Sublimitas et Miseria Hominis [Sự vĩ đại và khốn cùng của con người]. Nghịch lý này là trung tâm của tư tưởng và thông điệp lâu dài của Blaise Pascal, sinh cách đây bốn thế kỷ, vào ngày 19 tháng 6 năm 1623 tại Clermont miền trung nước Pháp. Từ thời thơ ấu, Pascal đã cống hiến cuộc đời mình để theo đuổi chân lý. Bằng cách sử dụng lý trí, ông đã tìm kiếm dấu vết của nó trong các lĩnh vực toán học, hình học, vật lý và triết học, thực hiện những khám phá đáng chú ý và đạt được danh tiếng lớn ngay từ khi còn nhỏ. Vậy mà ông không bằng lòng với những thành quả đó. Trong một thế kỷ với những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh vực khoa học, cùng với tinh thần hoài nghi triết học và tôn giáo ngày càng tăng, Blaise Pascal đã chứng tỏ là một người tìm kiếm chân lý không mệt mỏi, một tinh thần “không ngơi nghỉ”, luôn mở ra những chân trời mới và rộng lớn hơn.



Trí óc thông minh và ham học hỏi của Pascal không ngừng suy gẫm về câu hỏi, cổ xưa nhưng luôn mới mẻ, trào dâng trong trái tim con người: “Con người là gì mà Ngài lưu ý tới, con người mà ngài quan tâm?” (Tv 8:5). Câu hỏi này đã làm bối rối những người nam nữ ở mọi thời và mọi nơi, mọi nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo. “Con người trong tự nhiên là gì?” – Pascal tự hỏi như thế – “là không so với thể vô hạn, nhưng là mọi sự so với cái không”. [1] Câu hỏi đã được tác giả Thánh Vịnh đặt ra trong bối cảnh lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Người, một lịch sử mà đỉnh cao là sự nhập thể của “Con Người”, Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Chúa Cha đã bỏ rơi để sau đó, đội cho Người vinh quang và danh dự hơn mọi tạo vật (x. câu 6). Pascal tiếp tục dành sự chú ý của mình cho câu hỏi này, được đặt ra bằng một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ toán học và hình học.

Vì lý do này, tôi tin rằng thật phù hợp khi mô tả Pascal như một con người được đánh dấu bằng một thái độ căn bản là kinh ngạc và cởi mở với mọi thực tại. Cởi mở với những chiều kích khác của nhận thức và sự sống, cởi mở với người khác, cởi mở với xã hội. Thí dụ, vào năm 1661, ông đã phát triển hệ thống giao thông công cộng đầu tiên trong lịch sử ở Paris, “xe ngựa năm xu”. Nếu tôi đề cập đến điều này ở phần đầu của Bức thư này, thì rõ ràng là việc ông trở lại với Chúa Kitô, bắt đầu từ “đêm lửa” ngày 23 tháng 11 năm 1654, cũng như việc bảo vệ đức tin Kitô giáo một cách tài tình, không biến ông thành ít con người của thời ông hơn. Ông tiếp tục quan tâm đến những vấn đề làm bận tâm thời ông và đến nhu cầu vật chất của tất cả các thành viên trong xã hội nơi ông sinh sống.

Sự cởi mở với thế giới xung quanh khiến ông luôn quan tâm đến người khác ngay trong cơn bạo bệnh cuối cùng, khi mới 39 tuổi. Tại thời điểm này, giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình dương thế, ông được cho là đã nói: “Nếu các bác sĩ nói sự thật và Thiên Chúa cho phép tôi khỏi bệnh này, tôi quyết định không làm công việc hay nghề nghiệp nào khác trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời tôi ngoại trừ việc phục vụ người nghèo”. [2] Thật cảm động khi nhận ra rằng trong những ngày cuối đời, một thiên tài vĩ đại như Blaise Pascal không thấy gì cấp bách hơn nhu cầu cống hiến sức lực của mình cho những công việc bác ái: “Đối tượng duy nhất của Kinh thánh là bác ái”. [3]

