Trước ngày về trời Đức Kitô chuẩn bị cho môn đệ ngày Ngài dời họ để về cùng Chúa Cha. Đức Kitô chuẩn bị bằng cách giúp họ dù xa cách Ngài họ vẫn có thể trực tiếp liên lạc và cảm thấy Ngày luôn đồng hành với họ. Đức Kitô đề nghị hai cách liên lạc. Thứ nhất là liên kết với Ngài như cành nho liên kết với thân nho để nhận sự sống từ thân nho. Cách thứ hai là thực hành giới luật yêu thương Ngài ban. Khi làm một trong hai công việc đó, môn đệ cảm nhận Đức Kitô kề bên. Sau đó, Đức Kitô còn ban cho các ông ơn nhận biết bằng cách mở mắt các môn đệ. Người đầu tiên nhận ơn đó chính là bà Magdala. Sáng sớm bà ra thăm mộ, gặp Ngài bà tưởng là người làm vườn. Bà nhận ra Đức Kitô khi Ngài gọi tên bà (Gioan 20,16). Kế đến Đức Kitô mở mắt hai môn đệ trên đường về quê. Các ông nhận ra Đức Kitô khi nhìn thấy các Ngài bẻ bánh, sau khi đã dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Luca (24:30-32) thuật lại:
'Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: 'Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao?'
Sau đó Đức Kitô mở mắt cho Thoma khi ông đòi sờ tay vào vết thương nơi tay và cạnh sườn Đức Kitô. Thoma không dám sờ tay vào vết thương khi Đức Kitô hiện ra nhưng mắt đức tin ông mở ra, nhận biết Đức Kitô Phục Sinh và long trọng tuyên xưng; 'Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa của con Gn 20,28'. Ngày Đức Kitô về trời, Ngài cùng môn đệ đến ngoài thành Bethany, nơi đó Ngài từ giã các ông. Kinh Thánh không nhắc đến điều này, nhưng chúng ta có thể mường tượng ra cảnh Đức Kitô được cất lên cao, các môn đệ mắt mở to nhìn thân thể Đức Kitô cứ lên cao mãi, cao mãi, cho đến khi chỉ còn một chấm nhỏ trước khi mất hút vào bầu trời xanh thẳm.
Giã từ Đức Kitô nhưng các môn đệ không giã từ hình ảnh Đức Kitô về trời. Hình ảnh Chúa về trời in sâu trong tâm khảm các tông đồ và hình ảnh đó luôn cùng đồng hành với các ông trong mọi tình huống của cuộc sống. Các ông bắt đầu thực hiện điều Đức Kitô phán bảo:
'Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15'.
Với các tông đồ thế giới các ông lúc đó rất hạn hẹp, có lẽ không ra khỏi những vùng Đức Kitô rao giảng. Và rồi thế giới đó lớn dần, lan toả ra đến những vùng lân cận và Tin Mừng được dân ngoại đón chào. Một lần nữa Thánh Thần Chúa mở mắt các ông. Tin Mừng Chúa không riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc. Như thế mới gọi là rao giảng cho 'khắp tứ phương thiên hạ'.
Thánh Marcô ghi nhận các tông đồ vui mừng rao giảng khắp nơi. Nơi đâu cũng có kẻ đón chào, và nơi đâu cũng có kẻ chống đối. Nhân Danh Đức Kitô các môn đệ đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Các ông trừ ma quỉ, chữa bệnh và chuyển tải đến mọi người ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của yêu thương, tha thứ. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Gioan Tiền Hô, nhóm chống đối Tin Mừng dùng thủ đoạn gian manh, tâm tư độc hại, miệng lưỡi rắn độc, mong hại Môn Đệ Đức Kitô và những kẻ tin theo Ngài.
'Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Mat 12:33'.
Môn đệ Đức Kitô được ban cho miệng lưỡi (lời) khôn ngoan để bác lại miệng lưỡi ( lời) độc hại, gian ác. Môn đệ Đức Kitô đến mang Tin Mừng, ban ơn lành cho mọi người. Trong hoàn cảnh gặp chống đối kịch liệt các ngài không chủ trương đả kích, gây chiến, nhưng khiêm nhường, âm thầm cầu nguyện nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô về trời, Ngài không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Môn đệ Đức Kitô, với con mắt đức tin, các ông nhận biết, cảm nghiệm Chúa luôn kề bên, cùng đồng hành với các ông. Đức Kitô hoàn thiện sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài trao sứ mạng đó cho các môn đệ tiếp tục rao giảng về tình yêu Chúa cho muôn dân. Đức Kitô luôn đồng hành cùng các môn đệ, dù các ông không nhìn thấy Ngài bằng xương, bằng thịt nhưng luôn cảm thấy Ngài gần kề. Bất cứ khi nào các ông liên kết với Ngài trong tình yêu các ông nhận biết có Chúa luôn ở cùng. Là môn đệ Đức Kitô, mỗi chúng ta đều được trao ban tránh nhiệm mang Tin Mừng đến cho muôn dân. Chúng ta cùng khuyến khích, nâng đỡ nhau hoàn thành điều Đức Kitô phán bảo.
'Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15'.
TiengChuong.org
Eyes Opening
Jesus had prepared His apostles prior to His Ascension. He told them two major ways to connect to Him, and with Him: Abiding in His love to receive life from Him and keeping His commandment to receive the Father's love. Further, on several occasions, Jesus opened the eyes of His disciples. He opened the eyes of Mary of Magdala. She met Him near the tomb, and thought He was a gardener. Jesus called her name and she recognized Him (Jn 20,16). He opened the eyes of two of His disciples, who were on the way to Emmaus. Seeing Jesus hold the bread and say the blessing when He broke it and gave it to them, 'their eyes were opened and they recognized Him... They said to each other, 'Did not our hearts burn within us as he talked to us on the road and explained the scriptures to us? Lk 24:30-32.
He then opened Thomas's eyes. Instead of touching his eyes, Jesus asked Thomas to touch the wounds on His hands, and his eye of faith opened. On the outskirts of Bethany, Jesus was taken up into heaven. The text gives no hints, however I would have no doubt that Jesus' apostles all would have their eyes wide open, glued to Jesus' figure lifting up on high. They were speechless seeing Jesus' figure become smaller, and smaller, and finally disappear into the blue sky.
From that day onwards, Jesus' apostles had imprinted His living image in their hearts. That image opened their eyes of faith and would accompany them into their mission field. They missed the man Jesus, but in their heart, they would always have Him as their Lord and God. They now began what Jesus had commissioned them to do: Go out to the whole world; proclaim the Good News to all creation'. v.15. Their view of the world would not as large as we now know. It would not take them long to bring the Good News to the Gentiles.
St Mark told us, Jesus' apostles joyfully preached everywhere. In proclaiming the Good News, they always remembered what Jesus had told them, that they would have both friends and enemies. In His name they would cast out devils, and have the gift of tongues, and cure the sick. Their enemies would make use of snakes and poison to cause them physical harm and interrupt their work. Placed into the context of John's preaching then, snakes and poison referred to people rather than serpents. 'Brood of vipers, how can your speech be good when you are evil? For a man's words flow out of what fills his heart'. Mat 12,34.
Snakes and poison in this context refer to people's hearts. Jesus' disciples were given the gift of tongues to counter the 'viper-tongue' who would strongly reject, and condemn their preaching. The apostles were given the gift of laying their hands on people, not to cause harm, but to give comfort and to heal the sick, and that was the sign of God confirming they were true Jesus' disciples. The apostles were given the gift of eye opening to see the work of the Advocate working in them, and to see God's goodness in others, and avoid harmful situations. Jesus' Ascension means He is no more confined in a specific place. We don't see Him but He is present everywhere, always by the side of His disciples. Jesus had perfected what the Father sent Him to do. He passed on the same mission to us. We are not alone in our mission if we abide in Him, and obey His gift, the Advocate, Whom He would send to be with us.
'Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: 'Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta chẳng bừng cháy lên sao?'
Sau đó Đức Kitô mở mắt cho Thoma khi ông đòi sờ tay vào vết thương nơi tay và cạnh sườn Đức Kitô. Thoma không dám sờ tay vào vết thương khi Đức Kitô hiện ra nhưng mắt đức tin ông mở ra, nhận biết Đức Kitô Phục Sinh và long trọng tuyên xưng; 'Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa của con Gn 20,28'. Ngày Đức Kitô về trời, Ngài cùng môn đệ đến ngoài thành Bethany, nơi đó Ngài từ giã các ông. Kinh Thánh không nhắc đến điều này, nhưng chúng ta có thể mường tượng ra cảnh Đức Kitô được cất lên cao, các môn đệ mắt mở to nhìn thân thể Đức Kitô cứ lên cao mãi, cao mãi, cho đến khi chỉ còn một chấm nhỏ trước khi mất hút vào bầu trời xanh thẳm.
Giã từ Đức Kitô nhưng các môn đệ không giã từ hình ảnh Đức Kitô về trời. Hình ảnh Chúa về trời in sâu trong tâm khảm các tông đồ và hình ảnh đó luôn cùng đồng hành với các ông trong mọi tình huống của cuộc sống. Các ông bắt đầu thực hiện điều Đức Kitô phán bảo:
'Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15'.
Với các tông đồ thế giới các ông lúc đó rất hạn hẹp, có lẽ không ra khỏi những vùng Đức Kitô rao giảng. Và rồi thế giới đó lớn dần, lan toả ra đến những vùng lân cận và Tin Mừng được dân ngoại đón chào. Một lần nữa Thánh Thần Chúa mở mắt các ông. Tin Mừng Chúa không riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc. Như thế mới gọi là rao giảng cho 'khắp tứ phương thiên hạ'.
