Bối cảnh lịch sử của biến cố Fatima:

Sự bùng nổ của phong trào cộng sản vô thần


(tiếp theo)

2. Học thuyết cộng sản

Dựa trên nền tảng duy vật biện chứng, học thuyết cộng sản cho rằng dòng lịch sử nhân loại hoàn toàn lệ thuộc vào sự đồng nhất và bất đồng của những lực lượng đối kháng, và cũng vì thế bản tuyên ngôn cộng sản năm 1848 đã hoàn toàn loại trừ tất cả mọi giải pháp ôn hòa trong lãnh vực cách mạng xã hội, đồng thời gạt bỏ tất cả mọi hình thức dung hòa dựa theo sự hợp lý của sự việc như một hành động thiếu thực tế. Tinh thần cách mạng theo chủ thuyết cộng sản không bao giờ chấp nhận biện pháp nửa vời, tức biện pháp hòa giải hay dung hòa. Trường hợp nếu có hòa giải, thì đó cũng chỉ là một giải pháp vá víu tạp thời và chỉ có tính cách chiến thuật trong khi chờ đợi thắng lợi cuối cùng mà thôi. Cách mạng cộng sản chân chính là phải phá đổ hoàn toàn cái cũ tận nền móng, để xây dựng lên cái mới trên một nền móng mới. Nói cách khác, giai cấp tư bản và giai cấp công nhân vô sản không cùng đội trời chung. Một trong hai giai cấp đó bắt buộc phải hoàn toàn biến mất hay hoàn toàn bị loại trừ, và đó phải là giai cấp tư bản.

Bởi vậy, công cuộc phát động mặt trận đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa tư bản và tầng lớp công nhân cần phải được hiện thực như một đòi hỏi cấp bách của sự diễn biến và tiến triển lịch sử, trong đó không loại trừ tính cách bạo động. Vâng, để đẩy nhanh cuộc chiến thắng sau cùng của tầng lớp vô sản và để thiết lập được một xã hội mới vô giai cấp, tất cả mọi phương tiện chẳng những đều được coi là hợp pháp, mà còn cần phải sử dụng nữa, nếu như tình huống đòi hỏi, vì tất cả «cuộc thánh chiến đó chỉ nhắm phục vụ sự tiến bộ của nhân loại»(8).

Qua đó, chúng ta thấy rằng một năng lực khủng khiếp, phát xuất từ học thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng sử quan, đã được thành hình. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thẳng thắn gọi đó quả là «một chủ thuyết thần bí đã khéo léo biết dùng những lời hứa hão huyền để lôi kéo các tầng lớp quần chúng hào hứng chạy theo mình»(9). Chủ thuyết thần bí hay người ta cũng có thể gọi là sự mong đợi được giải thoát này thực ra là một đóng góp của não trạng người dân Nga lúc bấy giờ vào công trình xây dựng nên tòa nhà chủ thuyết cộng sản. Walter Schubart đã so sánh thái độ của não trạng người dân Nga như là một sự tự hiến mình, ngược lại với sự tự chủ mình của người Tây Âu. Tự thẳm sâu trong đáy lòng mình, người Nga thiên về tình cảm hơn là lý trí. Cũng vì thế, chủ thuyết duy vật khô khẳng phát xuất từ Tây Âu lẽ ra bình thường khó mà đâm rễ sâu được vào quan niệm của người Đông Âu như Nga Sô. Hơn nữa, vì người Nga sống thiên về tình cảm, chứ không nặng óc suy lý theo khoa học tự nhiên, nên thường dễ bị ảnh hưởng bởi những sự kỳ bí lạ lùng. Vì thế, người Tây Âu nhiều khi đã không khỏi bỡ ngỡ trước bản tính hay thay đổi thất thường của người Nga. Hơn nữa, khác với bản tính tự lập và thiên về cá nhân của người Tây Âu, người Nga mang nhiều sắc thái đoàn thể xã hội hơn và luôn mong muốn cho xã hội nơi mình sinh sống phải đạt được tình trạng hoàn hảo. Vì thế, một khi xã hội đó không đạt tới được mức độ hoàn hảo lý tưởng như họ mong muốn, thì họ tỏ ra bất đồng và giận dữ, và hăng say đem hết mọi nỗ lực để cải thiện. Đó cũng là lý do tại sao văn hào cách mạng Fjodor M. Dostojewskij (1821-1881) được gọi là «nhà triết học vĩ đại nhất của nước Nga»(10).