Tôi hài lòng khi vào dịp này, kỷ niệm 400 năm ngày sinh của ông, sự quan phòng của Chúa đã ban cho tôi cơ hội này để bày tỏ lòng kính trọng đối với Pascal, và để nhớ lại những khía cạnh trong cuộc đời của ông và những suy nghĩ mà tôi cho là hữu ích để khuyến khích các Kitô hữu trong thời đại của chúng ta và những người đương thời có thiện chí của họ, trong việc theo đuổi hạnh phúc đích thực. Vì “mọi người đều mưu cầu hạnh phúc. Điều này đúng không có ngoại lệ, bất kể họ sử dụng những phương tiện khác nhau nào. Tất cả đều hướng đến cùng một mục tiêu”. [4] Bốn thế kỷ sau ngày sinh của ông, Pascal vẫn là người bạn đồng hành của chúng ta, đồng hành với cuộc tìm kiếm hạnh phúc đích thực của chúng ta và, nhờ hồng ân đức tin, chúng ta khiêm tốn và hân hoan nhận ra Chúa chịu đóng đinh và phục sinh.

Một con người yêu Chúa Kitô, Đấng nói với mọi người

Nếu Blaise Pascal có thể thu hút được tất cả mọi người, thì trên hết là vì ông đã nói rất thuyết phục về thân phận con người của chúng ta. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm nếu coi ông chỉ là một nhà quan sát sâu sắc về tác phong con người. Pensées đồ sộ của ông, một số trong đó có những câu cách ngôn cá nhân vẫn còn nổi tiếng, thực sự không thể hiểu được trừ khi chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu Kitô và Kinh thánh vừa là trung tâm vừa là chìa khóa để hiểu chúng. Vì nếu Pascal đề nghị nói về con người và Thiên Chúa, đó là bởi vì ông đã đi đến chỗ chắc chắn rằng “không những chúng ta chỉ biết Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, mà chúng ta cũng chỉ biết chính mình qua Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Chúng ta không biết sự sống và sự chết ngoại trừ qua Chúa Giêsu Kitô. Ngoài Chúa Giêsu Kitô, chúng ta không hiểu sự sống cũng như sự chết của mình, không hiểu Thiên Chúa hay chính chúng ta. Do đó, nếu không có Kinh thánh, vốn chỉ nói về Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta không biết gì cả và chúng ta chỉ thấy bóng tối”. [5] Nếu tất cả mọi người đều hiểu được tuyên bố táo bạo này, và không bị coi là một khẳng định thuần túy giáo điều không thể hiểu được đối với những người không chia sẻ đức tin của Giáo hội, hoặc một sự chê bai phạm vi hợp pháp của lý trí tự nhiên, thì nó cần được làm rõ.

Đức tin, tình yêu và tự do

Là Kitô hữu, chúng ta cần tránh cơn cám dỗ chỉ muốn trình bày đức tin của mình như một điều hiển nhiên chắc chắn không thể chối cãi đối với mọi người. Rõ ràng Pascal quan tâm đến việc làm cho người ta nhận ra rằng “Thiên Chúa và chân lý không thể tách rời nhau”, [6] nhưng ông cũng biết rằng niềm tin chỉ có được nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được ôm ấp bởi một trái tim tự do. Nhờ đức tin, ông đã đích thân gặp gỡ “Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ysaác, Thiên Chúa của Giacóp, không phải Thiên Chúa của các triết gia và người có học”, [7] và đã thừa nhận Chúa Giêsu Kitô "là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14:6). Vì lý do này, tôi đề nghị tất cả những ai muốn kiên trì tìm kiếm chân lý – một nhiệm vụ không bao giờ kết thúc trong cuộc đời này – nên lắng nghe Blaise Pascal, một người có trí thông minh phi thường, người đã khẳng định rằng ngoài khát vọng yêu thương, không có chân lý nào đáng giá. “Chúng ta biến chính sự thật thành một ngẫu tượng, vì sự thật tách rời khỏi đức ái không phải là Thiên Chúa, mà là hình ảnh của Người; nó là một ngẫu tượng tuyệt đối không được yêu mến hay tôn thờ”. [số 8]

