Nước và sức khoẻ có quan hệ mật thiết. Người mạnh khoẻ uống li nước lạnh khi khát thấy nước ngọt lịm, mát lòng, mát dạ; khi không được khoẻ uống nuớc thấy nhạt nhẽo, không thấy mùi cũng chẳng có vị. Bệnh tật không những làm mất vị giác, còn làm cho ta cảm thấy mất hứng thú trong việc ăn uống. Người phụ nữ thành Samaritanô ra giếng múc nước mỗi ngày. Nơi đây bà gặp Đức Kitô đang ngồi nghỉ nơi bờ giếng trong lúc các môn đệ vào làng mua thực phẩm. Bà rất đỗi kinh ngạc khi Đức Kitô xin bà nước uống. Bà đáp lại với vẻ diễu cợt.

Sao được, ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống.

Cuộc đàm thoại tiếp tục bà lại đáp với vẻ vừa thắc mắc vừa nghi.

Ông không có gầu múc nuớc, giếng lại sâu làm sao ông có thể cho tôi nước uống.

Đức Kitô tiếp tục nói với bà và bà thay đổi thái độ từ không quan tâm đến có vẻ nghi ngờ và giờ đây bà tỏ ra kính trọng khi nói với Đức Kitô là ‘thưa Ngài’. Ngôn từ thay đổi cho biết thâm tâm bà cũng thay đổi. Mỗi bước đổi thay trong cách đối xử là một biến chuyển nội tâm.Từ chỗ coi Đức Kitô là người xa lạ, đến chấp nhận đàm thoại và biến sang kính trọng ‘thưa Ngài’ rồi đổi sang ‘ông là một tiên tri’. Mỗi bước là một biến chuyển trong tâm hồn, quan trọng nhất khi bà coi Đức Kitô là tiên tri bởi tiên tri là nguời đại diện và phát ngôn cho Đấng Vô Hình. Tiên tri là người chịu nhiều thử thách bởi ngôn từ và lời kêu gọi thống hối, hoán cải, thay đổi lối sống. Tiên tri thường gặp chống đối mãnh liệt từ tấm lòng tự cao, tự đại. Từ đó dẫn đến tìm cách triệt hạ tiên tri, đổ máu người kêu gọi sống công chính. Người phụ nữ thành Samaritanô nhận ra Đức Kitô là phát ngôn cho Đấng Vô Hình nhưng bà không biết Đấng đó sẽ chịu chết đền tội thay nhân loại. Bà thú nhận Ngài là ‘Đấng Cứu thế’ nhưng không biết Đấng đó cứu độ bằng cách nhận chết thay cho nhân loại. Tuyên xưng đức tin xong bà nhanh chân chạy vào làng báo cho mọi người biết có Đấng Cứu Thế đến thăm dân làng. Dân chúng ùa ra gặp Đấng Cứu Thế và sau khi nghe Đức Kitô họ xác nhận. Chúng tôi tin không phải do lời bà nói mà chính tai chúng tôi nghe thấy, mắt chứng kiến và chúng tin Ngài là Đấng Cứu Thế.

Cả hai cùng nói về nước nhưng mỗi người hiểu nước một cách khác nhau. Bà nói về nước cần thiết cho cuộc sống trần gian, Đức Kitô nói về nước cần thiết cho cuộc sống thiên quốc. Nước thiên nhiên mang sức sống cho cơ thể; nước hằng sống mang sự sống trường sinh cho tâm hồn. Nước thiên nhiên đến từ lòng đất; nước hằng sống đến từ lòng con người. Nước thiên nhiên đến từ bên ngoài; nước hằng sống có nguồn sống từ nội tâm. Nước thiên nhiên mang niềm vui cho chính mình; nước hằng sống là nguồn hoan lạc cho tha nhân và mình là một thành phần trong đó. Nước hằng sống ban cho nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa.

Cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ cho biết Đức Kitô đã phá một số rào cản của xã hội thời đó. Thứ nhất là phụ nữ và đàn ông không đàm thoại nơi công cộng, nhất lại là bờ giếng là nơi phụ nữ trong làng ra kéo nước. Thứ hai người đàn ông đó lại là người xa lạ. Kế đến người Do Thái không xã giao với người ngoài tôn giáo của họ. Hơn nữa người phụ nữ bên bờ giếng lại là người nổi tiếng trong làng về tư cách của cô ta nên ai đó liên hệ với cô đều bị người khác coi thường, khinh miệt. Chính vì thế mà cô lựa lúc trời nóng bức, lút vắng người ra kín nước giếng để lấy nước.Đức Kitô đã làm việc đó và chính người phụ cũng ngạc nhiên và các môn đệ Ngài nhìn thấy cũng nhột nhạt. Người phụ nữ cũng tỏ ra có một ít kiến thức về tôn giáo. Hoặc cũng có thể cô ta đang tìm kiếm hướng đi cho cuộc sống tâm linh và cô gặp Đức Kitô soi sáng. Tội lỗi làm lu mờ tâm trí và ảnh hưởng đến việc chọn lựa cho tâm linh. Đức Kitô đã khai sáng cho cô từng bước một cho đến khi cô trở thành môn đệ Chúa.

Chân thành lắng nghe lời Đức Kitô dẫn đến nhận biết Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng đến mang nuớc hằng sống cho nhân loại. Đối thoại với Đức Kitô bà học biết về cuộc đời mình và việc đã làm nên bà tự thú ‘Ngài đã nói cho tôi biết các việc tôi từng làm’. và cô trở thành môn đệ Đức Kitô.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org