Vì lý do đó, thời gian từ hậu bán thế kỷ XIX đến gần hết hậu bán thế kỷ XX mà chúng ta đang đề cập đến ở đây, phải được gọi là kỷ nguyên cộng sản, bởi vì chủ nghĩa Mác-xít đã tìm gặp được tại Nga Sô chỗ đứng vững chắc và thuận lợi cho học thuyết cách mạng về kinh tế và xã hội của mình.

Một cách khách quan mà nói, những người cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản không hề nghĩ rằng học thuyết cách mạng vô sản mang tính cách toàn cầu của họ lại có thể tìm gặp được Nga Sô như là một «bản doanh» hay như «ngòi châm» cần thiết. Thực ra, dựa theo nền tảng của học thuyết cộng sản, thì ngọn lửa cách mạng phải được bùng cháy trước hết tại các nước có nền kỷ nghệ hàng đầu thế giới ở Tây Âu, tức là một nơi những căng thẳng và mâu thuẩn giữa tầng lớp tư bản và tầng lớp công nhân đã lên đến tột đỉnh. Trong khi đó, người ta có thể nói được rằng Nga Sô vào lúc bấy giờ hãy còn là một nước nông nghiệp lạc hậu.

Nhưng dưới các triều đại thối nát của Nga Hoàng bất tài lúc bấy giờ, Nga Sô bị rơi vào một tình trạng cực kỳ khó khăn: Xã hội và nền kinh tế của đất nước hoàn toàn bị băng hoại, bị phá sản. Và thảm họa to lớn cuối cùng đã thực sự xảy ra, là vào đúng khi đức tin Kitô giáo đã từ lâu chỉ còn hiện diện trên hình thức, còn trong thực tế đã trở nên xa lạ và mất hết sức lôi cuốn đối với đại đa số người dân, thì nước Nga - vì muốn đạt được những canh tân kinh tế và xã hội cần thiết - bó buộc phải chạy theo các nước Tây Âu, những nước mà vào lúc bấy giờ cũng đang bắt đầu cải cách xã hội và kinh tế, nên càng ngày càng lơ là và bỏ bê lãnh vực tôn giáo(11); trong khi đó các luồng tư tưởng cấp tiến, tự do và vô thần lại bành trướng mạnh mẽ.

Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác-xít duy vật đã xâm nhập được nước Nga như một miền đất phì nhiêu mầu mỡ. Và do sự nối kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật Tây Âu với chủ nghĩa mong được giải thoát của Đông Âu, một phong trào quá khích đẫm máu đã bùng nổ như chúng ta đã từng chứng kiến trong suốt lịch sử Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu kể từ năm 1917.

Như vậy, từ những học thuyết cộng sản về kinh tế và xã hội đã dần dà biến thành một thứ đức tin cộng sản. Bởi vậy, Hamish Fraser, một đảng viên cộng sản kỳ cựu đã viết: «Một sự kiện quá rõ ràng là nước Nga Sô Viết được coi như biểu tượng cụ thể của đức tin mang tính cách thiên sai, một đức tin tiềm ẩn trong chủ nghĩa Mác-xít cách mạng»(12).

Ngoài Đức GM Fulton J. Sheen, còn có Lin mục Gustav A. Wetter, dòng Tên - qua các sách báo và các bài thuyết trình của ngài – cũng đã lôi kéo sự chú ý của Tây Phương về tính chất ngụy tôn giáo của chủ nghĩa duy vậy biện chứng sử quan(13). Linh mục G.A. Wetter đã trình bày cho thấy chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn toàn khác với chủ nghĩa duy vật thông thường, vì nó mang tính cách loại trừ hoàn toàn niềm xác tín tôn giáo. Nói cách khác, vật chất được thay thế cho Thiên Chúa, nghĩa là vật chất được đặt vào địa vị Thiên Chúa. Vật chất là Thiên Chúa. Vật chất là sự thiện hảo tối thượng; ngoài vật chất ra không còn gì tốt lành nữa. Trong một sự phát triển liên tục và không bao giờ ngừng, vật chất sản xuất ra từ đời đời tất cả những gì đang hiện hữu, kể cả tinh thần. Khả năng sáng tạo của sự tiến hóa vô tận này – một sự tiến hóa luôn tìm tiến tới sự hoàn hảo cao độ - là chính vật chất mang tính chất nội tại, nghĩa là vật chất tự hiện hữu và tự tồn tại trong chính mình.

