Trong chuyến đi thăm Anh quốc vào tháng 8 năm nay, chúng tôi đã tham quan:

  • Thành phố London: Những thắng cảnh quan trọng và tiêu biểu của thủ đô Anh quốc
  • Thành Canterbury và Nhà thờ Canterbury, trung tâm Anh giáo
  • Lầu đài Dover lớn nhất Anh quốc nằm ngay trên sườn đá vôi trắng ơ cảng Dover
  • Gibraltar Rock, phần đất thuộc Anh quốc nằm phía nam của Tây Ban Nha.

1. Thành phố London (Luân Đôn)

Xem hình ảnh London

Những kỉ niệm về London trong tâm trí tôi khi vừa tới thủ đô này cũng nhạt nhòa như những áng sương mù và bầu trời mây xám phủ quanh, vì qua nhiều năm trời chưa trở lại... Nhưng London vẫn với cầu Tower Bridge biểu tượng, vẫn là Bucklingham kiêu hãnh, tòa nhà Parliament và tháp Big Ben uy nghi tráng lệ bên dòng sông Thames ngày trước, vẫn nhà thờ St. Paul hiên ngang, và các lâu đài mấy trăm năm, những con đường cổ kính, những phố xá mua sắm nhộn nhịp như Piccadilly và quảng trường Trafalgar… Nhưng lần này trời London vào những ngày nắng chói chang và nóng bức… thành phố lên mầu tươi sáng và nắng ấm lạ thường…

London là thủ đô của Vương quốc Anh. Với ước tính khoảng hơn 8.3 triệu dân sống nơi đây theo thống kê năm 2012, nên London là khu vực đông dân nhất tại Anh. Có thể nói London là một thành phố hàng đầu thế giới về mặt nghệ thuật, thương mại, giáo dục, giải trí, tài chính, y tế, phương tiện truyền thông, dịch vụ chuyên nghiệp, nghiên cứu và phát triển, du lịch và vận chuyển, tất cả các yếu tố trên góp phần làm London là thành phố danh tiếng nổi bật. Nhưng tầm quan trọng của Lonlon là chính là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu thế giới và cũng là một thủ đô văn hóa thế giới.

Đây là thành phố có hành khách quốc tế ghé thăm nhiều nhất trên thế giới và rất đa dạng từ các nền văn hóa, có hơn 300 ngôn ngữ được nói trong phạm vi của thành phố. London có 43 trường đại học, nơi tập trung lớn nhất về nền giáo dục đại học ở châu Âu. Năm 2012 London đã trở thành thành phố đầu tiên đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic mùa hè hiện đại 3 lần.

London có những tòa kiến trúc sau đây được ghi vào di sản thế giới: Tháp London; Kew Gardens, các Cung điện Westminster, Tu viện Westminster và Nhà thờ St. Margaret; và múi chia giờ Greenwich lịch sử (trong đó Đài quan sát Hoàng gia Greenwich đánh dấu độ kinh tuyến gốc 0 ° kinh độ, và GMT).

Khi thăm London, chúng ta dễ dàng nhìn thấy 3 biểu tượng của thành phố, đó là: đồng hồ tháp Big Ben, hộp điện thoại màu đỏ bên đường, và xe buýt London hai tầng trên phố xá. Và các đường xe điện ngầm ở thành London là mạng lưới đường sắt ngầm lâu đời nhất trong thế giới.

Các địa điểm nổi tiếng khác bao gồm Cung điện Buckingham là nơi ở chính thức của Nữ hoàng Anh, London Eye, Piccadilly Circus, Nhà thờ St. Paul, Tháp Tower Bridge, Quảng trường Trafalgar và The Shard…

Các tòa nhà ở London quá đa dạng có phong cách kiến trúc đặc biệt, một phần vì lứa tuổi khác nhau, phần khác được cách kiến trúc đặc thù. Nhiều ngôi nhà lớn và các tòa nhà công cộng, chẳng hạn như Thư viện Quốc gia được xây dựng từ đá Portland. Một số khu vực của thành phố, đặc biệt là ở phía tây của trung tâm, được đặc trưng bởi đá vôi trắng. Còn lại một số cấu trúc ở trung tâm London có từ trước cả hỏa hoạn năm 1666. Tháp London và những công trình kiến trúc thời Tudor vẫn sống sót rải rác trong thành phố, ví dụ như Hampton Court Palace, cung điện cổ xưa nhất thời Tudor của Anh, được xây dựng bởi Đức Hồng Y Thomas Wolsey khoảng năm 1515. Nhà thờ Wren thuộc của cuối thế kỷ 17 và các tổ chức tài chính của thế kỷ 18 và 19 như Sở giao dịch Hoàng gia và Ngân hàng Anh, đến đầu thế kỷ 20 có Old Bailey và những năm 1960 tòa nhà động sản Barbican là một phần của kiến trúc đa dạng ở đây.

Đài tưởng niệm Albert và Royal Albert Hall ở Kensington. Cột Nelson là một di tích quốc gia được công nhận tại Quảng trường Trafalgar, một trong những điểm trọng tâm của trung tâm thành phố. Tòa nhà cũ chủ yếu là gạch, phổ biến nhất London gạch cổ vàng hoặc nhiều màu đỏ da cam ấm áp, thường được trang trí chạm khắc và khuôn thạch cao trắng.

Trong khu vực dày đặc, hầu hết tập trung các tòa nhà trung và cao tầng. Tòa nhà chọc trời của London như 30 St Mary Axe, Tháp 42, Broadgate Tháp và Quảng trường One Canada thường được tìm thấy trong hai khu tài chính, thành phố London và Canary Wharf. Tòa nhà hiện đại đáng chú ý khác bao gồm Tòa thị chính ở Southwark với hình bầu dục đặc biệt của nó, và Thư viện Anh trong Somers Town, Kings Cross.

Phát triển cao tầng bị hạn chế tại các địa điểm nhất định nếu nó sẽ cản trở tầm nhìn bảo vệ Nhà thờ St. Paul và tòa nhà lịch sử khác. Tuy nhiên có một số tòa nhà chọc trời rất cao được tìm thấy ở trung tâm London, bao gồm nhà 72 tầng ở Shard London Bridge, tòa nhà cao nhất trong Liên minh châu Âu.

London là nơi có nhiều viện bảo tàng, phòng trưng bày, thư viện, sự kiện thể thao và các tổ chức văn hóa khác, trong đó có Bảo tàng Anh, Thư viện Quốc gia, Bảo tàng Tate Modern, Thư viện Anh và 40 nhà hát ở West End.

Các công viên lớn nhất trong khu vực trung tâm của London gồm: Công viên Hoàng gia, cụ thể là công viên Hyde Park và bên cạnh là Kensington Gardens ở rìa phía tây của trung tâm London, và công viên Regent ở rìa phía bắc. [Công viên Regent có Sở thú London, sở thú khoa học lâu đời nhất của thế giới, và nằm gần các địa điểm du lịch của Bảo tàng Sáp Madame Tussauds.

Gần với trung tâm London là Công viên St James. Hyde Park đặc biệt là cho giới chơi thể thao và đôi khi tổ chức các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một số công viên lớn nằm ngoài trung tâm thành phố, trong đó có Công viên Hoàng gia Greenwich ở phía nam - đông và Công viên Bushy và Richmond Park (lớn nhất ) về phía tây, như cũng như Victoria Park, Luân Đôn về phía đông. Primrose Hill ở phía bắc của công viên Regent là một điểm phổ biến để xem đường chân trời thành phố.

Vài nét lịch sử về thành London

London nằm bên sông Thames, là thành phố có bề dài lịch sử hai thiên niên kỷ, và đi ngược lại từ thời người La Mã đến cư ngụ và đặt tên là Londinium. Đây là một tên cổ xưa và có thể được tìm thấy nguồn từ thế kỷ thứ 2. Nó được ghi lại là vào năm 121 với tên Londinium.

Hai phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy London có thể là lớn tuổi hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Trong năm 1999, phần còn lại của một cây cầu thời đại đồ đồng đã được tìm thấy trên bãi biển phía bắc cầu Vauxhall Bridge. Cây cầu này hoặc vượt qua sông Thames, hoặc đi đến một hòn đảo trên sông (đã bị mất). Rồi trong năm 2010, lại tìm thấy một cấu trúc gỗ lớn có niên đại lâu tới 4500 BC (trước Công nguyên).