Do đó, Pascal bảo vệ chúng ta khỏi những giáo huấn sai lầm, mê tín dị đoan và chủ nghĩa tự do vốn ngăn cản rất nhiều người khỏi sự bình an và niềm vui lâu dài của Đấng mong muốn chúng ta nên chọn “sự sống và điều tốt lành”, chứ không phải “sự chết và điều ác” (Đnl 30:15.19 ). Tuy nhiên, bi kịch của cuộc đời này là đôi khi chúng ta không nhìn thấy rõ ràng, và kết quả là chúng ta lựa chọn sai lầm. Vì chúng ta không thể thưởng thức niềm vui của Tin Mừng trừ khi “Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy sức mạnh của Người trên chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu căng của chúng ta”. [9] Hơn nữa, “không có sự khôn ngoan của biện phân, chúng ta có thể trở thành miếng mồi ngon cho mọi xu hướng nhất thời”. [10] Đó là lý do tại sao việc đánh giá cao đức tin sống động của Blaise Pascal, người đã tìm cách chứng minh rằng Kitô giáo “đáng kính vì nó thực sự biết con người” và “đáng yêu vì nó hứa hẹn điều tốt thật sự”, [11] có thể giúp chúng ta thực hiện con đường của chúng ta vượt qua bóng tối và nỗi buồn của thế giới này.

Một bộ óc khoa học kiệt xuất

Khi mẹ ông qua đời năm 1626, Blaise Pascal mới ba tuổi. Cha của ông, Étienne, một luật gia nổi tiếng, cũng nổi tiếng với những năng khiếu khoa học đáng chú ý, đặc biệt là trong lĩnh vực toán học và hình học. Chọn cách đích thân chu cấp cho việc giáo dục ba người con của mình, Jacqueline, Blaise và Gilberte, ông chuyển đến Paris vào năm 1632. Rất nhanh chóng, Blaise đã thể hiện trí thông minh phi thường và sự kiên trì trong việc tìm kiếm sự thật. Chị gái Gilberte của ông nói với chúng ta rằng, “từ thời thơ ấu, em chỉ có thể chấp nhận những điều khiến em thấy rõ ràng là đúng; kết quả là, khi không được cung cấp lý do chính đáng, em đã tự mình tìm kiếm chúng ”. [12] Một ngày nọ, cha ông bắt gặp Blaise đang học hình học và chợt nhận ra rằng, không hề biết những định đề tương tự có thể tìm thấy trong những cuốn sách mang tên khác, Blaise, ở tuổi mười hai, hoàn toàn tự mình vẽ các hình trên mặt đất, đã chứng minh 32 định đề đầu tiên của Euclid. [13] Gilberte kể lại rằng cha của họ đã "kinh ngạc trước chiều sâu và sức mạnh trí tuệ của em". [14]