Qua đó, người ta thấy rằng, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì không hề có đệ nhất tác nhân ngoại tại, mà Kitô giáo gọi là Thiên Chúa. Tự bản chất của nó, vật chất là Thiên Chúa của chính mình; vật chất được vận hành bởi những sức mạnh đối kháng nội tại trong chính mình. Chính những sức mạnh đối kháng đó luôn luôn tự sản sinh ra không ngừng và nhờ thế chúng đã sản xuất ra được khả năng cần thiết cho sự phát triển cao độ.

Điều đó dẫn tới một hậu quả là chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tất cả mọi hữu thể đều «từ dưới» mà có, ngược lại với giáo lý của Kitô giáo vốn dạy rằng vũ trụ được tạo dựng nên «từ trên», tức do một vị Thiên Chúa, Đấng tự hữu và hằng hữu, ngoại tại và vượt trên vật chất.

Nếu Phúc Âm Kitô giáo quả quyết: «Từ ban đầu đã có Ngôi Lời», thì chủ nghĩa duy vật biện chứng lại khẳng định: «Từ ban đầu đã có vật chất». Cả hai, Kitô giáo và chủ nghĩa cộng sản, đều nhắm tới việc giải phóng con người và tự thần thánh hoá chính mình như mục đích sau cùng. Tuy nhiên, cả hai lại muốn đạt tới mục đích bằng những cách thế và trong tình huống hoàn toàn khác nhau.

Kitô giáo mong đợi sự giải thoát con người khỏi vòng nô lệ của tội nguyên tổ «từ trên cao», như là ơn thánh của Thiên Chúa ban cho. Trong khi đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng lại chờ đợi sự giải phóng đó như hiệu quả chín mùi của một sự phát triển «từ dưới thấp», nghĩa là từ phía con người. Nói cách khác, đối với người Kitô hữu, sự giải thoát khỏi tội lỗi là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa ban; trái lại, đối với người cộng sản, sự giải phóng nhân loại khỏi tội nguyên tổ của hệ thống tư bản, phải là kết quả tất yếu của những phát triển thuần túy nhân loại. Vì thế, hậu quả chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa là một điều không thể tránh được, như Linh mục Wetter đã viết: «Chính sự thể đó chứng minh cho thấy rằng, khi tranh đấu dưới ngọn cờ duy vật biện chứng sử quan, chủ nghĩa cộng sản đương nhiên tự coi mình có thể trở thành một thể loại tương tự tôn giáo, và vì thế phải tìm cách loại trừ bằng bất cứ giá nào mọi hình thức tôn giáo khác. Ngoài vị thần duy nhất là vật chất với tất cả những yêu sách tuyệt đối của nó, chủ nghĩa cộng sản không chấp nhận bất cứ thần thánh nào khác nữa»(14).

Và như trong các cuộc đấu tranh cụ thể cho công cuộc cách mạng toàn cầu, trong sự xung đột về ý thức hệ của kỷ nguyên cộng sản cũng không thể có sự dung hòa được. Chỉ có hai mặt trận, đó là:

1. Một bên là lời mời gọi của đức tin, của lòng tin tưởng phó thác và của tình bác ái, với khẩu hiệu: «Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi.»

2. Một bên khác là lòng kiêu hùng và sự hận thù bất hòa giải trước giai cấp đối kháng của mình, với khẩu hiệu ngược lại: «Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ta.»

Đó là hai quan điểm hoàn toàn đối kháng nhau và vì thế chúng sẽ không bao giờ có thể đi tới một sự hòa hợp hay sống chung chân thành và bền lâu. Giữa hai bên sẽ không bao giờ có sự đồng hữu thực sự. Vâng, xét về mặt lý thuyết, ý thức hệ hay giáo lý, thì khoảng cách giữa Kitô giáo và chủ nghĩa cộng sản là quá lớn, khó có thể bắc nên một nhịp cầu được. Tuy nhiên, trong lãnh vực thực hành của cuộc sống cụ thể hằng ngày, như việc bài trừ các tệ nạn xã hội, việc lành mạnh hoá xã hội, hay việc xoá đói giảm nghèo, xây dựng nhân sinh, v.v… sự cộng tác giữa những người cộng sản và những người Kitô hữu không những là một điều có thể, nhưng còn là một điều cần thiết và phải làm. Hơn nữa, ngày nay - như chúng ta đều chứng kiến - ý thức hệ cộng sản đã mất hết tính chất quá khích thủa ban đầu và đang trên đường thoái hóa và biến thể để tiến tới một tân chủ nghĩa xã hội tự do; nhưng nhất là sứ mệnh Phúc Âm hóa mà Chúa Cứu Thế đã trao phó cho Giáo Hội «các con hãy đi khắp thế gian và làm cho muôn dân thành môn đệ của Thầy» (x.Mt 28,19) không hề chủ trương phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo hay chính kiến.