Cho tới năm 1300 thành phố vẫn còn bị giới hạn trong các bức tường cổ người La Mã xây trước đây từ năm 43 AD. Ở thời đỉnh cao trong thế kỷ thứ 2, thành London La Mã đã có một dân số khoảng 60.000 người.

Với sự sụp đổ của đế quốc La Mã trong những năm đầu thế kỷ thứ 5, London không còn là một thành phố có tường bao quanh thời Londinium nữa, thành bị bỏ rơi và tường thành bị tổn thất.

Từ khoảng năm 500, một khu định cư của Anglo-Saxon được biết đến như Lundenwic phát triển trong cùng một khu vực, nằm về phía tây của thành phố London La Mã cũ.

Từ những năm 820, London nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của người Viking và theo lịch sử ghi lại nhận rằng London được Đại đế Alfred tái lập trong năm 886. Từ từ cho đến khoảng 950, London có những hoạt động tăng lên đáng kể.

Vào thế kỷ 11, London đã vượt quá tất cả các thành phố lớn nhất nước Anh. Tu viện Westminster được xây dựng lại theo phong cách La Mã bởi vua Edward the Confessor, là một trong những nhà thờ vĩ đại nhất ở châu Âu. Thành Winchester đã từng là thủ đô của người Anglo- Saxon, nhưng từ thời điểm này trở đi, London đã trở thành diễn đàn chính cho thương nhân nước ngoài và các cơ sở quốc phòng trong thời chiến.

Tu viện Westminster là một di sản thế giới và là một trong những tòa nhà lâu đời nhất và quan trọng nhất của London. Sau chiến thắng của William trong trận Hastings, Công tước xứ Normandy, William đã đăng quang làm vua của nước Anh trong nhà thờ Tu viện Westminster Abbey vừa được hoàn thành vào ngày Giáng sinh năm 1066.

Vua William xây dựng lại Tháp London bằng đá như nhiều lâu đài Norman ở Anh. Năm 1097, William II bắt đầu việc xây dựng Westminster Hall, gần tu viện cùng tên. Hội trường trở thành cơ sở của một cung điện mới của Westminster.

Trong thế kỷ 12, nơi đây tập trung các tổ chức của chính quyền trung ương, trong đó gồm có tòa án hoàng gia Anh, các kho bạc hoàng gia. Trong khi thành phố Westminster phát triển thành một thủ đô thực sự về chính trị, thì thành phố London, hàng xóm của Wesminter phát triển thành thành phố lớn nhất nước Anh và trung tâm thương mại chính, và nó phát triển mạnh mẽ dưới sự quản lý độc đáo của Tổng công ty Luân Đôn. Vào năm 1100, dân số là khoảng 18.000; những tới năm 1300 nó đã tăng lên đến gần 100.000.

Thảm họa Dịch Đen (Black Death) xảy ra trong trong giữa thế kỷ 14, khi đó London bị mất đi gần một phần ba dân số. Tiếp theo, London là trọng tâm của cuộc nổi dậy của nông dân năm 1381.

Trong thời gian dưới triều đại nhà Tudor, London biến đổi nhiều theo cuộc cải cách xuất phát từ sự thay đổi sang đạo Tin lành và chiều hướng kính tế mới và ngành hằng hải làm cho London dần dần trở thành quan trọng.

Trước đây các tuyến đường thương mại từ Ý và Địa Trung Hải thường thông qua Antwerp ở Bỉ, những nay nhiều các tàu có thể đi qua eo biển Gibraltar hoặc từ nước Anh có thể thông qua Ý hoặc Ragusan. Sau khi mở cửa thông thương với Hà Lan, Các công ty dịch vụ và tài chánh như Royal Exchange được thành lập. Các công ty thương mại độc quyền như Công ty Đông Ấn Độ đã được thành lập, với thương mại mở rộng đến thế giới mới, London trở thành cảng biển Bắc chủ yếu của Anh quốc.

London bị ám ảnh bởi bệnh tật trong những năm đầu thế kỷ 17, mà đỉnh cao là đại Dịch Hạch 1665-1666, làm thiệt mạng lên đến 100.000 người, hoặc một phần năm dân số.

Vào năm 1666, đại hỏa hoạn London lại một lần nữa phá hủy nhiều phần của thành phố. Đại hỏa hoạn nổ ra trong ngõ Pudding và nhanh chóng quét qua các tòa nhà bằng gỗ làm London trờ thành biển lửa.

Năm 1708 Nhà thờ St. Paul được hoàn thành do kiệt tác của Christopher Wren vẽ họa đồ xây.

Quận mới như Mayfair được hình thành ở phía Tây và cây cầu mới trên sông Thames đã hoan thành thúc đẩy sự phát triển ở phía Nam thành London. Ở phía Đông, cảng London mở rộng khu vựa hạ lưu. Kinh tế phát triển mạnh them.

Năm 1762, Vua George III mua dinh thự Buckingham và từ đó nó đã được mở rộng trong suốt 75 năm tiếp theo.

Trong thế kỷ 18, Luân Đôn là nơi có nhiều thành phần tội phạm nên một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp đã đã được thành lập vào năm 1750. Các quán cà phê đã trở thành một nơi phổ biến để tranh luận về ý tưởng, với phát triển văn hóa và sự phát triển của báo chí in ấn làm cho tin tức phổ biến rộng rãi, và Fleet Street đã trở thành trung tâm của báo chí Anh.

London trở thành là thành phố lớn nhất thế giới trong khoảng từ khoảng 1831-1925. Do điều kiện người ở đông đúc chật hẹp và thiếu vệ sinh của London dẫn đến dịch tả, dịch bệnh, làm nhiều người chết. Trong giai đoạn có tới 74% trẻ em sinh ra tại London đã chết trước khi được 1 tuổi.

Dân số tăng làm ùn tắc giao thông dẫn đến việc tạo ra mạng lưới đường sắt đô thị - đường tầu lửa ngầm đầu tiên được xây cất ở đây.

London bị Đức đánh bom trong Thế Chiến II với chiến dịch Blitz và vụ đánh bom khác của Không quân Đức giết chết hơn 30.000 người London và phá hủy vùng rộng lớn các dinh thự và phố xá, các công trình xây dựng khác trong thành phố. Ngay sau khi chiến tranh, Thế vận hội Mùa hè 1948 đã được tổ chức tại sân vận động Wembley ban đầu, vào thời điểm mà Luân Đôn chưa kịp phục hồi sau chiến tranh.

London sương mù và bị khí bẩn do các nhà máy phát triển kính tế làm cho bầu trời luôn u ám. Mùa Đại Khói năm 1952 đã dẫn đến luật Thanh lọc khí bẩn Clean Air Act năm 1956, kết thúc "sương mù súp đậu " mà London đã được nổi tiếng.

Từ những năm 1940 trở đi, London đã trở thành nhà của một số lượng lớn người nhập cư, chủ yếu từ các quốc gia thuộc khu vực Thịnh Vượng Chung như Jamaica, Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan, làm cho London là một trong những thành phố đa dạng nhất ở châu Âu.

Chủ yếu bắt đầu từ giữa những năm 1960, London đã trở thành một trung tâm văn hóa của thanh thiếu niên trên toàn thế giới, minh họa bằng “Swinging London”, các tụ điểm tiểu văn hóa tại King Road, Chelsea và Carnaby Street. Vai trò của “đạt tiêu chuẩn ‘mốt’ và ‘thời trang’ trendsetter đã được hồi sinh trong thời kỳ punk ở London.

Năm 1965, ranh giới chính trị của London đã được mở rộng gồm các khu vực đô thị và Hội đồng Greater London mới được tạo ra.

Rồi đối diện với cuộc tranh chấp với miền Bắc Ireland, Luân Đôn đã bị quân IRA (Tổ chức vùng dậy của người Bắc Ái nhĩ lan) tấn công bằng ném bom tay liên miên. Bất bình đẳng chủng tộc đã được nhấn mạnh bởi các người Brixton tạo bạo loạn vào năm 1981.