Trong những năm sau đó, Blaise Pascal đã làm việc cật lực để khiến tài năng to lớn của mình đơm hoa kết trái. Ở tuổi mười bảy, ông đã giao tiếp với những người uyên bác nhất trong thời đại của mình. Lần lượt rất nhanh là những khám phá và ấn phẩm của ông. Năm 1642, ở tuổi mười chín, ông đã phát minh ra một cỗ máy số học, tổ tiên của máy tính hiện đại của chúng ta. Về vấn đề này, Pascal nói với thời đại của chúng ta, vì ông nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của lý trí con người và khuyến khích chúng ta sử dụng nó để hiểu những bí ẩn của thế giới xung quanh. Khả năng nắm bắt toán học của ông, khả năng hiểu chi tiết mọi thứ hoạt động như thế nào, sẽ giúp ích cho ông trong suốt cuộc đời. Theo lời của nhà thần học lỗi lạc Hans Urs von Balthasar: “Ông đã rèn luyện bản thân về độ chính xác phù hợp với toán học và khoa học tự nhiên, để đạt được độ chính xác hoàn toàn khác phù hợp với lĩnh vực hữu thể và lĩnh vực Kitô giáo”. [15] Niềm tự tin của Pascal trong việc sử dụng lý trí tự nhiên, vốn liên kết ông với tất cả những người tìm kiếm chân lý, giúp ông vừa thừa nhận những giới hạn của nó vừa dễ tiếp thu những lý do siêu nhiên của sự mạc khải thần thiêng, theo một luận lý học nghịch lý vốn tạo nên chiều sâu triết học và sức hấp dẫn văn chương trong cuốn Pensées của ông. “Giáo hội đã nỗ lực hết sức để chứng minh rằng Chúa Giêsu Kitô là người chống lại những người phủ nhận điều này, cũng như Giáo hội đã làm để chứng minh rằng Người là Thiên Chúa; và cả hai đều hiển nhiên như nhau”. [16]

Các nhà triết học

Nhiều trước tác của Pascal thấm đẫm ngôn ngữ triết học. Điều này đặc biệt đúng với tác phẩm Pensées của ông, tuyển tập các mảnh viết, được xuất bản sau khi ông qua đời, là những ghi chú và bản phác thảo của ông cho một triết lý được truyền cảm hứng từ mối quan tâm thần học. Các học giả đã cố gắng, với những kết quả khác nhau, để khôi phục lại hình thức ban đầu và sự thống nhất của tuyển tập. Tình yêu say đắm của Pascal dành cho Chúa Kitô và phục vụ người nghèo, mà tôi đã đề cập trên đây, không phải là dấu hiệu của sự mất nối kết trong tâm trí của người môn đệ táo bạo này, cho bằng là dấu hiệu của sự phát triển sâu sắc hơn đối với chủ nghĩa triệt để truyền giáo, một diễn tiến về phía chân lý sống động của Chúa, được ân sủng trợ giúp. Pascal, người sở hữu niềm tin siêu nhiên chắc chắn và coi nó hoàn toàn tương hợp với lý trí trong khi vô cùng vượt trội hơn lý trí, đã cố gắng tham gia đối thoại với những người không chia sẻ niềm tin của mình càng nhiều càng tốt. Vì “đối với những người không có đức tin, chúng ta không thể cho nó ngoại trừ bằng cách lý luận, trong khi chúng ta chờ đợi Thiên Chúa ban cho họ bằng cách đánh động trái tim họ”. [17] Ở đây chúng ta thấy một hình thức truyền giảng Tin Mừng hoàn toàn tôn trọng và kiên nhẫn mà thế hệ chúng ta nên bắt chước.