3. Thế giới cộng sản

Đối với chủ nghĩa cộng sản, thì thế giới nhân loại đang chìm đắm trong trầm luân khốn khổ. Vâng, đối với người Kitô hữu những bất hạnh do tội nguyên tổ gây ra cho nhân loại thế nào, thì đối với những người cộng sản đó lại chính là hệ thống kinh tế tư bản. Vì thế, để đổi mới và kiện toàn thế giới, người cộng sản thâm tín rằng mình có bổn phận phải tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Và phương tiện hữu hiệu để hiện thực được những mục tiêu thiêng liêng đó là cuộc cách mạng toàn cầu; còn tất cả mọi phương tiện khác đều chỉ dùng để phục vụ cho phương tiện duy nhất đó mau đạt tới thắng lợi sau cùng mà thôi. Tiếp đến, cũng thế, tất cả mọi mục tiêu khác chỉ còn là những mục tiêu thứ yếu trên con đường tiến tới sự hoàn tất cuối cùng của một thế giới đại đồng và vô giai cấp, một thiên đường cộng sản. Về điểm này một đảng viên cộng sản khác đã viết: «Toàn bộ ý thức hệ của chủ nghĩa cộng sản và bao gồm trong đó cả nền luân lý cộng sản nữa, đều tùy thuộc công cuộc giải phóng tầng lớp công nhân thợ thuyền. Mục tiêu sau cùng của người cộng sản là xây dựng chế độ cộng sản, là mang lại hạnh phúc cao độ cho tầng lớp công nhân, và dĩ nhiên không chỉ trong huyền thoại ảo tưởng, nhưng là thực sự thiết lập một cuộc sống đầy sung sướng hạnh phúc trên quả đất này. Cuộc chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản không tự nhiên mà có được, nhưng người ta chỉ có thể đạt tới được sự chiến thắng đó bằng cuộc xả thân đấu tranh chống lại tất cả những sức mạnh và những hủ tục phản động của thế giới cũ. Trên con đường tiến tới được mục tiêu cao cả và đúng đắn đó với một mức độ tột đỉnh, người ta cần phải có nhiều pháo đài kiên cố, cần phải trung kiên trong các thử thách khó khăn và cần phải hy sinh nhiều. Đối với những người chiến sĩ chiến đấu cho tầng lớp công nhân, chiến đấu cho tầng lớp thợ thuyền, thì việc chỉ thụ động ngồi chờ một tương lai tốt đẹp sáng sủa và một niềm hy vọng trống rỗng, hoàn toàn là một điều xa lạ, không thể chấp nhận được. Các chiến sĩ cộng sản không bao giờ chờ đợi sẽ đạt tới được mục tiêu đấu tranh của mình bằng một khuôn mẫu có sẵn, chứ không cần phải đấu tranh gian khổ và không cần phải lao động vất vả.» Trên đây là một đoạn quan trọng nói về vũ trụ quan của chủ nghĩa cộng sản, được trích từ bản Quốc Tế Ca «L’Internationnale», với những lời đáng ghi nhận như sau:

«Không Đấng nào cao cả cứu được ta,

«Chẳng Thần thánh, chẳng vua chúa, chẳng quan tòa.

«Để thoát khỏi cảnh khốn cùng ô trọc,

«Tự chúng ta phải vùng lên tranh đấu, hỡi các bạn!»(15).

Qua đó chứng minh cho thấy rằng một người cộng sản chân chính, nghĩa là một người cộng sản đầy thâm tín về ý thức hệ của mình, sẽ không bao giờ có thể thay đổi được quan điểm của mình để tiếp nhận một quan điểm khác vì nhận ra quan điểm đó tốt và hợp lý hơn quan điểm của mình. Đối với anh, hoặc chỉ có anh hiện hữu với quan điểm ý thức hệ của anh, hoặc là anh phải chết, chứ không thể có giải pháp thứ ba, chẳng hạn như liên hiệp hay hòa hợp, v.v... Đó chính là điểm quá khích và sai lầm của một ý thức hệ. Và hậu quả tai hại của nó cũng đã được chứng minh qua sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Sô cũ và ở các nước Đông Âu vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Ở đây người ta nghi ngờ đặt ra một câu hỏi: Giá như chế độ cộng sản ở Liên Sô và ở Đông Âu khi ý thức được cao trào dân chủ của con người hôm nay đang bùng lên như vũ bão, mà biết tự canh tân và tự thích nghi với tình huống mới, thì có lẽ sự sụp đổ mau lẹ đó đã không xảy ra? Nhưng sự thể đã không thế!

