André là người đầu tiên Chúa chọn làm tông đồ. Ngài đóng vai giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Con ông Giona và bà Gioanna và em là Phêrô. Sanh tại Bethsaida, 30 dặm đông Nazareth. Gia đình André sống nghề chài lưới như mọi người trong làng. André muốn làm việc gì khác hơn. Ngoài giờ chài tôm, vớt cá André đi theo Gioan. Được ông nhận làm môn đệ phụ giúp rửa tội cho những ai tin và chịu thanh tẩy, từ bỏ nếp sống cũ bước theo đời mới, đường hy vọng và bình an.

Nghe Gioan nói về Chúa Giêsu André ước ao được gặp con người này. Ông trông đợi Đấng mà Gioan loan báo,
‘một người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài’.
‘Tôi rửa anh em trong nước nhưng Đấng đến sau tôi rửa anh em trong Thánh Thần’.


Được Gioan giới thiệu André đáp lại lời Chúa mời gọi, từ giã Gioan đi theo Đức Kitô và sau này trở thành môn đệ đầu tiên của Đức Kitô (Gioan 1,29-30). Ngay sau khi gặp Chúa Giêsu André giới thiệu Ngài cho em mình là Phêrô. Sau đó André giới thiệu Đức Kitô cho Phillip.

Thời gian này Đức Kitô chưa nhận môn đồ nhưng nhận người đi theo. Chúa chính thức nhận môn đệ sau khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan và sau 40 ngày chay tịnh. Đức Kitô cùng các ông André, Phêrô, Phillip và Gioan tham dự tiệc cưới Cana. Từ Cana đến Nazareth cách nhau 6 dặm đường. Tại Cana các ông chứng kiến phép lạ đầu tay Chúa biến nước thành rượu. Sau đó các ông theo Chúa đi giảng tại các miền Galilee và Jerusalem. Tại Jerusalem Chúa dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ.

Sau biến cố này các ông về quê sống nghề cũ, nghề đánh cá. Chúng ta không biết bao lâu sau nhưng ngày kia Chúa đi bên bờ biển Galilee đến Capernaum Ngài gặp André và Phêrô. Ngài mời hai ông thành ngư phủ chài lưới người ta. Từ đó các ông chính thức trở thành Tông Đồ. Các ông hiện diện tại phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá. Không ai khác nhưng chính André giới thiệu cậu nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá cho Chúa. Sau Phục Sinh André có mặt tại Jerusalem một thời gian không biết bao lâu rồi biệt tăm khỏi vùng truyền giáo này.

Đường truyền giáo

Theo thánh sử Eusibius thì André đi truyền giáo tại Scythia, phía Nam Liên Sô vùng Black Sea (Hắc Hải) và ngài là bổn mạng Liên Bang Sô Viết. Thánh nhân chịu tử vì đạo tại Liên Sô qua việc chịu trói vào thập giá và cuối cùng bị ném đá chết.

Truyền thống hai cho rằng André truyền giáo bên Hy Lạp. Bà Maximilla vợ tòan quyền Aegeates theo đạo ông li dị bà. Chưa đã tức ông bắt André cầm tù trói người vào khung vuông chân tay giang rộng thành hình chữ X. Từ đó thập giá hình chữ X mang tên thập giá André cho đến ngày nay. Dorman Newman ghi lại là André không bị đóng đinh nhưng bị trói vào thập giá hình chữ X để kéo dài nỗi khổ nhục và đớn trước khi chết. Mặc dù bị trói vào thập giá André không ngừng kêu gọi Aegeates thống hối để cứu lấy linh hồn mình; trong khi đó Aegeates khuyên nhủ André bỏ đạo cứu lấy mạng sống mình. Lời Chúa ghi: ‘Ai cứu mạnng mình thì sẽ mất còn ai liều mất mạng mình vì Thầy và vì Phúa Âm thì sẽ được sống muôn đời. André đã chọn mất mạng để được sống muôn đời.

Truyền thống thứ ba cho biết thánh André đi truyền giáo tại Ephesô, vùng Scythia phía bắc Black Sea, Hy Lạp và vùng Macedonia. Truyền thống này xuất hiện khỏang năm 260.

Truyền thống nào

Khó xác định chính xác thánh nhân truyền giáo tại đâu. Rất có thể ngài truyền giáo chung với bạn thân là thánh Gioan – Tác giả Phúc Âm - tại vùng Tiểu Á và Scythia. Vùng Tiểu Á nằm giữa Hy lạp và Liên Sô. Cũng có thể ngài truyền giáo tại Ephesô và những ngày cuối đời sang Hy lạp và tử đạo tại đó. Thực ra các vùng truyền giáo này đều nằm gần nhau nên việc di chuyển từ vùng này qua vùng khác có khó khăn nhưng không phải không thể thực hiện được. Thực tế thì quân Rôma làm bá chủ tòan vùng nên việc đi lại đối với họ là việc dễ dàng. Hơn nữa một vài truyền thống viết lịch sử hơn hai trăm năm sau đó nên biên giới giữa các nước có thể bị tái phân chia. Thật khó xác định chính nơi thánh nhân đã truyền giáo và địa điểm qua đời. Các sử gia chấp nhận năm 69 là năm ngài qua đời.

Dưới thời vua Justin xương thánh André tìm thấy tại Constantinople. Thành có đại sảnh cất năm 356 lưu trữ thánh tích sưu tầm từ Liên Sô, Tiểu Á và Hy Lạp. Để bảo vệ thánh tích không lọt vào tay con buôn và tàn phá bởi giặc giã, chiến tranh nên việc di tản thánh tích từ nơi này đến nơi khác thường xảy ra. Đôi khi thánh tích được chia ra làm nhiều phần cất dấu ở nhiều nơi khác nhau. Đó là lí do tại sao thánh tích thường chia năm, xẻ bảy, nơi nào cũng nhận là lịch sử thánh tích xảy ra tại đó. Thế kỉ thứ năm Regulus mang một ít xương thánh André về Tô Cách Lan chôn cất gọi là mộ thánh André. 1210 thánh tích bị ăn cắp đưa về vương cung thánh đường Amalfi gần Naples. 1462 Giáo Hòang Piô II dời đầu thánh nhân về đền thánh Phêrô bên Rôma. 1964 đáp lại lời yêu cầu của giáo chủ Chính Thống bên Hy Lạp. Đầu thánh André lại chuyển về Patras, Hy Lạp vì xứ này cho rằng thánh André chết tại đây nên cần lưu trữ xác thánh nơi ngài qua đời. Tại Patras còn ít tài liệu cổ xưa ghi nhận thánh André đi bộ đến núi Caucasus (Liên Xô) giảng đạo rồi đến Scythia gần biển Caspian. Đến Byzantium, ngày nay là Istanbul truyền chức giám mục cho Stachys. Sau đó ngài đi Hy Lạp, Thrace, Macadonia và Patras. Tại Patras tòan quyền Aegeates bắt ngài giam, trói vào thập giá 3 ngày trước khi xử.

Lời ngài nguyện cuối đời:
Hãy nhận con chúa ơi, Chúa Kitô Đấng con nhìn thấy, Đấng con yêu mến, trong Ngài con hiện hữu. Xin đón nhận linh hồn con; đi bình an về Nước Hằng Sống.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org