Như đã tường trình, Giáo sư Anna Rowlands, giáo sư về Tư tưởng và Thực hành Xã hội Công Giáo tại Khoa Thần học và Tôn giáo & Trung tâm Nghiên cứu Công Giáo, Đại học Durham, Vương quốc Anh, đã được đề cử làm chuyên viên trong ban soạn thảo tường trình tổng hợp của phiên họp đầu tiên của Thượng Hội Đồng thường lệ thứ 16, làm khuôn khổ cho phiên họp thứ hai sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2024.

Bà vốn là người có cùng một nhãn quan với Ivereign Austin và cả hai đều được đề cử làm phối trí viên (facilitators) của Thượng Hội Đồng kỳ này. Trong cuộc họp của Thượng Hội Đồng ngày Thứ hai, 9 tháng 10 năm 2023, bài từng trình bầy một số điểm thần học giúp các tham dự viên suy nghĩ. Chúng tôi phiên dịch bài đó, để rộng đường suy tư của độc giả VietCatholic:



Nhập lượng Thần học

Hiệp Thông: Tiệc Cưới Chiên Con

Kính thưa Đức Thánh Cha, anh chị em thân mến,

Liệu chúng ta có thể tìm thấy can đảm để gặp gỡ thực tại như nó vốn là không? Đây là câu hỏi đầy thử thách của Cha Timothy đối với chúng ta. Ngài đặt ra trước mắt chúng ta nghịch lý về ơn gọi của chúng ta để trở nên giống Chúa Kitô: nghe, nhìn và cảm nhận tình trạng thế giới của chúng ta, nhưng vẫn thành thật một cách nhẹ nhàng với chính mình rằng chúng ta không thấy việc chấp nhận thực tại là điều dễ dàng. Phần B1 của Tài liệu Làm việc dẫn chúng ta vào trọng tâm của nghịch lý căn bản này của Kitô giáo: niềm hy vọng và khó khăn, vẻ đẹp và sự tự do của lời mời gọi của Thiên Chúa cũng như những thách thức của việc tiến tới sự thánh thiện. Tài liệu Làm việc sử dụng ngôn ngữ của Lumen Gentium § 1 – mời gọi chúng ta suy gẫm về sứ mệnh của Giáo hội là trở thành dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất với Thiên Chúa và toàn thể nhân loại trong Chúa Kitô. Đời sống hiệp thông được ban cho chúng ta như một cách sống ân sủng trong Chúa Kitô, học cách ‘chịu đựng’ thực tại một cách nhẹ nhàng, quảng đại, yêu thương và can đảm vì hòa bình và ơn cứu độ của toàn thế giới.

Như thế, điều đầu tiên cần nói về sự hiệp thông là nó là thực tại của sự sống của chính Thiên Chúa, hữu thể của Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Theo nghĩa này, đó là điều có thực nhất: nền tảng của thực tại và nguồn gốc hữu thể Giáo hội.

Hành động đầu tiên của chúng ta liên quan đến thực tại này là sự tiếp nhận vui vẻ, không lo lắng, không cạnh tranh. Tham gia vào đời sống hiệp thông là vinh dự và phẩm giá của cuộc đời chúng ta. Hiệp thông là chúng ta hiểu ra sao mục đích tối hậu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại: thu hút tạo vật mà Người yêu thương trở nên hoàn thiện hơn bao giờ hết vào cuộc sống của chính Người, trong vòng tay ôm ấp, và qua việc làm đó, sai chúng ta đi canh tân bộ mặt trái đất. Lời mời gọi trở thành Giáo hội phục vụ vương quốc này được mô tả trong Lumen Gentium § 9: “để nó trở thành bí tích hữu hình cho mỗi và mọi bí tích của sự hiệp nhất cứu độ này”. Giáo Hội vừa biểu lộ vừa mang lại sự hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng hiệp thông với mọi tạo vật. Khi đó sự hiệp thông là hữu thể và việc làm của chúng ta.

Một người bạn nói với tôi rằng Raymond Brown, học giả Kinh thánh người Mỹ, rất thích dạy học trò của mình rằng ngôn ngữ koinonia [hiệp thông] lần đầu tiên xuất hiện trong Tân Ước liên quan đến việc thực hành trao đổi tiền bạc, diễn tả ý tưởng về chiếc nồi chung của Giáo hội. Tiền bạc – tiền tệ của Giáo hội không phải là tiền mặt – đúng hơn, nồi chung của chúng ta là sự phong phú của các hồng ân, các đặc sủng và ân sủng Thiên Chúa tuôn đổ trong Giáo hội, mà Người “phân phát […] bằng thẩm quyền của Người” (Bas., fid. 3), và chúng ta được kêu gọi để phân định. Là những Kitô hữu đã được rửa tội, tất cả chúng ta đều có trong tay chiếc nồi này.