Do đó, để hiểu đúng suy nghĩ của Pascal về Kitô giáo, điều cần thiết là phải chú ý đến triết lý của ông. Ông ngưỡng mộ sự khôn ngoan của các triết gia Hy Lạp cổ thời, những người đã tìm cách sống sung mãn với tư cách là công dân của một thành phố bằng sự đơn giản và yên bình: “Chúng ta nghĩ tới Platông và Aristốt như những người mặc áo choàng dài thoòng của các học giả. [Thực ra] Họ là những con người bình thường, như bao người khác, vui vẻ cười đùa với bạn bè. Khi họ soạn thảo Luật pháp Chính trị, họ đã làm điều đó vì niềm vui. Đó là phần ít triết lý nhất và ít nghiêm túc nhất trong cuộc sống của họ; phần triết học nhất là sống đơn giản và hòa bình”. [18] Tuy nhiên, bất chấp tất cả sự vĩ đại và hữu ích của chúng, Pascal đã nhận ra giới hạn của những triết lý đó: Chủ nghĩa Khắc kỷ [Stoicism] dẫn đến sự kiêu ngạo; [19] Chủ nghĩa Hoài nghi [scepticism] dẫn đến tuyệt vọng. [20] Lý trí của con người là một kỳ công của tạo hóa, khiến con người khác biệt với mọi tạo vật khác, vì “con người chỉ là một cây sậy, yếu ớt nhất trong tự nhiên, nhưng lại là một cây sậy biết suy nghĩ”. [21] Do đó, giới hạn của các triết gia, khá đơn giản, là giới hạn của lý trí được tạo dựng. Democritus có thể nói, “Tôi sẽ nói về mọi điều”, [22] nhưng lý trí tự nó không thể giải quyết những vấn đề sâu sắc nhất và cấp bách nhất. Cuối cùng, đối với cả thời đại của Pascal cũng như thời đại của chúng ta, đâu là vấn đề lớn nhất và cấp bách nhất? Đó là ý nghĩa tổng thể của số phận, cuộc sống và niềm hy vọng của chúng ta, hướng đến một hạnh phúc mà chúng ta không bị cấm tưởng tượng là vĩnh cửu, nhưng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho: “Đối với con người, không có gì quan trọng bằng tình trạng riêng của mình; đối với họ không có gì đáng sợ bằng sự vĩnh cửu”. [23]

Khi suy ngẫm về Pensées của Pascal, bằng cách này hay cách khác, chúng ta liên tục bắt gặp nguyên tắc căn bản này: “thực tại cao hơn ý tưởng”. Pascal dạy chúng ta tránh xa “các phương tiện khác nhau để che đậy thực tại”, từ “các hình thức thuần khiết như thiên thần” đến “diễn ngôn trí thức bị tước mất khôn ngoan”. [24] Không gì nguy hiểm hơn một lý trí phi thân xác (disembodied reason]: “Ai hành động như thiên thần, sẽ hành động như ác thú”. [25] Những ý thức hệ tai hại mà chúng ta tiếp tục phải chịu đựng trong các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội, nhân chủng học và luân lý, giam cầm những người theo chúng trong một thế giới ảo tưởng, nơi các ý tưởng đã thay thế thực tại.

Thân phận con người

Triết học của Pascal, luôn luôn nghịch lý, được đặt nền tảng trên một cách tiếp cận đơn giản vì nó sáng suốt: nó tìm cách đạt tới “thực tại được soi sáng bởi lý trí”. [26] Ông bắt đầu bằng cách quan sát rằng con người theo một cách nào đó là một người xa lạ với chính họ, vừa vĩ đại vừa thảm hại [wretched]. Vĩ đại nhờ lý trí và khả năng làm chủ đam mê của mình, nhưng cũng vĩ đại “ở chỗ họ thừa nhận mình thảm hại”. [27] Thật vậy, con người khao khát một điều gì đó khác hơn là thỏa mãn hoặc chống lại các bản năng của mình, “vì điều vốn là bản chất của động vật, chúng ta gọi là sự thảm hại nơi con người”. [28] Có một sự bất cân xứng không thể chấp nhận được hiện hữu giữa một bên là khát vọng hạnh phúc và hiểu biết chân lý vô hạn của chúng ta, và bên kia là lý trí hạn chế và sự yếu đuối về thể chất của chúng ta, những thứ cuối cùng sẽ kết thúc bằng cái chết. Sức mạnh của Pascal cũng là chủ nghĩa hiện thực không ngừng của ông: “Không cần phải có trí thông minh tuyệt vời để nhận ra rằng ở dưới thế này không có sự thỏa mãn thực sự và vững chắc, mọi thú vui của chúng ta chỉ là phù phiếm, bệnh tật của chúng ta là vô tận, và cái chết luôn đe dọa chúng ta, chắc chắn sẽ đặt trước chúng ta, trong một vài năm nữa, sự lựa chọn đáng sợ là bị tiêu diệt hoặc bất hạnh mãi mãi. Không có gì thực hơn thế, cũng không đáng sợ hơn thế. Chúng ta có thể hành động dũng cảm tùy thích: đây là cái kết đang chờ đợi cuộc sống tốt đẹp nhất trên thế giới”. [29] Trong tình trạng bi thảm này, chắc chắn một cá nhân không thể rút lui vào chính mình, vì sự thảm hại và sự bấp bênh của số phận họ chứng tỏ họ không thể chịu đựng được. Kết quả là, họ cần phải tự làm sao lãng chính bản thân họ. Pascal dễ dàng thừa nhận điều này: “Do đó con người rất thích sự ồn ào và huyên náo”. [30] Vì nếu người ta không làm bản thân sao lãng thân phận mình – và chúng ta biết rất rõ cách làm sao lãng bản thân bằng việc làm, bằng các hình thức giải trí, bằng các mối quan hệ trong gia đình hoặc giữa bạn bè, nhưng, than ôi, cũng bằng những tệ nạn mà một số đam mê nhất định dẫn vào – nhân tính của họ sẽ trải nghiệm “sự hư vô của nó, sự bị bỏ rơi của nó, sự thiếu sót của nó, sự phụ thuộc của nó, sự bất lực của nó, sự trống rỗng của nó. [Và xuất hiện] từ sâu thẳm tâm hồn họ là sự chán nản, u sầu, buồn bã, thất vọng, căm ghét, tuyệt vọng”. [31] Sự tiêu khiển không thỏa mãn, càng không thỏa mãn được ước muốn lớn lao của chúng ta về cuộc sống và hạnh phúc. Đây là điều mà tất cả chúng ta đều biết khá rõ.