Vì vậy, phải chăng đó là một bài học đắt giá mà các nước cộng sản cuối cùng hiện nay, như Trung Quốc, Việt Nam và Cu-ba đã biết lợi dụng được, khi các nước này đang từ từ loại bỏ một số quan điểm ý thức hệ ảo tưởng và sai lạc của mình, hầu không bị tụt hậu trong đà tiến bộ nhảy vọt của cả nhân loại ngày nay, như chấp nhận mở cửa hội nhập quốc tế, sống chung hòa bình với các dân tộc khác trong tinh thần bình đẵng và tôn trọng lẫn nhau, chấp nhận nền kinh tế thị trường tự do của tư bản, v.v…?

Nhưng một thực tại khác chứng minh cho thấy là một khi chủ nghĩa cộng sản từ bỏ mục tiêu theo đuổi của mình là thống trị thế giới, cùng với phương tiện chủ yếu duy nhất là cuộc cách mạng toàn cầu, thì mặc nhiên chủ nghĩa cộng sản đã tự tuyên bố cáo chung và giải thể.

Nếu thế, phải chăng ngày nay chúng ta sẽ không còn phải bận tâm tới học thuyết cộng sản nữa, một học thuyết đã từng chi phối não trạng và cuộc sống của gần một phần hai nhân loại trong suốt trên dưới bảy thập niên qua?

Dù học thuyết cộng sản đã chính thức tự giải thể, và nếu ngày nay còn hiện diện thì chỉ hiện diện trên giấy tờ và trên hình thức mà thôi, nhưng người ta đừng quên rằng, các ảnh hưởng và các hậu quả tiêu cực hiện nay, như: nền kinh tế của đất nước bị rơi vào tình trạng lạc hậu, chậm tiến, bị băng hoại, nhưng nhất là tình trạng luân lý và tôn giáo hoàn toàn bị suy đồi phá sản, v.v…, do học thuyết đó để lại ở Nga cũng như ở các nước thuộc khối Đông Âu, thì còn cần phải nỗ lực trong rất nhiều thế hệ nữa mới mong hàn gắn lại được phần nào. Vì thế, Đức GM Sheen đã có lầng gọi thế giới cộng sản là «thân mình mầu nhiệm của Antichristus».

Cuối cùng, một điều quan trọng mà chúng ta không được phép quên là mọi biến cố - dù to hay nhỏ và dù quan trọng hay tầm thường – đã, đang và sẽ xảy ra trong vũ trụ, trong cuộc sống của từng người hay của cả nhân loại, đều không xảy ra ngoài sự an bài của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, Đấng tự hữu và luôn hiện hữu trong vũ trụ cũng như trong cuộc sống của nhân loại và của mỗi người, dù cho nhân loại có tin nhận và thờ kính Người hay không. Vâng, tất cả mọi sự xảy trong vũ trụ này, đều nằm trong tầm kiểm soát tuyệt đối và đầy uy quyền của Thiên Chúa Toàn Năng.

Điều đó được chứng minh rõ ràng qua hiện tượng: Trong khi vào ngày 10.10.1917, Hội đồng Cách mạng Bôn-xơ-vít ở Nga Sô nhất trí quyết định sẽ dùng bạo lực tổ chức một cuộc nổi dậy vào đêm 25 rạng ngày 26.10.1917, để lật đổ chế độ Nga Hoàng và thiết lập một chế độ cộng sản vô thần, hoàn toàn chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì đúng vào ngày 13.10.1917, qua trung gian của Đức Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa đã công khai thực hiện một phép lạ vĩ đại trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn người trong khắp toàn vùng Fatima: Phép lạ mặt trời vào đúng ngọ đã bổng chốc quay cuồng múa nhảy cách kỳ lạ và bắn tung toé ra chung quanh đủ mọi thứ màu sắc rực rỡ, giữa tiếng kêu la hoảng hốt và sợ hãi của đám đông.