Chúng ta coi sự hiệp thông vừa là lời đầu tiên vừa là lời cuối cùng cho một tiến trình đồng nghị: nguồn gốc và chân trời của con đường chúng ta đi. Với Chúa Kitô và Thánh Thần của Người ở trung tâm, sự hiệp thông chính là sức mạnh của căn phòng này.

Người ta thường nói đùa rằng Thiên Chúa đã trở thành xác thịt, và các nhà thần học đã biến Thiên Chúa thành lời nói… và thời gian của tôi thì ngắn ngủi nên tôi sẽ chỉ chọn ba chiều kích suy nghĩ khác nhau về sự hiệp thông để trình bầy thật ngắn gọn.

Trước hết, hiệp thông là vẻ đẹp của tính đa dạng trong hiệp nhất. Trong một thế giới hiện đại có xu hướng vừa thuần nhất vừa rạn nứt, sự hiệp thông là ngôn ngữ của vẻ đẹp, sự hài hòa của tính hiệp nhất và tính đa nguyên. Vẻ đẹp này nằm ở việc tôn vinh sự phong phú và đa dạng của một tạo thế biết tôn vinh Thiên Chúa, một tính đa dạng chỉ kết thúc khi mỗi tạo vật đã cạn kiệt tính được tạo dựng của mình, và tất cả được gói gọn trở lại vào Thiên Chúa qua Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần.

Thánh Bonaventura, nhà thần học vĩ đại dòng Phanxicô, đã viết rất hay về cách tính đa dạng của tạo vật cho phép tất cả các màu sắc khác nhau của ánh sáng thần linh chiếu rọi qua. Ánh sáng thần linh được nhận thấy trong sự hiệp thông tỏa sáng qua sự đa dạng vinh hiển – giữa con người, tạo vật, văn hóa, ngôn ngữ, phụng vụ, ân sủng và đặc sủng. Henri de Lubac nhấn mạnh rằng Giáo hội không bao giờ cạnh tranh với văn hóa. Trong nền văn hóa nơi mình sinh sống, Giáo Hội tuyên xưng và đón nhận Chúa Kitô. Một sự hiệp thông tỏa sáng là một sự đa dạng đích thực, không cạnh tranh với một điểm hiệp nhất duy nhất trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trước tinh thần trần thế thường tôn thờ sức mạnh cạnh tranh và quyết đoán cũng như luận lý học chiếm hữu hơn là quan hệ, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta vào sự hiệp thông khiêm nhường và phục vụ. Jean-Marie Tillard đã viết rằng, không giống như bất cứ thực thể nào khác trên thế giới, chính trong việc ôm lấy sự yếu đuối, đau khổ và nghèo khó mà Giáo hội ‘thành công’ trong việc trở thành dấu chỉ ân sủng của Thiên Chúa. Vẻ đẹp của chúng ta không phải là vẻ đẹp của thế giới. Phần B1 mời gọi chúng ta lớn lên trong sự hiệp thông bằng cách khiêm tốn suy gẫm với những người dễ bị tổn thương, đau khổ hoặc yếu đuối cũng như về những tổn thương và yếu đuối của Giáo hội. Trong Phần B1, chúng ta can đảm hỏi làm thế nào chúng ta có thể gần gũi hơn với những người nghèo nhất, có khả năng đồng hành hơn với tất cả những người đã được rửa tội trong nhiều hoàn cảnh khác nhau của con người, loại bỏ quyền lực giả dối, gần gũi hơn với các anh em Kitô hữu của chúng ta và gắn bó hơn với các nền văn hóa đặc thù của chúng ta.

Giáo Hội được sinh ra không thể tách rời khỏi bi kịch của con người: trong nơi tạm trú trần thế, trên Thập Giá, vào Lễ Hiện Xuống. Đạo Công Giáo của chúng ta tiếp tục được sống giữa bi kịch nhân bản của chúng ta. Chúng ta nói về sự hiệp thông, không phải vì một sự hoàn hảo bình lặng nằm ngoài tầm với của chúng ta, mà là vì vị trí cần thiết của chúng ta trong cuộc đấu tranh của mọi nền văn hóa và bối cảnh vì sự thật, vẻ đẹp và sự tốt lành. Phần B1 mời gọi chúng ta suy gẫm tích cực về ý nghĩa chúng ta tìm thấy ở những nơi gặp gỡ và đấu tranh, để nghe thấy tiếng vang và sự khác biệt.

Thứ hai, sự hiệp thông hiện hữu trong những thực tại cụ thể, hữu hình. Đó là cuộc sống biết cung cấp bánh cho người đói, chữa lành cho người đau khổ, nghỉ ngơi cho người gặp khó khăn. Có lẽ hình ảnh sống động và dễ hiểu nhất về sự hiệp thông là tiệc cưới Con Chiên. Thiên Chúa lôi cuốn các giác quan của chúng ta: nếm và nhìn, cầm lấy và ăn.

