý tưởng cao đẹp của chúng ta, những nỗ lực của chúng ta để xây dựng một xã hội huynh đệ, nơi mỗi người có thể trải nghiệm ngay cả lúc này đây phẩm giá là con cái Chúa.

Tuy nhiên, ở ngưỡng cửa của ngôi nhà đó, chúng ta cũng sẽ thấy tất cả sự rạng ngời tỏ tường trong mong muốn, vô điều kiện và không có ngoại lệ, của người cha sao cho tất cả con cái mình được chia sẻ trong niềm vui của mình, sao cho không ai phải sống trong những điều kiện vô nhân đạo, như đứa con trai nhỏ của ông đã phải chịu, hay phải mồ côi, xa cách và cay đắng như người con cả. Trái tim Cha mong muốn tất cả những người nam nữ đều được cứu rỗi và nhận biết sự thật (1 Tim 2: 4).

Đúng là nhiều tình huống có thể thúc đẩy sự phân chia và xung đột, trong khi lại có những tình huống khác có thể đẩy đưa chúng ta đến chỗ đối đầu và đối kháng. Đó là điều chúng ta không thể phủ nhận. Thông thường, chúng ta bị cám dỗ để tin rằng thù hận và trả thù là những cách thế hợp pháp để bảo đảm công lý nhanh chóng và hiệu quả được thực hiện. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng thù hận, chia rẽ và trả thù chỉ thành công trong việc giết chết linh hồn của người dân chúng ta, đầu độc hy vọng của con cái chúng ta, cũng như phá hủy và quét sạch mọi thứ chúng ta ấp ủ.

Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dừng lại và chiêm ngưỡng tấm lòng của Cha chúng ta. Chỉ từ tầm nhìn đó, chúng ta mới có thể thừa nhận một lần nữa rằng chúng ta là anh chị em với nhau. Chỉ khi dựa trên chân trời rộng lớn đó, chúng ta mới có thể vượt qua những lối suy nghĩ thiển cận và gây chia rẽ của chúng ta, và nhìn mọi thứ theo những cách thế không đánh giá thấp sự khác biệt của chúng ta nhân danh một sự thống nhất bắt buộc, hoặc lặng lẽ gạt người khác ra ngoài lề. Chỉ khi chúng ta có thể hướng mắt nhìn lên thiên đàng mỗi ngày và nói “Lạy Cha chúng con”, chúng ta mới có thể trở thành một phần của một tiến trình có thể giúp chúng ta thấy mọi sự rõ ràng và thoát được nguy cơ sống như kẻ thù với nhau, nhưng như những anh chị em với nhau.

“Tất cả những gì của cha là của con” (Lc 15:31), đó là lời người cha nói với người con cả của ông. Người cha ấy không nói quá nhiều về sự giàu có vật chất, cho bằng việc chia sẻ trong tình yêu và lòng trắc ẩn của chính ông. Đây là di sản và sự giàu có lớn nhất của một Kitô hữu. Thay vì tự đo lường hoặc phân loại bản thân theo các tiêu chí đạo đức, xã hội, dân tộc hoặc tôn giáo khác nhau, chúng ta phải có thể nhận ra rằng tồn tại một tiêu chí khác, một tiêu chí mà không ai có thể lấy đi hoặc phá hủy được vì đó thuần túy là một ơn sủng. Đó là nhận thức rằng chúng ta là những con cái yêu dấu, những người mà Cha đang chờ đợi và cử mừng.

Chúa Cha phán: “Tất cả những gì của cha là của con”, bao gồm cả khả năng trắc ẩn của Cha. Chúng ta đừng rơi vào sự cám dỗ giản lược sự thật chúng ta là những con cái của Ngài thành một vấn đề về các lề luật và quy tắc, các bổn phận và những điều phải tuân giữ. Bản sắc của chúng ta và sứ mệnh của chúng ta sẽ không nảy sinh từ các hình thái của chủ nghĩa duy ý chí, chủ nghĩa duy lề luật, chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa cực đoan, mà là từ việc là các tín hữu hàng ngày cầu xin với lòng khiêm nhường và bền đỗ: “Xin cho Nước Cha trị đến!”

Dụ ngôn Tin Mừng để lại cho chúng ta một kết thúc mở ngỏ. Chúng ta thấy người cha yêu cầu người con cả đi vào và chia sẻ tiệc mừng của lòng thương xót. Tác giả Tin Mừng không nói gì về quyết định của người con cả. Anh ta có tham gia bữa tiệc không? Chúng ta có thể tưởng tượng rằng kết thúc mở này sẽ được viết bởi mỗi cá nhân và cộng đồng. Chúng ta có thể hoàn thành câu chuyện này qua cách chúng ta sống, cách chúng ta nhìn người khác và cách chúng ta đối xử với người lân cận của chúng ta. Người Kitô hữu biết rằng trong nhà của Cha có nhiều phòng: những người duy nhất đứng bên ngoài là những người quyết định không chia sẻ niềm vui của mình.

Anh chị em thân mến, tôi muốn cảm ơn anh chị em vì cách mà anh chị em làm chứng cho Tin Mừng về lòng thương xót ở vùng đất này. Cảm ơn anh chị em đã nỗ lực để làm cho mỗi cộng đồng của anh chị em trở thành một ốc đảo của lòng thương xót. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục để cho văn hóa của lòng thương xót phát triển, một nền văn hóa trong đó không ai nhìn người khác với thái độ thờ ơ, hoặc đảo mắt sang hướng khác trước nỗi đau khổ của họ (xem Misericordia et Misera – Tông thư Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng, 20). Hãy gần gũi với những người bé nhỏ và nghèo hèn, và với tất cả những ai bị từ chối, bị bỏ rơi và không ai đoái hoài đến. Hãy tiếp tục là một dấu chỉ của vòng tay yêu thương của Cha.

Cầu xin Đấng Giàu Lòng Thương Xót Và Trắc Ẩn - như anh chị em Hồi giáo của chúng ta thường cầu khẩn Ngài - củng cố anh chị em và làm cho công việc yêu thương của anh chị em trở nên hiệu quả hơn bao giờ hết.


Source:Libreria Editrice Vaticana