Thánh Marcô ghi nhận các tông đồ vui mừng rao giảng khắp nơi. Nơi đâu cũng có kẻ đón chào, và nơi đâu cũng có kẻ chống đối. Nhân Danh Đức Kitô các môn đệ đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Các ông trừ ma quỉ, chữa bệnh và chuyển tải đến mọi người ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của yêu thương, tha thứ. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Gioan Tiền Hô, nhóm chống đối Tin Mừng dùng thủ đoạn gian manh, tâm tư độc hại, miệng lưỡi rắn độc, mong hại Môn Đệ Đức Kitô và những kẻ tin theo Ngài.
'Loài rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Mat 12:33'.
Môn đệ Đức Kitô được ban cho miệng lưỡi (lời) khôn ngoan để bác lại miệng lưỡi ( lời) độc hại, gian ác. Môn đệ Đức Kitô đến mang Tin Mừng, ban ơn lành cho mọi người. Trong hoàn cảnh gặp chống đối kịch liệt các ngài không chủ trương đả kích, gây chiến, nhưng khiêm nhường, âm thầm cầu nguyện nghe theo hướng dẫn của Thánh Thần Chúa.
Đức Kitô về trời, Ngài không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Môn đệ Đức Kitô, với con mắt đức tin, các ông nhận biết, cảm nghiệm Chúa luôn kề bên, cùng đồng hành với các ông. Đức Kitô hoàn thiện sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài trao sứ mạng đó cho các môn đệ tiếp tục rao giảng về tình yêu Chúa cho muôn dân. Đức Kitô luôn đồng hành cùng các môn đệ, dù các ông không nhìn thấy Ngài bằng xương, bằng thịt nhưng luôn cảm thấy Ngài gần kề. Bất cứ khi nào các ông liên kết với Ngài trong tình yêu các ông nhận biết có Chúa luôn ở cùng. Là môn đệ Đức Kitô, mỗi chúng ta đều được trao ban tránh nhiệm mang Tin Mừng đến cho muôn dân. Chúng ta cùng khuyến khích, nâng đỡ nhau hoàn thành điều Đức Kitô phán bảo.
'Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo Mc. 16:15'.
TiengChuong.org
Eyes Opening
Jesus had prepared His apostles prior to His Ascension. He told them two major ways to connect to Him, and with Him: Abiding in His love to receive life from Him and keeping His commandment to receive the Father's love. Further, on several occasions, Jesus opened the eyes of His disciples. He opened the eyes of Mary of Magdala. She met Him near the tomb, and thought He was a gardener. Jesus called her name and she recognized Him (Jn 20,16). He opened the eyes of two of His disciples, who were on the way to Emmaus. Seeing Jesus hold the bread and say the blessing when He broke it and gave it to them, 'their eyes were opened and they recognized Him... They said to each other, 'Did not our hearts burn within us as he talked to us on the road and explained the scriptures to us? Lk 24:30-32.
He then opened Thomas's eyes. Instead of touching his eyes, Jesus asked Thomas to touch the wounds on His hands, and his eye of faith opened. On the outskirts of Bethany, Jesus was taken up into heaven. The text gives no hints, however I would have no doubt that Jesus' apostles all would have their eyes wide open, glued to Jesus' figure lifting up on high. They were speechless seeing Jesus' figure become smaller, and smaller, and finally disappear into the blue sky.
From that day onwards, Jesus' apostles had imprinted His living image in their hearts. That image opened their eyes of faith and would accompany them into their mission field. They missed the man Jesus, but in their heart, they would always have Him as their Lord and God. They now began what Jesus had commissioned them to do: Go out to the whole world; proclaim the Good News to all creation'. v.15. Their view of the world would not as large as we now know. It would not take them long to bring the Good News to the Gentiles.
St Mark told us, Jesus' apostles joyfully preached everywhere. In proclaiming the Good News, they always remembered what Jesus had told them, that they would have both friends and enemies. In His name they would cast out devils, and have the gift of tongues, and cure the sick. Their enemies would make use of snakes and poison to cause them physical harm and interrupt their work. Placed into the context of John's preaching then, snakes and poison referred to people rather than serpents. 'Brood of vipers, how can your speech be good when you are evil? For a man's words flow out of what fills his heart'. Mat 12,34.
Snakes and poison in this context refer to people's hearts. Jesus' disciples were given the gift of tongues to counter the 'viper-tongue' who would strongly reject, and condemn their preaching. The apostles were given the gift of laying their hands on people, not to cause harm, but to give comfort and to heal the sick, and that was the sign of God confirming they were true Jesus' disciples. The apostles were given the gift of eye opening to see the work of the Advocate working in them, and to see God's goodness in others, and avoid harmful situations. Jesus' Ascension means He is no more confined in a specific place. We don't see Him but He is present everywhere, always by the side of His disciples. Jesus had perfected what the Father sent Him to do. He passed on the same mission to us. We are not alone in our mission if we abide in Him, and obey His gift, the Advocate, Whom He would send to be with us.