Chính trong Bí tích Thánh Thể mà các chiều kích hiệp thông khác nhau gặp nhau: đây là nơi thể hiện sự hiệp thông của các tín hữu, nơi chúng ta nhận được những ân sủng của Thiên Chúa dành cho dân Chúa. Bí tích dạy chúng ta sự hiệp thông bằng cách nuôi dưỡng chúng ta.

Việc mô tả bữa tiệc trong Kinh thánh cũng là một hình ảnh làm đảo lộn trật tự tự nhiên được tri nhận của sự vật. Trong bữa tiệc đã dọn sẵn, người không có quyền lực nào cả, bị coi thường và đau khổ sẽ là người đầu tiên. Sở dĩ như vậy là vì sự gần gũi của Thiên Chúa với những người đau khổ và sự gần gũi của nhiều người đau khổ với sự hiểu biết và mầu nhiệm của Thiên Chúa. Một người sống sót sau vụ lạm dụng giáo sĩ đã viết thư cho tôi khi anh ấy biết tôi sẽ tham dự Thượng hội đồng, anh ấy nói, ‘hãy mạnh dạn nói về nhu cầu chữa lành. Đây là một cuộc hành trình vượt qua chúng ta phải cùng nhau bước đi. Và hãy nói với họ rằng Bí tích Thánh Thể là bí tích cứu sống.’ Không phải tất cả những người sống sót sau vụ lạm dụng đều cảm thấy như vậy, nhưng tôi chia sẻ điều này vì nó có tính chất của một lời tiên tri về sự hiệp thông; nó kêu gọi sự ăn năn và công bố chân lý trọng tâm của đức tin chúng ta.

Các tình bạn đầy tai tiếng của Chúa Giêsu đã thu hút cộng đồng các môn đệ lại với nhau thường là các tình bạn ở bàn ăn. Và tình bạn cùng bàn rất quan trọng. Khi tôi làm việc với một tổ chức từ thiện người tị nạn Công Giáo ở London, tôi đã hỏi những người tị nạn đến nhờ giúp đỡ tại sao họ lại chọn dịch vụ đặc biệt này. Tôi sẽ không bao giờ quên câu trả lời của họ: bởi vì ở đây tôi được chào đón tận cửa, và các nhân viên ngồi ăn cùng bàn với chúng tôi. Điều này tôn vinh tôi, nó mang lại cho tôi nhân tính của mình. Ở các trung tâm khác, nhân viên không ăn cùng chúng tôi. Bảng câu hỏi B1.1 tập trung các cuộc thảo luận của chúng ta vào chính những câu hỏi về sự hiệp thông có phẩm giá, trong đó Giáo hội gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng đã ngồi cùng bàn với những người nghèo nhất.

Thứ ba, hiệp thông là việc tham gia nhằm gắn kết chúng ta với người khác xuyên thời gian và không gian. Ngôn ngữ koininia của Kinh thánh mang tính hướng dẫn; nó ngụ ý: ‘chia sẻ, tham gia, có điểm chung, cùng nhau hành động’; sự tham gia vào một thực tại chung am, trong nguyên tắc, không ai bị loại trừ. Đó là một thực tại trở nên chính nó hơn khi nó được tuôn đổ ra, lan rộng ra mọi nơi trên thế giới và được chia sẻ một cách mật thiết và trọn vẹn hơn giữa các Giáo hội. Chấp nhận sự thật có nghĩa là luôn có nhiều sự thật hơn để biết.

Chúng ta luôn hành động dựa trên những gì đã xảy ra, hành động ngay bây giờ và hành động hướng tới những gì vẫy gọi - hướng tới sự thống nhất và phục vụ vương quốc. Mỗi hành động này – đã bắt đầu nhưng chưa trọn vẹn – buộc chúng ta vào những thực tại của quá khứ – những hành động vui vẻ cần được nâng đỡ, những hành động có hại cần được sám hối và chữa lành – ca ngợi Thiên Chúa và kêu gọi người lân cận của chúng ta trong hiện tại, và tương lai mà chúng ta khao khát được đón nhận vào. Một phần quan trọng giải thích tại sao ngôn ngữ hiệp thông có tính vượt qua và do đó là ngôn ngữ đầy hy vọng là vì nó gắn kết quá khứ, hiện tại và tương lai bằng một sợi chỉ vàng. Trong một thời đại thường có ý định cắt đứt những mối liên hệ đó, đức tin của chúng ta vẫn giữ chặt chúng. Nó là một phần của trí hiểu định hướng cho chúng ta.

Thực tại hiệp thông này tỏa sáng, huyền nhiệm nhưng hoàn toàn thực tế, đã có trước chúng ta và vẫn còn ở phía trước chúng ta, được hiến dâng như bánh cho thế giới và những lời cứu rỗi các sinh mạng, cần được phát biểu trong mọi bối cảnh – địa phương, khu vực, hoàn cầu – rằng Giáo hội cư ngụ, đây là chân trời hy vọng đầy nghịch lý, thực tại là nếu chúng ta có can đảm, Chúa mời gọi chúng ta tự đặt mình vào trong đó.