Các cảng chính ở London chuyển đến hạ lưu ở Felixstowe và Tilbury, với các khu vực Docklands của Luân Đôn trở thành trọng tâm cho sự tái sinh như sự phát triển các Đội Canary Wharf. Điều này làm vai trò ngày càng tăng của London như một trung tâm tài chính quốc tế trong những năm thập niên 1980.

Tuyến phòng chống lụt sông Thames (Barrier Thames) được hoàn thành vào những năm 1980 để bảo vệ London chống lại triều cường từ Biển Bắc.

Năm 2000, Để chào mừng sự khởi đầu của thế kỷ 21, Millennium Dome, London Eye và Cầu Thiên niên kỷ đã được xây dựng. Ngày 6 tháng 7 năm 2005 London đã được trao tổ chức Thế vận hội Mùa hè 2012, làm cho London thành phố đầu tiên đến giai đoạn Thế vận hội Olympic ba lần.

Tham quan thành phố London, tự nhiên nghiệm được sự hối hả và nhộn nhịp của nó như khi đến thăm Quảng trường Leicester, hay Piccadilly Circle ở trung tâm của khu nhà hát London. Thế rồi chúng ta dừng lại, hãy tìm lại sự yên tĩnh khi dừng chân tại công viên ngắm sự hùng vĩ của cung điện Buckingham, có thể tham quan phòng của Cung điện Buckingham. Ở đây trong một số tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, sẽ thấy nơi Nữ hoàng và các thành viên của Hoàng gia tiếp quan khách nhà nước và các chính khách quốc tế, trong các dịp lễ và nghi lễ hoàng gia chính thức. Có thể thăm lối vào của các Đại sứ, các nhà ngoại giao đến các phòng khách tiếp tân...

Thăm London, ta chứng kiến những gì là cũ và mới cùng đứng cạnh nhau; lịch sử, hào nhoáng và truyền thống kết hợp với hiện đại, lập dị và tiên phong. Có một cái gì đó cho tất cả mọi người ở đây.

2. Thăm thành phố và nhà thờ chính tòa Canterbury

Xem hình ảnh Canterbury

Từ cảng Dover lái xe quãng 1 giờ đồng hồ là tới Canterbury, vùng miền Nam nước Anh này có bề dài lịch sử cả 4.000 năm văn hiến. Con đường dẫn vào thôn Canterbury có màu xanh lá cây như thời trung cổ và qua cổng thành nhìn ngay thấy Nhà thờ Canterbury tráng lệ, được xây dựng trong hai giai đoạn từ 1070-1184 và 1391-1505. Sau đây hãy cùng chúng tôi theo dõi thiên lịch sử anh hùng ca của Canterbury và nhà thờ chính tòa từ thời xa xưa cho tới nay, không những chỉ lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật mà còn là nôi sinh tôn giáo quan trọng của Anh quốc.

Canterbury nằm ở phía đông của Kent, khoảng 55 dặm (89 km) về phía đông-đông nam London. Nhà thờ chính tòa Canterbury tọa lạc tại trung tâm thành phố lịch sử Canterbury, một quận của miền Kent ở Đông Nam nước Anh. Thành phố nằm bên bờ sông Stour, nguồn nước sông chảy từ Lenham phía đông bắc qua Ashford đến eo biển Anh tại Sandwich. Sông phân chia phía đông nam của thành phố. Hai chi nhánh phân chia nhiều lần, nhưng cuối cùng kết hợp lại xung quanh thị trấn Fordwich, về phía đông bắc của thành phố.

Thành phố Canterbury là một điểm đến du lịch nổi tiếng: luôn là một trong những thành phố được du khách tới viếng thăm nhiều nhất ở Vương quốc Anh. Với một triệu du khách mỗi năm, nền kinh tế của thành phố là chủ yếu dựa vào du lịch. Ngoài ra còn có một số sinh viên đáng kể, vì có ba trường đại học ở đây. Tuy nhiên Canterbury là một thành phố tương đối nhỏ, khi so sánh với các thành phố khác của Anh.

Nhà thờ Canterbury là nhà thờ Mẹ của Giáo Hội Anh giáo và Hiệp thông Anh giáo (Anglican Communion) trên toàn thế giới và là Tòa của Tổng giám mục Canterbury. Tòa này được thành lập năm 597 sau Công nguyên bởi thánh Augustinô. Nghi thức phụng vụ được tổ chức tại Nhà thờ ba hoặc nhiều lần trong một ngày.

Quần thể Nhà thờ chánh tòa Canterbury, Nhà thờ thánh Martin và những tàn tích của Tu viện St. Augustinô cổ xưa được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tu viện Thánh Augustinô được coi là nôi sinh của Thiên Chúa giáo khi Đạo Công Giáo được thánh nhân đưa đến nước Anh.

Nhiều cấu trúc lịch sử vẫn còn, trong đó có một bức tường thành phố được thành lập vào thời La Mã và xây dựng lại vào thế kỷ 14, những tàn tích của Tu viện St. Augustinô và một lâu đài Norman, và Trường “The King's School” có lẽ là một trường lâu đời nhất ở Anh.

Bảo tàng viện La Mã có tranh khảm trên nền (mosaic) nhà bằng đá qúi mãi từ năm 300 trước Công nguyên. Kiến trúc cổ còn sống sót từ thời La Mã bao gồm cửa thành Queningate, cổng ngăn chặn nằm trong tường của thành phố.

Những tàn tích của lâu đài Canterbury Castle thời Norman và Tu viện St Augustinô đều mở cửa cho công chúng vào xem. Nhà thờ St. Margaret thời Trung cổ hiện nay có tích trữ sách "The Canterbury Tales", trong đó có các mô hình các nhân vật có kích thước giống người thật được tái tạo từ những câu chuyện của Geoffrey Chaucer.

Theo thống kê của Vương quốc Anh năm 2001 tổng dân số của phường, khu đô thị của thành phố là là 43.432 người. Cư dân của thành phố có tuổi trung bình là 37 năm, trẻ hơn so với tuổi trung bình dân Anh. Trong số 17.536 hộ gia đình, 35% là người sống độc thân, 39% là các cặp vợ chồng, 10% là các bậc cha mẹ đơn. Trong số những người ở độ tuổi 16-74 trong thành phố, 27% có trình độ giáo dục cao, cao hơn bình quân cả nước là 20%. Có khoảng 95% cư dân là da trắng, nhóm thiểu số lớn nhất được ghi nhận là châu Á, với 1,8% dân số. Tôn giáo được ghi nhận là 68,2% Kitô giáo, Hồi giáo 1,1%, 0,5% Phật giáo, Ấn Độ giáo 0,8%, 0,2% người Do Thái, và 0,1% Sikh. Phần còn lại hoặc không có tôn giáo, một tôn giáo khác, hoặc không nói rõ tôn giáo của họ.

Thành phố này cũng nổi danh vì các đại học, thời kỳ hiện đại gồm thêm các Đại học University of Kent, Canterbury Christ Church University, the University College for the Creative Arts, Nhà hát Marlowe, và the St Lawrence Ground, nơi Kent County Cricket Club tụ trì.

Bảo tàng Canterbury, sở hữu nhiều cuộc triển lãm, một trong số đó là Bảo tàng Rupert Bear. Nhà hát Tudor lâu đời nhất ở Canterbury, trước đây gọi là Casey. Có một số nhóm hát có trụ sở tại Canterbury, bao gồm Đại học Kịch nghệ, Hội Liên minh sinh viên Kent, Hội các cầu thủ Canterbury và Nhà hát Tuổi trẻ Kent.

Liên hoan Canterbury diễn ra hơn hai tuần trong tháng Mười hàng năm ở Canterbury và xung quanh thị trấn. Nó bao gồm một loạt các sự kiện âm nhạc khác nhau, từ opera và nhạc giao hưởng buổi biểu diễn âm nhạc thế giới, nhạc jazz, nhạc dân gian, vv, với một câu lạc bộ lễ hội. Canterbury cũng tổ chức hàng năm trên Lễ hội trại trong tháng bảy, mà chủ yếu là nhìn thấy màn biểu diễn nhạc rock, indie và khiêu vũ nghệ sĩ.

