Trường hợp điển hình 5: ‘Katherine’
(5048 chữ; nữ phỏng vấn viên)
Katherine, 15 tuổi, học lớp 10 tại một trường tư. Cả hai cha mẹ đều sinh tại Úc và đều là những nhà chuyên nghiệp.
Linh đạo:
Katherine tỏ ra hết sức thông minh. Cô hay nói ‘nhiều lắm’ khi mô tả một loạt các can dự của cô, bè bạn và suy nghĩ của mình. Đồng thời, người thiếu nữ này lại để nhiều trái banh lơ lửng trên không khí, đối đầu với nhiều điều không biết chắc, nhưng vẫn lao mình vào các sinh hoạt một cách cuồng nhiệt, hớn hở, nhiều thành công và hết sức hân hoan.
Hỏi: Em nghĩ có bao giờ em cảm thấy mình sinh động nhất chưa từng thấy không?
Thưa: Có lẽ năm ngoái trong đêm phát phần thưởng ở trường. Em được cấp bốn hay năm chứng chỉ thành tựu về học vấn. Vâng, đúng thế, trước sự hân hoan của các học sinh đêm ấy, em biết, em thấy em như ở trên mây, ồ, tuyệt. Hôm ấy em rất lăng xăng, gần như mất ngủ, ối chao, sao mà tuyệt.
Hỏi: Vậy ngoài lăng xăng ra, có gì khác trong đầu em không?
Thưa: À, có chứ, em đoán đó là cảm thức được chấp nhận, được nhìn nhận, người ta bảo chị có thể nghĩ chị thông minh, nhưng được thưởng huy chương giỏi về mọi môn (all-rounder) có thể nói lần đầu tiên về cộng đồng hay gần như thế, em nghĩ em phải được nhìn nhận và hẳn người ta phải nói là em tuyệt diệu. Điều ấy đem lại cho em một cảm nghĩ rất lớn.
Như thể điều trên chưa đủ, nên Katherine còn là một vũ công nhạc jazz nữa; em học trường khiêu vũ và sau ít năm em đã lên đến lớp cao nhất, và rất hãnh diện được kể là một trong các học viên giỏi nhất.
Nét ngoại thường và quan trọng trong đời em là em tham dự rất đều đặn việc thực hành suy niệm có cấu trúc đàng hoàng.
Giống Rohan, em chọn bức hình chụp các đường rầy xe lửa; chúng mô tả đời sống em, một đời sống ‘có mặt khắp nơi’. Vì em tham gia rất nhiều các sinh hoạt bên ngoài học trình; nhưng em giải thích hoàn cảnh ấy một cách hết sức tích cực: ‘Em thích tất cả các sinh hoạt ấy’.
Em thành công về học vấn và muốn học ngành thú y, từng có khá nhiều các giống vật ưa thích đủ loại. Em có một bạn trai rất ân cần và một gia đình biết nâng đỡ và thông cảm.
Đó là các nhân tố ảnh hưởng cách này cách khác tới lối suy nghĩ và hành động của em. Cuộc sống em đang kinh qua việc tái giải thích và tái xây dựng. Thành ra, thế giới quan của em giống như một công trường xây dựng trên đó một tòa nhà đang được tân trang; rất nhiều vật liệu đang nằm ngổn ngang, mà một số lấy từ toà nhà cũ, có thể để vất đi, mà cũng có thể để lên khuôn lại và để dùng lại; nhiều vật liệu mới đã được lắp ráp, nhưng vẫn còn ở trong trạng thái vật liệu thô, chưa tổng hợp được vào cấu trúc mới.
Đời sống của Katherine cho ta một điển hình rất tốt về sự pha trộn ở giai đoạn chuyển tiếp 1) các ý niệm thuần lý và 2) các trực giác kinh nghiệm, (đã miêu tả ở trên theo nghĩa tổng quát). Sẽ là điều hữu ích nếu ta trình bầy các điều trên một cách có hệ thống, bằng cách cho thấy trong mỗi trường hợp a) nội dung của ý niệm và b) các thực hành làm phát sinh và tăng cường các ý niệm ấy.
1a) Nội dung các ý niệm và các niềm tin liên quan tới linh đạo:
Katherine có nhiều ký ức về tôn giáo thời em còn nhỏ, mà giờ đây, phần lớn được em ‘kính nhi viễn chi’ và đôi chút nghi ngờ. Do đó, chắc chắn em không nhận mình là thành viên của giáo phái trước đây (theo nghĩa Kiểm Tra Dân Số), ấy thế nhưng, đối với tất cả các câu hỏi của em, chắc một điều em cũng không coi mình là người ‘vô tôn giáo’. Các tác giả không đặt câu hỏi trực tiếp, nhưng đoán rằng em muốn nhận mình là ‘Kitô hữu’.
Hỏi: Có phải em nói em tin Thiên Chúa hay một đấng như thế?
Thưa: Vâng. Em tin một đấng nào đó. Không đặc thù là Thiên Chúa, như thể em vẫn còn không biết chắc em tin gì. Chắc chắn em tin một đấng cao hơn mình, bất kể đó là Thiên Chúa của Kitô giáo hay một đấng nào khác, em chưa hoàn toàn xác tín về điều đó. Em vẫn còn trên hành trình tìm ra điều thực sự em tin…Em chưa nghiên cứu nhiều về các tôn giáo khác. Em thích không theo bất cứ tôn giáo đặc thù nào, mà lúc này, em muốn tổng hợp các tôn giáo ấy thành điều em cảm thấy là hữu ích cho em.
Hỏi: Thế em nghĩ gì về Chúa Giêsu? Ngài là nhân vật như thế nào?