Ở điểm này, Pascal đưa ra lập luận tuyệt vời của ông. “Vậy thì nỗi khao khát và cảm giác bất lực này là gì đối với chúng ta, nếu không phải là con người đó từng được hưởng một hạnh phúc thực sự, mà giờ đây chỉ còn lại một dấu vết trống rỗng mà họ cố gắng lấp đầy bằng mọi thứ xung quanh một cách vô ích, tìm kiếm trong những thứ họ thiếu những thứ họ không thể có được từ những thứ họ có. Tuy nhiên, không điều nào trong số này có thể cung cấp nó, vì vực thẳm vô tận này không thể được bắc cầu ngoại trừ bởi một đối tượng vô tận và bất biến, đó là chính Thiên Chúa”. [32] Nếu con người giống như “một vị vua bị phế truất”, [33] chỉ tìm cách khôi phục lại sự vĩ đại đã mất của mình trong khi biết rằng mình không có khả năng làm điều đó, thì anh ta là gì? “Con người thật là một tạo vật tuyệt vời, một điều mới lạ, một điều quái dị, hỗn loạn, mâu thuẫn, phi thường, phán xét vạn vật, con giun đất yếu ớt, người mang sự thật, vũng lầy của sự không chắc chắn và sai lầm, vinh quang và rác rưởi của vũ trụ! Ai có thể tháo gỡ mớ rối rắm này?” [34] Là một triết gia, Pascal thấy rõ rằng “càng thông minh, chúng ta càng khám phá ra sự vĩ đại và hèn hạ của con người”, [35] và những mâu thuẫn này là không thể điều hòa được. Lý trí của con người không thể khiến họ đồng ý, cũng như không thể giải quyết bí ẩn.