Huyện Canterbury có khoảng 4.761 doanh nghiệp, có chừng 60.000 người làm việc toàn phàn hay bán phần, lởi tức thu trị giá 1,3 tỷ bảng Anh trong năm 2001. Đây là khu vực đứng hạng của nền kinh tế ở Kent. Vào năm 2008 Tổng giám mục Canterbury, Tiến sĩ Rowan Williams, đã gây cuộc tranh cãi lớn khi ngài phát biểu rằng mức lương trần trả cho người giầu cần được thực hiện để kiềm chế nhằm quản lý sự phát triển nền kinh tế.

Du lịch góp là quan trọng thu được 258 triệu bảng Anh cho nền kinh tế Canterbury và được coi là nền tảng của nền kinh tế địa phương qua nhiều năm. Nhà thờ chính tòa Canterbury lôi cuốn hơn một triệu du khách mỗi năm. Canterbury có GDP bình quân cao ở khoảng $ 51,900 bảng Anh cho một người và trở thành một trong những thị trấn giàu có ở vùng Đông Nam. Tỷ lệ thất nghiệp tính đến tháng 9 năm 2011 ở mức 5,7%.

Westgate bây giờ là một bảo tàng viện có liên quan đến lịch sử nhà tù. Nhà thờ thánh Alphege thời trung cổ bị bỏ rơi, nhưng vào năm 1982 đã tân trang cho Trung tâm Nghiên cứu đô thị Canterbury thuê và có cuộc sống mới và sau đổi tên thành Trung tâm Môi trường Canterbury, Hội Đường Do thái giáo cũ ở Canterbury, bây giờ thành phòng âm nhạc của King’s School và đó là một trong hai Hội đường Do Thái Ai Cập hồi sinh vẫn còn tồn tại.

Khi bước chân vào thăm nhà thờ chính tòa Canterbury, ta không khỏi choáng ngợp vì kiến trúc gothic tinh vi và sức cuốn hút cao ngút trời từ những khối đá đã biến thành nhữ những tấm vải ren xếp hàng lên nhau, ép vào các cột tháp, các vòm cửa, tháp chuông, như những bàn tay cầu nguyện vươn cao muốn bay bổng như lời kinh tới trời xanh thẳm.

Vào tham quan trong nhà thờ, còn tích tụ ở đó không biết bao nhiêu mộ chôn các vị thánh, đồ thánh, chén thánh, ảnh tượng, tranh ảnh nghệ thuật và vết tích lịch sử qua ngàn năm. Chứng kiến tận mắt các dấu tích lịch sử và từ từ ôn lại lịch sử của các anh hùng chứng nhân cho đức tin của Chúa Giêsu qua các thăng trầm bị bách hại hay thời vàng son, chúng ta không khỏi không xúc động khi thấy được vết lăn lịch sử của cả trăm năm hãy còn chạm vào được, như ngai tòa của thành Augustinô, nơi tử đạo của thánh Thomas Becket…

Không thể ghi lại hết các chi tiết các vật dụng hay các trang trí nghệ thuật trong nhà thờ, vì qua nhiều, nên chúng tôi sẽ hoãn lại chờ một dịp khác…

Lịch sử Canterbury qua các thời đại:

Khu vực Canterbury đã có người ở từ thời tiền sử. Tiếp đến là thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá mới và thời đồ đồng, nhiều dụng cụ gia dụng đã được tìm thấy trong khu vực này. Canterbury lần đầu tiên được ghi nhận có người cư ngụ là bộ lạc Celtic, người Cantiaci, nay là tổ tiên người dân Kent hiện đại.

Ban đầu người bản địa Brythonic định cư ở đây và đặt tên là Durou̯ernon (gốc chữ Latinh Duro là vững chãi, và u̯erno là một loại cây). Trong thế kỷ 1, người La Mã chiếm thành, và đặt tên là Durovernum Cantiacorum, có nghĩa là "thành trì của Cantiaci trong khu rừng cây”. Người La Mã đã xây dựng lại thành phố, với những con đường mới trong một mô hình theo khuôn vuông vắn, có nhà hát, hí trường và nhà tắm công cộng. Vào cuối thế kỷ thứ 3, để bảo vệ chống lại cuộc tấn công từ man rợ, người La Mã xây dựng xung quanh thành phố một lũy đất và một bức tường bao bọc với bảy cửa thành, khu vực với diện tích là 130 mẫu Anh (chừng 53 hecta)

Sau khi người La Mã rời nước Anh vào năm 410 AD, thành Durovernum Cantiacorum đã bị bỏ rơi, chỉ còn lại ít nông dân, rồi thành dần dần bị hư hỏng. Trên hơn 100 năm tới, một cộng đồng người Anglo-Saxon được hình thành trong thành phố. Tới khi có người tị nạn tộc Jutish đến định cư, có thể họ đã cưới và lai giống với người dân địa phương, họ đặt lại tên thành phố là Cantwaraburh, có nghĩa là "thành trì của người dân Kent”.

Năm 597 AD, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả gửi giám mục Augustinô đến truyền giáo cố ý cải đạo cho Vua Æthelberht của Kent theo Kitô giáo. Sau khi vua trở lại đạo thì thành Canterbury cũng trở thành một thành của người Roma. Thánh Augustinô chọn Canterbury làm ngai tòa Giám mục của Kent. Một tu viện và một nhà thờ chính tòa được xây cất lên.

Augustinô được trở thành Tổng giám mục đầu tiên của Canterbury. Tầm quan trọng mới của thành phố có Tòa Giám Mục dẫn đến sự hồi sinh của nó, và các ngành nghề phát triển gồm đồ gốm, dệt may và da. Vào năm 630, những đồng tiền vàng được đúc ra từ lò sản xuất tại Canterbury. Năm 672 Thượng Hội Đồng Hertford họp và nâng Tòa Giám Mục Canterbury thành ngai tòa có thẩm quyền trên toàn thể Giáo Hội Anh.

Vào năm 842 và 851, Canterbury bị cuộc tấn công của người Đan Mạch làm mất mát biết bao sinh mạng.

Năm 978, Đức Tổng Giám Mục Dunstan tái lập tu viện được Augustinô xây dựng, và đặt tên là Tu viện St. Augustinô.

Một làn sóng tấn công thứ hai do người Đan Mạch bắt đầu từ năm 991, và trong năm 1011 nhà thờ bị cháy và Đức Tổng Giám Mục Alphege đã bị giết chết. Nhớ lại sự tàn phá gây ra bởi người Đan Mạch, các cư dân của Canterbury đã không chống lại cuộc xâm lược của William Conqueror năm 1066. William lập tức ra lệnh xây một lâu đài bằng gỗ và chất hồ trộn với thân cây lúa bailey, xây gần bức tường thành thời La Mã. Trong những năm đầu thế kỷ 12, lâu đài được xây dựng lại bằng đá.

Thánh Thomas Becket bị giết tại Nhà thờ Canterbury trong năm 1170. Sau cái chết của Đức Tổng Giám Mục Thomas Becket, Canterbury đã trở thành một trong những thị trấn đáng chú ý nhất ở châu Âu, khi người hành hương từ khắp các vùng đất Kitô giáo đến thăm mộ thánh Thomas Becket. Những cuộc hành hương này cung cấp chủ đề cho tác phẩm văn học cổ điển thế kỷ 14 “The Canterbury Tales – Những câu chuyện kể về Canterbury” của tác giả Geoffrey Chaucer. Các di sản văn học tiếp tục với sự ra đời của nhà viết kịch Christopher Marlowe sinh trong thành phố này vào thế kỷ 16.

Canterbury liên quan với nhiều vị thánh từng sống từ thế kỷ 14-17 ở Canterbury:

• Saint Augustinô Canterbury
• Saint Anselm thành Canterbury
• Saint Thomas Becket
• Saint Theodore của Tarsus
• Saint Dunstan
• Saint Adrian của Canterbury
• Saint Alphege
• Saint Æthelberht của Kent.