Phải chăng khi Thiên Chúa đã công khai thực hiện một phép lạ cả thể như thế - ngoài mục đích để mọi người tin sự kiện Fatima là thật, như lời Đức Mẹ hứa cùng ba trẻ - lại không muốn chứng minh cho nhân loại thấy rằng, dù cho con người có chối bỏ sự hiện hữu của Người đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn còn đó, thì Thiên Chúa vẫn luôn là Thiên Chúa, vẫn luôn là Chúa Tể càn khôn, và vẫn luôn là Thẩm Phán Tối Cao cầm quyền xét xử muôn dân thiên hạ?

Tiếp đến, sự cố chủ nghĩa cộng sản vô thần ở Liên Sô cũ và ở các nước Đông Âu bị sụp đổ toàn diện vào đầu thập niên 90 của thế ký trước và nước Nga đã thực sự ăn năn trở lại, cũng chính là một chứng từ hùng hồn biện minh cho sự kiện Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima vào năm 1917 để gởi tới toàn thể nhân loại những sứ điệp quan trọng và khẩn cấp, là một sự thật hiển nhiên. Vì chính tại Fatima, Đức Mẹ đã loan báo trước là: «Sau cùng Trái Tim Mẹ sẽ toàn thắng… Nước Nga sẽ ăn năn trở lại.»

Ở đây, người ta cũng có thể tự hỏi: Phải chăng chế độ cộng sản Đông Âu, bắt đầu từ Đông Đức, bị thoái hóa và hoàn toàn bị giải thể cũng đúng vào tháng 10 (năm 1989) chỉ là một việc trùng hợp ngẫu nhiên thuần túy nhân loại?

Một điều mà người ta có thể khẳng định được một cách chắc chắn, đó là hai biến cố quan trọng có liên quan đến vận mệnh và sự tồn vong của cả nhân loại, cùng xảy ra trong tháng 10 năm 1917 - biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima và cuộc bùng nổ của phong trào cộng sản vô thần ở Nga Sô - có quan hệ chặt chẽ với nhau, mặc dầu hai biến cố đó mang hai sứ điệp của hai thế giới hoàn toàn đối kháng nhau. Một bên minh chứng rằng, ngoài thế giới vật chất hữu hình ra còn có thế giới siêu nhiên vô hình và trường cửu; và qua đó chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã sáng tạo nên con người và muôn loài trong tình yêu vô biên của Người, và cũng là Đấng luôn kêu gọi con người hãy yêu thương và tha thứ cho nhau, để cùng nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay trên cõi đời này. Còn một bên khác lại khẳng định rằng chỉ có thế giới vật chất duy nhất mà thôi, ngoài ra không có gì khác nữa; qua đó, họ chối bỏ hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa. Và để thiết lập một thiên đường đầy hạnh phúc mới, tức một thế giới đại đồng, vô giai cấp và vô tôn giáo, họ dựa trên nguyên tắc đấu tranh và loại trừ giai cấp đầy tính cách bạo động.

Và ngày nay, tuy chủ nghĩa cộng sản không còn là mối đe dọa nguy hiểm thực tiễn cho nhân loại như vào đầu tiền bán thế kỷ XX nữa, nhưng chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa xác thịt, chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa khủng bố đội lốt tôn giáo của những phần tử Hồi giáo quá khích, v.v..., vẫn luôn là những mối đe dọa vô cùng nguy hiểm cho tương lai và cho sự hạnh phúc chân chính của nhân loại hơn bao giờ hết. Bởi vậy, đối với chúng ta, những con người ngày nay, lời nhắn nhủ đầy tình mẫu tử của Mẹ Maria ở Fatima xưa kia, càng trở nên thời sự và khẩn trương hơn bao giờ hết, đó là:

• Ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống,

• Siêng năng cầu nguyện và lần hạt Mân Côi mỗi ngày,

• Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

________________

8. Thông điệp «Divini Redemptoris», 19.03.1937

9. Như trên.

10.Walter Schubart, „Europa und die Seele des Ostens“, Vita-Nova-Verlag, Luzern 1947, S. 107.

11. Hamish Fraser, “Fatal Star“, John S. Burns & Sons, Glasgow 1955, S. 78.

12. Như trên.

13. “Der Bolschewismus, eine Ersatzreligion”, III. Band der Kongresse „Kirche in Not“.

14. Weter SJ, „Der dialektische Materialismus“, Herder-Verlag, S 577.

15. P.F. Kolonski, „Kommunistische und religiöse Moral“. Herausgegeben als „Ein Dokument antireligiöser Propaganda aus der Sowjetunion“, vom Bundesministerium für gesamtdeutsche Fragen, Bonn 1956.

(Tháng Mân Côi 2007 – Kỷ niệm 90 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima : 1917-2007)