Pascal tiếp tục lập luận rằng nếu có Thiên Chúa, và nếu con người đã nhận được sự mạc khải thần thiêng - như một số tôn giáo tuyên bố - và nếu sự mạc khải đó là đúng, thì nó phải chứa đựng câu trả lời mà chúng ta chờ đợi để giải quyết những mâu thuẫn từng gây cho chúng ta nỗi sầu khổ như vậy. “Sự vĩ đại và thảm hại của con người quá rõ ràng đến nỗi tôn giáo chân chính nhất thiết phải dạy cho chúng ta cả hai điều rằng trong con người có một nguyên tắc vĩ đại của sự vĩ đại và một nguyên tắc vĩ đại của sự thảm hại. Nó cũng phải giải thích các mâu thuẫn đáng kinh ngạc này”. [36] Từ nghiên cứu của mình về các tôn giáo lớn, Pascal kết luận rằng, “không tư tưởng nào và không thực hành khổ hạnh-huyền nhiệm nào có thể đưa ra một con đường cứu chuộc”, trừ khi bằng “tiêu chuẩn chân lý cao hơn được tìm thấy trong sự soi sáng của ân sủng”. [37] Tưởng tượng điều mà Thiên Chúa chân thực có thể nói với chúng ta, Pascal viết, “Thật vô ích, khi các bạn tự mình tìm kiếm phương thuốc cho những đau khổ của mình. Tất cả trí thông minh của bạn chỉ có thể đạt được nhận thức này là bạn sẽ không tìm thấy sự thật hay điều tốt đẹp trong chính bạn. Các triết gia đã hứa điều đó với bạn và họ không thể thực hiện được. Họ không biết đâu là điều tốt thực sự của bạn, cũng như tình trạng thực sự của bạn”. [38]

Sau khi áp dụng trí thông minh phi thường của mình vào việc nghiên cứu thân phận con người, Kinh thánh và truyền thống của Giáo hội, giờ đây Pascal tự trình bầy mình với sự đơn sơ trẻ thơ như một chứng nhân khiêm nhường của Tin Mừng. Là một Kitô hữu, ông muốn nói về Chúa Giêsu Kitô cho những người vội vã kết luận rằng không có lý do vững chắc nào để tin vào những chân lý của Kitô giáo. Về phần mình, từ kinh nghiệm, ông biết rằng nội dung của mạc khải thần thiêng không những không đối lập với những đòi hỏi của lý trí, mà còn đưa ra câu trả lời đáng kinh ngạc mà không một triết học nào có thể tự mình đạt được.

Hoán cải: cuộc viếng thăm của Chúa

Vào ngày 23 tháng 11 năm 1654, Pascal đã có một trải nghiệm mạnh mẽ mà cho đến tận bây giờ người ta vẫn gọi đó là “đêm lửa” của ông. Trải nghiệm thần bí này, khiến ông rơi nước mắt vì sung sướng, quá mãnh liệt và quyết định đối với ông đến nỗi ông đã ghi lại nó trên một tờ giấy, được đề ngày tháng chính xác, "Tưởng niệm", mà ông đã khâu vào trong lớp lót áo khoác của mình, chỉ được phát hiện sau khi ông qua đời. Mặc dù không thể biết chính xác bản chất của những gì đã diễn ra trong tâm hồn Pascal đêm hôm đó, nhưng dường như đó là một cuộc gặp gỡ mà chính ông thừa nhận là tương tự như cuộc gặp gỡ, vốn làm nền cho toàn bộ lịch sử mạc khải và cứu độ, mà Môsê đã trải qua trong sự hiện diện của bụi gai bốc cháy (x. Xh 3). Thuật ngữ “LỬA”, [39] mà Pascal đặt làm tiêu đề của “Tưởng niệm”, nói một cách tương đối, mời gọi chúng ta thực hiện việc so sánh này. Sự song hành dường như được chỉ ra bởi chính Pascal, người ngay sau khi gợi lên lửa, đã nhắc lại danh xưng mà Chúa đã tự gán cho Người trước mặt Môsê – “Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp” (Xh 3:6.15) – và rồi viết thêm: “không phải của các triết gia và các nhà thông thái. Sự chắc chắn. Sự chắc chắn. Cảm giác. Vui sướng. Hòa bình. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô”.