Nạn Dịch Đen Chết Người tàn phá cư dân Canterbury vào năm 1348. Từ con số 10.000 dân, Canterbury có dân số lớn thứ 10 ở Anh, tới đầu thế kỷ 16, dân số đã giảm xuống còn 3.000. Trong năm 1363, trong cuộc chiến tranh Trăm Năm, một Ủy ban điều tra phát hiện ra rằng tình trạng thành xuống cấp, đá tường bị cướp và mương-điền bị lấp đầy, dẫn đến tình trạng bức tường La Mã bị xói mòn. Giữa 1378 và 1402, bức tường đã gần như được xây dựng lại, và tháp tường mới được thêm vào. Năm 1381, trong cuộc nổi dậy của nông dân, lâu đài và Tòa Tổng Giám mục đã bị vây hãm, và Đức Tổng Giám Mục Sudbury bị chặt đầu ở London. TGM Sudbury vẫn còn được nhớ tới hàng năm vào mùa Giáng sinh có cuộc rước lớn đến ngôi mộ của ngài được chôn tại nhà thờ chính tòa Canterbury. Vào năm 1413 vua Henry IV đã trở thành vị vua duy nhất được chôn cất tại nhà thờ chính tòa này.

Năm 1448 Canterbury đã được vua cấp một Hiến Chương đặc biệt cho thành phố, trong đó thị trưởng và cảnh sát trưởng được chức Lord Mayor. Năm 1504 tháp chính của nhà thờ có tên tháp Bell Harry đã được hoàn thành, kết thúc 400 năm xây dựng đại thánh đường này.

Trong quá trình giải thể của các Tu viện Công Giáo ở Anh quốc, thành phố có một nam tu viện, một tu viện cho các sơ, ba tu viện cho sư huynh đều đã bị đóng cửa. Tu viện St Augustinô vào thời đó là tu viện giầu thứ 14 tại Anh, thế nên tài sản cũng đã phải trao nộp vào Hoàng gia Anh, và nhà thờ và tu viện của ấy đã bị phá đổ. Phần còn lại của tu viện đã bị tháo dỡ trong vòng 15 năm tới. Một phần còn lại của tu viện đã được chuyển đổi thành một cung điện. Nhà nguyện kính thánh Thomas Becket đã bị phá hủy và tất cả vàng, bạc và ngọc qúi đã được gỡ bỏ và maqng về Tower of London. Cũng vậy các hình ảnh, tượng, tên và ngày lễ mừng Thánh Becket được xóa sạch trên toàn vương quốc, kết thúc các cuộc hành hương kính viếng thánh nhân.

Vào thế kỷ 17, dân số Canterbury có chừng 5.000 người, trong đó 2.000 là người Huguenot Tin Lành nói tiếng Pháp. Họ là những người đã bắt đầu chạy trốn cuộc đàn áp người gốc Tây Ban Nha ở Hà Lan trong cuộc chiến tranh vào giữa thế kỷ 16. Người Huguenot giới thiệu việc dệt lụa tơ tằm vào thành phố, mà tới khoảng năm 1676 thì dệt tơ tằm đã vượt xa công nghệ dệt len.

Năm 1620 ông Robert Cushman đã đàm phán được một hợp đồng thuê tầu Mayflower tại số 59 đường Palace với mục đích vận chuyển những người Thanh giáo sang Mỹ châu.

Vào năm 1647, trong cuộc nội chiến Anh, những cuộc bạo loạn nổ ra khi thị trưởng thành phố Thanh giáo Canterbury cấm mừng lễ Chúa Giáng sinh. Năm sau khi Tòa án xử những người nổi loạn đã dẫn đến một cuộc nổi dậy ở Kent chống lại các lực lượng của Parliament (Nghị viện) góp phần vào sự khởi đầu của giai đoạn thứ hai của cuộc chiến. Tuy nhiên, thành Canterbury đã phải đầu hàng thể chế Nghị Viện Anh một cách hòa bình sau Nghị viện chiến thắng trong trận đánh ở Maidstone.

Khoảng năm 1770, lâu đài ở Canterbury đã đổ nát, và nhiều phần của nó đã bị phá hủy trong thời gian cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Năm 1787 tất cả các cửa trong tường thành phố, ngoại trừ Westgate, cũng như nhà tù thành phố bị phá hủy danh cho dự án mở đường cho xe ngựa di chuyển. Năm 1820 ngành công nghiệp lụa của thành phố kẹp chết vì những người Hồi giáo Ấn Độ mạng tơ lụa tới. Đường sắt ở Canterbury và Whitstable là những toa xe lửa chở khách đầu tiên trên thế giới, được khai trương vào năm 1830. Giữa năm 1830 và năm 1900, dân số thành phố đã tăng từ 15.000 đến 24.000. Nhà tù Canterbury đã được mở cửa vào năm 1808 ngay bên ngoài ranh giới thành phố.

Trong cuộc Thế Chiến thứ nhất, một số doanh trại và bệnh viện tự nguyện đã được thiết lập xung quanh thành phố, và vào năm 1917 một máy bay ném bom của Đức đã nhao xuống và vỡ tan gần đường Broad Oak Road.

Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, có tới 10.445 quả bom được ném xuống thành phố trong 135 phi vụ tấn công riêng biệt. Hậu quả là nó phá hủy 731 ngôi nhà và 296 dinh thự khác trong thành phố, bao gồm cả Trường trung học Simon Langton, và 115 người bị thiệt mạng. Cuộc tấn công tàn phá nhất là vào ngày 01 tháng 6 năm 1942 trong chiến dịc tốc chiến có tên là Blitz Baedeker.

Trước khi kết thúc chiến tranh, kiến trúc sư Charles Holden đã lập kế hoạch để tái phát triển trung tâm thành phố, nhưng người dân địa phương đã phản đối mạnh mẽ và họ lập thành Hội Công dân Đề kháng. Họ đã thành công và lên nắm quyền trong cuộc bầu cử địa phương năm 1945. Xây dựng lại trung tâm thành phố cuối cùng đã bắt đầu 10 năm sau chiến tranh. Một đường vành đai được xây dựng từng giai đoạn bên ngoài các bức tường thành phố một thời gian sau đó để giảm bớt vấn đề giao thông ngày càng tăng từ trung tâm thành phố, mà sau này biến thành đường cho khách đi bộ. Việc mở rộng lớn nhất của thành phố xảy ra trong những năm 1960, với sự xuất hiện của Đại học Kent ở Canterbury và Christ Church College.

Một khách nổi tiếng khác là Mahatma Gandhi, người đã đến thành phố trong tháng 10 năm 1931, ông đã gặp ngài Hewlett Johnson, khi đó là Trưởng giáo của Canterbury.

Trong thập niên 1980, Canterbury chứng kiến các chuyến thăm viếng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Nữ hoàng Elizabeth II, và khởi đầu cho Lễ hội Canterbury hàng năm. Từ năm 1999 đến năm 2005, Trung tâm mua sắm Whitefriars trải qua thời tái phát triển lớn lao. Năm 2000, trong thời gian tái phát triển, một dự án khảo cổ học lớn được thực hiện bởi Canterbury Archaeological Trust, được biết tới như là cuộc Đào Bới Lớn (Big Dig).

3. Lâu đài Dover sừng sững nhìn về eo biển Calais

Xem hình ảnh Lâu đài Dover

Lâu đài Dover nằm cao nhất trên đĩnh núi đá vôi trong thị trần Dover và lịch sử của nơi này đã ghi dấu hơn 2 thiên niên kỷ trước. Lâu đài tráng lệ này này lớn nhất ở Anh quốc và được thành lập vào thế kỷ 12 và đã được mô tả như là "chính nước Anh" do tầm quan trọng phòng thủ của nó trong lịch sử. Nó đã từng bảo vệ bờ biển Anh quốc qua bao thế kỷ từ các cuộc xâm lược của ngoại bang và nhất là trong kỳ thế chiến II. Vách đá trắng đá vôi đối mặt với lục địa châu Âu ở phần hẹp nhất của eo biển Anh quốc.

Ngày nay khi thăm lâu đài Dover chúng ta được thưởng thức sự tương phản màu sắc với sự đa dạng về trang bị quần áo, đồ dùng, súng ống và các di tích lịch sử đầy đủ trong Tháp Tower lớn. Đồng thời cũng được xem các diễn viên trong trang phục cổ xưa giới thiệu và trình bầy cuộc sống cổ xưa La mã và thời trung cổ tại tòa án của vua Henry II. Đi tham quan các phòng ốc và thăm viếng phòng trình bầy lịch sử các triều đại Anh quốc.

Khi thăm lâu đài chúng ta sẽ dễ nhận thấy ngọn hải đăng La Mã cao 24 mét hay còn gọi là hải đăng Dover (hoặc Pharoses), một hải đăng khác cũng còn tồn tại và nằm trên phía hướng Tây đối lập, qua thị trấn Dover. Ngọn hải đăng La Mã tại Lâu đài Dover được xây cất trước cả khi người La Mã xâm chiếm Anh quốc vào năm 43 sau công nguyên. Trong cuộc khai quật trên các gò đất nằm dưới nhà thờ và gần hải đăng Pharos phát hiện có dấu tích dân cư thời kỳ đồng sinh sống tại đây.

Sau trận đánh có tên Hastings trong tháng 10 năm 1066, Vua William (the Conqueror) người Chiến Thắng và lực lượng của vua hành quân đến Tu viện Westminster làm lễ đăng quang lên ngôi vua. Họ làm một con đường vòng xoay qua thành Romney, Dover, Canterbury, Surrey và Berkshire. Vị trí của cảng Dover luôn luôn là yếu tố chiến lược quan trọng mà vì vậy thu hút sự chú ý của vua William.

Lâu đài được xây dựng đầu tiên, hoàn toàn bằng đất sét. Tới thời Saxon pháo đài được xây vửng chắc hơn và tập trung gần nhà thờ St Mary Saxon de Castro, mặc dù bằng chứng khảo cổ cho thấy rằng nó thực sự là một motte mới và thiết kế với chất bailey như lâu đài xây dựng từ đầu gần đó.

Xây dựng lại lớn đã diễn ra vào cuối thế kỷ 18 trong thời chiến tranh Napoleon. William Twiss, các kỹ sư chỉ huy của các huyện phía Nam, đã xây dựng lâu đài kiên cố để cải thiện phòng thủ của thị trấn, hoàn thành các pháo đài phòng thủ bên ngoài Lâu đài Dover, thêm các súng ở vị trí ở phía đông, và xây dựng Bastion nhà ở cho binh lính Constable để bảo vệ thêm ở phía tây. William Twiss cũng xây dựng Cổng Canon để liên kết hệ thống phòng thủ của lâu đài với những người trong thị trấn.

Nếu muốn có thể xuống khám phá địa đạo thời chiến bí mật nằm ngày trong chân đồi trong khuân viên lâu đài phía nhìn ra biển Calais hướng về nước Pháp.

Địa đạo bí mật thời chiến dưới Lâu đài Dover

Với Dover trở thành một thị trấn đồn trú, nên có thêm các doanh trại và nhà kho cho các binh sĩ và trang thiết bị của họ. Các kỹ sư Hoàng gia đã xân thêm đường hầm phức tạp trong doanh trại khoảng 15 mét dưới đỉnh vách đá và các binh sĩ đầu tiên được cung cấp chỗ ở từ năm 1803. Ở đỉnh cao của chiến tranh Napoleon, các đường hầm có thể chứa tới 2.000 binh sĩ và cho đến nay đây là doanh trại ngầm duy nhất được xây dựng ở Anh.

Chiến tranh Napoleon kết thúc, các đường hầm được một phần chuyển đổi và sử dụng cho dịch vụ Phong tỏa bờ biển để chống buôn lậu. Vào năm 1827 trụ sở đã được chuyển gần bờ. Các đường hầm sau đó vẫn bị bỏ rơi trong hơn một thế kỷ.

Sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai vào năm 1939 chứng kiến sự chuyển đổi đường hầm thành các đường hầm bí mật và là nơi trú ẩn các cuộc tấn công và sau đó biến thành một trung tâm chỉ huy quân sự và bệnh viện ngầm. Vào năm 1940, Đô đốc Sir Bertram Ramsey chỉ đạo việc sơ tán binh lính Pháp và Anh từ Dunkirk, có tên mã là Dynamo, từ trụ sở chính đặt trong các đường hầm vách đá.

Một tổng đài điện thoại quân sự đã được cài đặt vào năm 1941 và phục vụ các trụ sở dưới lòng đất. Tổng đài đã liên tục sử dụng nên phải có một đường hầm mới được tạo ra để chứa pin và bộ sạc cần thiết để giữ cho chúng hoạt động. Hải quân sử dụng làm tổng hành dinh giao tiếp trực tiếp với các tàu, cũng như sử dụng nó để chỉ đạo nghề cứu hộ máy bay để đón các phi công bị bắn rơi ở eo biển Dover.

Trong đường hầm cũng có một nhà thương vào năm 1941 để phục vụ như một trạm y tế cho thương binh. Binh lính được gửi đến cấp cứu trong các đường hầm và sau đó được chuyển đến bệnh viện nội địa.

Từ năm 2007 đến năm 2009, Tồ chức Di Sản Anh Quốc dành £ 2.450.000 để tái tạo bên trong của lâu đài. Theo số liệu của Hiệp hội các thắng cảnh hàng đầu ở Anh, năm 2012 đã có chừng 400.000 khách du lịch đã đến thăm Lâu đài Dover.

Eo biển và Gibraltar Rock

Xem hình ảnh Gibraltar

Gibraltar là một lãnh thổ hải ngoại của Anh nằm ở cuối phía nam của bán đảo Iberia (Tây Ban Nha) ở lối vào của Địa Trung Hải. Lãnh thổ của Gibraltar bao gồm 6. 8 cây số vuông (2.6 sq miles) và có biên giới dài 1.2 cây số (0,75 dặm) với Tây Ban Nha, tiếp giáp với thị trấn La Línea de la Concepción, một đô thị trong tỉnh Cádiz, nằm ở phía nam biên giới Tây Ban Nha. Địa hình Gibraltar bao gồm Rock cao 426 mét (1,398 ft) khối đá cao của Gibraltar từ thời Jurassic đá vôi. Nó chứa nhiều đường hầm sâu trong đá, hầu hết trong số đó vẫn đang hoạt động cho mục tiêu quân sự, dân không được vào.

Rock of Gibraltar là cột mốc duy nhất của khu vực. Ở chân của núi đá là khu vực thành phố đông dân cư, có gần 30.000 người Gibraltarian và quốc tịch khác sinh sống tại đây.

Bờ biển Gibraltar đo được là 12 km (7,5 dặm) chiều dài. Có hai bờ biển một ở phía Đông, trong đó có các khu định cư của Sandy Bay và Catalan Bay; và phía Tây, nơi mà phần lớn dân số sống. Từ mũi Europa Point, có thể nhìn sang châu Phi khi gặp ngày trời trong sáng.

Chủ quyền của Gibraltar là một điểm tranh luận trong quan hệ Anh quốc - Tây Ban Nha, mỗi khi Tây Ban Nha khẳng định hay tuyên bố quyền lãnh thổ. Đã nhiều lần trưng cầu dân ý, nhưng người dân Gibraltarians từ chối đề nghị chủ quyền thuộc về Tây Ban Nha, như đã xẩy ra trong một cuộc trưng cầu năm 1967 và một lần nữa vào năm 2002. Theo hiến pháp Gibraltar năm 2006, Gibraltar tự lập điều hành vấn đề riêng của mình, mặc dù một số quyền hạn, như quốc phòng và đối ngoại, vẫn là trách nhiệm của Chính phủ Vương quốc Anh.

Các nhóm dân tộc chính gồm người Anh (27%), Tây Ban Nha (24%, chủ yếu là Andalucia nhưng cũng có một số 2% Minorcans), Genova và người Ý khác (20%), Bồ Đào Nha ( 10%), Tiếng Malta (8%), và người Do Thái (3%). Ngoài ra còn có (ít hơn 1%) dân tộc nhỏ của các nhóm khác như Ma rốc, Pháp, Áo, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan và Đan Mạch.

Ngôn ngữ chính thức của Gibraltar là tiếng Anh, và được sử dụng bởi chính phủ và trong trường học. Hầu hết người dân địa phương biết song ngữ, cũng nói tiếng Tây Ban Nha, do vị thế Gibraltar cạnh ngày Tây Ban Nha. Tuy nhiên, tiếng Ả Rập được cộng đồng Ma-rốc sử dụng, và cả tiếng Hin-ddi và Sindhi của cộng đồng Ấn Độ Gibraltar.