Thiên Chúa của chúng ta thực sự là niềm vui, và Blaise Pascal làm chứng điều này trước toàn thể Giáo hội và trước tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa. “Đây không phải là Thiên Chúa trừu tượng hay Thiên Chúa vũ trụ, không. Đây là Thiên Chúa của một con người, của một ơn gọi, Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa là sự chắc chắn, là tình cảm, là niềm vui”. [40] Cuộc gặp gỡ đêm đó, đã khẳng định cho Pascal “sự cao cả của tâm hồn con người”, khiến ông choáng ngợp với cùng một niềm vui sống động và khôn dò: “Niềm vui, niềm vui, niềm vui, những giọt nước mắt của niềm vui”. Và niềm vui thần thiêng đó đối với ông đã trở thành một cơ hội để xưng tội và cầu nguyện: “Chúa Giêsu Kitô. Con đã tách mình ra khỏi Người. Con chạy trốn Người, bác bỏ Người, đóng đinh Người. Xin cho con không bao giờ xa cách Người”. [41] Kinh nghiệm của Pascal về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu Kitô đã đích thân chia sẻ lịch sử của chúng ta và không ngừng chia sẻ cuộc sống của chúng ta, đã đặt Pascal trên con đường hoán cải sâu sắc, một cuộc sống bác ái và do đó là “sự từ bỏ hoàn toàn và ngọt ngào” [42] của “con người cũ, đồi bại và bị dục vọng của nó lừa dối” (Ep 4:22).

Như Thánh Gioan Phaolô II đã lưu ý trong thông điệp của ngài về mối quan hệ giữa đức tin và lý trí, “các triết gia như Pascal” nổi bật vì họ bác bỏ mọi giả định, cũng như vì lập trường khiêm tốn và can đảm của họ. Họ nhận ra rằng “đức tin giải phóng lý trí khỏi sự tự phụ”. [43] Chắc chắn, trước đêm 23 tháng 11 năm 1654, Pascal “không bao giờ nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Ông cũng biết rằng Thiên Chúa là sự thiện tối cao… Điều ông thiếu và khao khát không phải là nhận thức mà là sức mạnh; không phải sự thật, mà là sức mạnh”. [44] Sức mạnh đó giờ đây đã được ân sủng ban cho ông, và ông cảm thấy mình được kéo đến với Chúa Giêsu Kitô một cách chắc chắn và vui mừng: “Chúng ta chỉ biết Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. Không có người trung gian này, mọi liên lạc với Thiên Chúa đều bị tước mất”. [45] Khám phá Đức Giêsu Kitô là khám phá Đấng Cứu Độ và Đấng Giải Thoát mà tôi cần: “Thiên Chúa này không gì khác hơn là Đấng cứu chuộc những đau khổ của chúng ta. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể thực sự biết Thiên Chúa bằng cách biết sự gian ác của mình”. [46] Cũng như mọi cuộc hoán cải đích thực, cuộc hoán cải của Blaise Pascal diễn ra trong sự khiêm tốn, giúp chúng ta “khỏi sự hẹp hòi và chỉ quan tâm đến bản thân”. [47]

Trí thông minh rộng lớn và không ngừng nghỉ của Blaise Pascal, tràn ngập bình an và niềm vui trước sự mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, mời gọi chúng ta, theo “mệnh lệnh của trái tim”, [48] tiến tới ánh sáng rực rỡ của “những ánh sáng thiên đường này”. [49] Vì nếu Thiên Chúa của chúng ta là một “Thiên Chúa ẩn giấu” (x. Is 45:15), thì đó là bởi vì Người “muốn ẩn mình” [50] theo cách mà lý trí của chúng ta, được soi sáng bởi ân sủng, sẽ không bao giờ dừng lại trong cuộc tìm kiếm được Người. Do đó, chính nhờ sự soi sáng của ân sủng mà chúng ta biết được Người. Tuy nhiên, tự do con người của chúng ta phải cởi mở với điều này, và thực sự Chúa Giêsu đã an ủi chúng ta bằng những lời này: “Các ngươi đã không tìm kiếm Ta nếu các ngươi không gặp được Ta”. [51]

Còn 1 kỳ