Tình hình tôn giáo ở Gibraltar như sau: Theo điều tra dân số năm 2001, khoảng 78,1% người Gibraltar là người Công Giáo La Mã. Nhà thờ Santa Maria hiện diện ở đây từ thế kỷ thứ mười sáu và là nhà thờ chính tòa Công Giáo Giáo của Giáo phận Gibraltar, và cũng là nhà thờ Công Giáo lâu đời nhất trên lãnh thổ. Giáo phái Kitô giáo khác bao gồm Giáo Hội Anh (7,0%), có Nhà thờ Thiên Chúa Ba Ngôi là nhà thờ chính tòa của Giám Mục Anh giáo của Gibraltar, có nhà thờ Methodist Church, Giáo Hội của Scotland, các nhà thờ Ngũ Tuần và các phong trào Tân Đặc Sủng. Ngoài ra còn có một Hội thuộc Nhân chứng Jehovah. Có 2,9% số ngưới cho biết họ không tôn giáo nào.

Tôn giáo lớn thứ ba là Hồi giáo (4,0% dân số). Ngoài ra còn có một Hindu (1,8%), các thành viên Bahá'í và một cộng đồng Do Thái lâu đời có 584 người, chiếm 2,1% dân số. [Có bốn giáo đường Do Thái Chính thống hoạt động tại Gibraltar và một số cơ sở Kosher.

Giáo dục ở Gibraltar thường theo mô hình Anh, hoạt động trong một hệ thống cấp ba. Gibraltar có mười lăm trường công lập, một trường MOD, một trường tư thục và trường cao đẳng giáo dục hơn.

Tất cả người dân Gibraltar được chăm sóc sức khỏe tại các phòng khám tại các bệnh viện và trung tâm chăm sóc sức khỏe. Tất cả các công dân Anh khác cũng có quyền tự do của điều trị tại Rock nều xuất trình hộ chiếu hợp lệ của Anh quốc trong thời gian lưu trú tối đa 30 ngày. Các dân thuộc khối thị trường chung Âu châu khác đều được điều trị nếu xuất trình một thẻ bảo hiểm y tế châu Âu có hiệu lực. Điều trị nha khoa và các loại thuốc theo quy định được miễn phí cho sinh viên Gibraltar và người về hưu.

Văn hóa của Gibraltar phản ánh nguồn gốc đa dạng của người dân Gibraltar. Trong khi có những ảnh hưởng Tây Ban Nha (chủ yếu là từ vùng Andalusia) và Anh quốc. Các văn hóa khác từ nguồn gốc dân tộc đến từ Genova, Malta, Bồ Đào Nha và Đức. Một vài cư dân Gibraltar khác là Do Thái có nguồn gốc Sephardic, Ma-rốc, hoặc Ấn Độ. Ảnh hưởng của Anh vẫn còn mạnh mẽ, với tiếng Anh là ngôn ngữ của chính phủ, thương mại, giáo dục và các phương tiện truyền thông.

Trở ngược lại lịch sử, vào năm 1704, một lực lượng Anh - Hà Lan chiếm được Gibraltar từ Vương quốc Castile trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha. Lãnh thổ Gibraltar sau đó đã được nhượng lại cho nước Anh "vĩnh viễn" theo Hiệp ước Utrecht năm 1713. Đó là một địa điểm chiến lược quan trọng cho Hải quân Hoàng gia, ngày nay nền kinh tế chủ yếu dựa vào du lịch, chơi game trực tuyến, dịch vụ tài chính, và vận chuyển.

Quân đội Anh thống trị nền kinh tế Gibraltar, với xưởng đóng tàu hải quân cung cấp phần lớn các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên trong vòng hơn hai mươi năm qua việc đóng tầu giảm, và ước tính chỉ chiếm 7% của nền kinh tế địa phương, so với hơn 60% trong năm 1984.

Ngày nay, nền kinh tế của Gibraltar bị chi phối bởi bốn lĩnh vực chính, đó là dịch vụ tài chính, chơi game internet, vận chuyển và du lịch.

Du lịch cũng là một ngành công nghiệp quan trọng của Gibraltar. Rock là một điểm thu hút du lịch nổi tiếng, đặc biệt là khách du lịch người Anh và người dân ở bờ biển phía nam của Tây Ban Nha. Các chuyến tầu du lịch (cruises) đến đây hằng ngày, nó thu hút du khách từ các khu nghỉ mát ở Tây Ban Nha. Nó cũng là một điểm đến mua sắm phổ biến, và tất cả các hàng hóa và dịch vụ GTGT miễn phí.

Một số ngân hàng Anh và quốc tế có trụ sở hoạt động tại Gibraltar. Ngân hàng Jyske là ngân hàng lâu đời nhất trong cả nước. Tổ tiên của tài chánh Barclays là Ngân hàng Anglo-Ai Cập, có từ năm 1888, và Ngân hàng Tín dụng Fontier (nay là tập đoàn Crédit Agricole) có từ năm 1920.

Quốc khánh Gibraltar rơi vào ngày 10 tháng 9. Đó là một ngày nghỉ lễ, trong đó dân Gibraltar ăn mặc trong màu sắc quốc gia của họ với màu đỏ và trắng và 30.000 quả bóng màu tương tự được phát ra, đại diện cho người dân Gibraltar.

Các món ăn của Gibraltar là kết quả của sự đa dạng phong phú của các nền văn minh, từ người Berber ở Bắc Phi đến Andalucia và Anh. Những ảnh hưởng ẩm thực bao gồm những người từ Malta, Genoa, Bồ Đào Nha và Andalusia. Sự pha trộn hỗn hợp này cho Gibraltar một sắc thái gồm vị Ả Rập, các món ăn Địa Trung Hải và Anh. Calentita, một món ăn bánh mì, loại bánh làm từ đậu xanh bột, nước, dầu ô liu, muối và hạt tiêu, được xem là món ăn dân tộc của Gibraltar.

Gibraltar không có tài nguyên thiên nhiên đáng kể và ít nước ngọt tự nhiên, chỉ có các giếng nước tự nhiên ở phía bắc, cho đến gần đây Gibraltar sử dụng các nhà bê tông lớn để thu thập nước mưa. Nước ngọt từ các lỗ khoan được bổ sung bởi hai nhà máy khử muối: Một nhà máy thẩm thấu xây dựng trong một đường hầm trong đá, và một nhà máy chưng cất đa cấp tại phía Bắc của đảo.

Gibraltar có khí hậu Địa Trung Hải cận nhiệt đới với mùa đông ôn hoà và mùa hè ấm áp. Mưa chủ yếu xảy ra vào mùa đông, với mùa hè là thường khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm của nó vào khoảng 21 ° C (70 ° F) vào ban ngày và vào ban đêm là 15 ° C (59 ° F). Tháng 8 là tháng nóng nhất, nhiệt độ dao động điển hình 25-31 ° C (77-88 ° F), nhiệt độ nước biển trung bình là 22 ° C (72 ° F). [43]

Ở Gibraltar có hơn 500 loài thực vật khác nhau, có hoa mọc trên đá. Gibraltar là nơi duy nhất ở châu Âu, nơi cây hoa thập tự hoa (Iberis gibraltarica) được tìm thấy phát triển trong tự nhiên. Nó là biểu tượng của khu bảo tồn thời đá thượng. Cây ôliu và cây thông là một trong những phổ biến nhất của những người trồng xung quanh Rock.

Hầu hết các khu vực trên đỉnh Rock có các bầy khỉ khoảng 230 khỉ Barbary sinh sống, chúng được liệt vào số danh sách bảo tồn thiên nhiên. Đó là những con khỉ hoang dã chỉ có ở châu Âu, tên khoa học là Macaca Sylvanus, được liệt kê như nguy cơ tuyệt chủng của Sách đỏ IUCN và đang giảm. Bầy Barbary là một trong những trọng điểm cho khách du lịch tới chiêm ngắm của Gibraltar.

Vài nét lịch sử về nguồn gốc Gibraltar

Tên Gibraltar là nguồn gốc Tây Ban Nha tên tiếng Ả Rập Jebel Tariq (جبل طارق), có nghĩa là "núi Tariq." Tên này được đặt tên sau khi nhà lãnh đạo Tariq ibn Ziyad, người Hồi đứng đầu cuộc xâm nhập ban đầu vào Iberia vào năm 711 dưới sự chỉ huy của Umayyad Caliph Al-Walid I. Trước đó, nó đã được được gọi là Núi Mons Calpe. Bên mặt phía bắc của Tháp Homage hãy còn lâu đài do người Moorish (ở Tây Ban Nha gọi người Hồi xâm nhập từ Phi châu là Moorish) xây dựng vào thế kỷ 14.

Bằng chứng về nơi cư trú của người Neanderthal tại Gibraltar từ thời 128.000 năm trước Công nguyện tới 24.000 trước Công nguyên đã được phát hiện ở hang động ở Gorham, làm cho Gibraltar là nơi cuối cùng của người Neanderthal cư trú được biết đến. Theo lịch sử ghi lại, các cư dân đầu tiên ở đây là những người Phoenicia, khoảng 950 trước Công nguyên. Sau đó, Gibraltar được biết đến như một trong những trụ cột của thần Hercules, theo truyền thuyết Hy Lạp về việc tạo ra eo biển Gibraltar của thần Heracles. Người Carthage và La Mã cũng đã thành lập các khu định cư bán vĩnh viễn nơi đây. Sau sự sụp đổ của đế chế La Mã, Gibraltar đặt dưới sự kiểm soát của người Vandal trong một thời gian ngắn.

Khu vực này sau đó được sát nhập như một phần của Vương quốc người Visigothic của Hispania cho đến khi cuộc chinh phục Hồi giáo Iberia từ năm 711 AD.

Năm 1160, lãnh tụ Hồi là Sultan Almohad Abd al-Mu'min ra lệnh lập nơi định cư người Hồi, bao gồm cả một lâu đài, được xây dựng ở đây. Sau khi hoàn thành các công trình, Sultan từ Phi châu vượt qua eo biển để kiểm tra các công trình và ở lại trong Gibraltar trong hai tháng. Tháp Homage của Lâu đài Hoang vẫn đứng ngày hôm nay. Từ 1274 trở đi, thị trấn trải qua các cuộc chiến đấu với các lãnh tụ của Granada, của Ma-rốc và các vị vua Công Giáo của Castile.

Vào năm 1462, Gibraltar cuối cùng bị Juan Alonso de Guzmán chiếm thành lập ra Công tước xứ Medina Sidonia chiếm.

Khi vua Henry IV của Castile chinh phục Gibraltar, vua thiết lập nó như một phần của vương quốc mình và gọi là Campo de Gibraltar. Sáu năm sau Gibraltar đã được khôi phục lại tước xứ Medina Sidonia.

Năm 1501 Gibraltar trở lại là đất của Tây Ban Nha, Hoàng hậu Isabella I của Castile ban hành một một sắc chỉ Hoàng gia và cấp huy hiệu cho Gibraltar, nó vẫn còn được sử dụng cho tới ngày hôm nay.

Năm 1704, trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, một lực lượng Anh quốc - Hà Lan kết hợp chiếm được thành Gibraltar, dẫn đến một cuộc di cư thường trú của phần lớn người dân vào các khu vực xung quanh của Campo de Gibraltar. Theo các điều khoản của Hiệp ước 1713 của Utrecht Gibraltar, Tây Ban Nha nhượng lại Gibraltar cho Anh quốc vĩnh viễn.

Năm 1727 Vua Philip V của Tây Ban Nha không thành công khi cố gắng để lấy lại Gibraltar trong cuộc bao vây hãm thành nhiều năm gọi là “Siege of Gibraltar”, kéo dài từ 1779 đến 1783.

Gibraltar đã trở thành một căn cứ quan trọng cho Hải quân Hoàng gia Anh và đóng một vai trò quan trọng trước khi trận chiến Trafalgar và trong Chiến tranh Crimean 1854-1856, do vị trí chiến lược của nó. Giá trị chiến lược của nó tăng lên với việc mở cửa kênh đào Suez, vì nó nằm trên tuyến đường biển giữa Vương quốc Anh và Đế quốc Anh về phía đông của kênh đào Suez. Trong cuối thế kỷ 19 Anh đã bỏ nhiều công sức và có những khoản đầu tư lớn trong việc cải thiện các công trình và cảng Gibraltar.

Trong Thế chiến II, thường dân Gibraltar được sơ tán (chủ yếu là đến London, Anh quốc, cùng như tới các thuộc địa Anh là Ma-rốc, Madeira và Jamaica) và Núi Rock of Gibraltar được củng cố như một pháo đài.

Nhà độc tài Tây Ban Nha Francisco Franco dù không muốn cũng đã phải miễn cưỡng cho phép quân đội Đức trú trên đất Tây Ban Nha, nhưng quân Đức cũng phải thất vọng trong một kế hoạch chiếm núi Rock trong cuộc hành quân có biệt danh là Felix.

Trong những năm 1950, tường Franco của Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền trên Gibraltar và nổi lên phong trào hạn chế đi lại gữa Gibraltar và Tây Ban Nha. Nhưng đa số người ở Gibraltar vẫn muốn mình thuộc chủ quyền của Anh cai trị. Trong cuộc trưng cầu dân ý ở Gibraltar năm 1967, dẫn đến sự ra đời Hiến Pháp Gibraltar năm 1969. Đáp lại, Tây Ban Nha hoàn toàn đóng cửa biên giới với Gibraltar và cắt đứt tất cả các liên kết truyền thông.

Biên giới với Tây Ban Nha đã được mở cửa trở lại một phần vào năm 1982 và hoàn toàn mở cửa trở lại vào năm 1985 trước khi Tây Ban Nha gia nhập vào Cộng đồng châu Âu.

Trong một cuộc trưng cầu tổ chức vào năm 2002, người Gibraltar lại một lần nữa với đa số áp đảo (99%) muốn thuộc về Anh quốc và vì thế đã đạt được "thỏa thuận chung". Chính phủ Anh đã cam kết tôn trọng mong muốn của người Gibraltar. Một Hiến pháp thứ tự mới đã được phê duyệt trong trưng cầu dân ý vào năm 2006. Một quá trình đàm phán ba bên bắt đầu trong năm 2006 giữa Tây Ban Nha, Gibraltar và Vương quốc Anh, kết thúc một số hạn chế và giải quyết tranh chấp trong một số lĩnh vực cụ thể như thủ tục hải quan, viễn thông, lương hưu và giao lưu văn hóa.

Gibraltar là một lãnh thổ của Anh ở nước ngoài. Luật Quốc tịch Anh 1981 cấp đầy đủ quyền công dân Anh cho người dân Gibraltar.

Theo hiến pháp hiện tại, Gibraltar đã gần như hoàn tự trị về nội bộ thông qua một nghị viện được bầu với nhiệm kỳ tối đa bốn năm. Quốc hội hiện nay bao gồm mười bảy thành viên được bầu, và Chủ tịch Quốc hội không được bầu, nhưng bằng một nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm. Chính phủ bao gồm mười thành viên được bầu. Người đứng đầu nhà nước là Nữ hoàng Elizabeth II, người được đại diện của Thống đốc Gibraltar. Thống đốc điều hành các vấn đề hằng của Gibraltar với Quốc hội tham vấn, nhưng chịu trách nhiệm trước Chính phủ Anh đối với quốc phòng, chính sách đối ngoại, an ninh nội bộ và quản trị nói chung.

Gibraltar là một phần của Liên minh châu Âu, đã tham gia như một lãnh thổ phụ thuộc của Vương quốc Anh vào năm 1973 theo điều khoản 229 (4) của Hiệp ước Roma bao gồm vùng lãnh thổ quốc gia thành viên đặc biệt, miễn một số lĩnh vực như liên minh hải quan và Chính sách Nông nghiệp chung. Các điều ước liên quan đến than, thép, nông nghiệp và thủy sản không áp dụng đơn giản chỉ vì Gibraltar không sản xuất bất kỳ của những tài nguyên. Sau mười năm, Gibraltar được quyền bỏ phiếu trong cuộc bầu cử châu Âu, từ năm 2004 người dân Gibraltar đã tham gia trong cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu như một phần của Tây Nam nước Anh.