Thưa: Em thực sự không biết Ngài có hiện hữu hay không, chuyện gì có lẽ sẽ đến và các niềm tin hay gì đó, cố gắng giải quyết xem ngài đã có ở đây hay không, hợp tác với những gì đã xẩy ra. Quả là một phạm vi nhá nhem (grey area) quá lớn (12).
Hỏi: Em có tin rằng các điều trong Thánh Kinh thực sự có xẩy ra hay không, như các câu truyện phép lạ, việc Chúa Giêsu sống lại?
Thưa: Em không biết. Tất cả những vấn đề ấy em thấy thực sự hơi thổi phồng. Em tin chúng rất có thể xẩy ra và em chắc một ngày kia em sẽ quyết định mình sẽ tin gì nhưng lúc này việc Chúa Giêsu xuất hiện và tất cả những chuyện cao siêu kia xem ra có hơi lý tưởng hóa.
Hỏi: Thế bản thân em, em tin điều gì xẩy ra sau khi chết?
Thưa: Em tin chắc có một đời sau. Chắc phải có một cái gì ở đó nhưng có những điều vô nghĩa đối với em. Em muốn nói, em không nhất thiết tin toàn bộ chuyện thiên đàng và hỏa ngục, nơi có chỗ tốt chỗ xấu, nơi tất cả chúng ta sẽ tận mạng. Em nghĩ thế, em cũng không biết nữa.
1b) Các thực hành làm phát sinh, nói lên và hỗ trợ các niềm tin này:
Katherine kể lại rằng lúc còn bé, khi gia đình em còn sống ở thôn quê, em và cha mẹ em thường đi nhà thờ đều đặn với bà nội, là người ‘rất hay đi nhà thờ’, và em cũng tham dự trường ngày Chúa Nhật nữa. Nhưng khi chuyển vào thành phố, ‘chả có nhà thờ nào ở đây’ (chắc em muốn chỉ nhà thờ thuộc giáo phái cũ của em). Nhưng nay em vẫn còn đi nhà thờ mỗi lần về thăm bà nội, người mà em rất gần gũi, và cả gia đình cùng đi nhà thờ của bà nội dịp lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, nay em coi việc ấy một cách khác rồi: “Em thấy nó đáng lưu ý, không phải vì em tin mọi sự đang xẩy ra nhưng người ta có quan điểm khác nhau, cả cách họ tin nữa, em nghĩ, đều giúp tạo ra ý kiến riêng của em và điều em tin. Phải nói như thế này, em không tin rằng họ cải đạo em và em sẽ đặc thù tin điều người ta bảo em. Nhiều chuyện có tính thực tiễn trong Thánh Kinh, những điều về xúc cảm và tâm tư, có liên hệ với con người chẳng hạn, em thấy đáng lưu ý hơn”.
Một thực hành mà các tác giả thường chờ mong những người từng được dưỡng dục về tôn giáo thường có vào một thời điểm nào đó là cầu nguyện. Kartherine cho thấy em vừa thay đổi phương cách thực hành cổ truyền ấy vừa thấu hiểu nó.
Hỏi: Em có cầu nguyện bao giờ không?
Thưa: À, không cầu nguyện một cách đặc thù. Em nghĩ, có thể nói, em có nhiều hy vọng và thích nghĩ đến những điều em muốn xẩy ra, nhưng em không đặc thù ngồi xuống kia mà cầu nguyện. Chỉ khi có những vấn đề lớn, những vấn đề như chết chẳng hạn hay những vấn đề giống như thế xẩy ra, và em cầu cùng Chúa săn sóc người ta và chăm nom họ. Khi có những vấn đề lớn trong đời em, em biết em thích nghĩ về chúng và hy vọng có ai đó quan tâm đến chúng, vì em chả làm được gì, nhưng ngoài những chuyện đó, thì không chị ạ.
Ngay trình độ thực hành ấy cũng có thể đã đóng một vai trò duy trì được các niềm tin tôn giáo còn sót lại của em rồi.
2a) Các kinh nhgiệm mới đây và những loại ý thức phát sinh từ các kinh nghiệm này:
Hỏi: [Trao Thẻ A (13) cho đương sự]. Em có thể nói có điều gì đó áp dụng vào trường hợp em không?
Thưa: Em từng ở tại một bãi đậu xe móc nhà lưu động (caravan) và thường đi dạo dọc bãi biển mỗi sáng hay mỗi đêm và chính sự kiện ở ngoài bãi biển ấy làm chị cảm thấy mình nhỏ bé hơn và chắc chắn phải có gì khác ở đấy. Em tin chắc kinh nghiệm đã giúp em tự xác tín mình rằng có điều gì khác, điều gì khác cao hơn. Em thực sự chưa quyết định đi tìm hiểu nhiều như những người khác, chỉ vì ở thời điểm trong đời này em không nghĩ quyết định tin gì là điều quan trọng nhất. Nhưng chắc chắn kinh nghiệm kia đã cho em tâm thức này là chung quanh em, phải có gì đó hơn nữa, điều gì đó lớn hơn và điều gì đó càng lớn hơn càng tốt.
[Sau đó, sau câu hỏi có tin ma quái không, Katherine nói] “…chắc chắn đã có lúc em cảm thấy một sự hiện diện hay một sự gì đó lớn hơn hay cao hơn em. Nhưng em không biết chắc đó là điều gì
Hỏi: Em có thể cho chị hay một trong những điều ấy không?
Thưa: Được thôi, em biết một đêm kia khi đang nằm trên giường, sau khi ông em chết, khoảng 6 tháng sau hay gì đó, và đang suy nghĩ về điều đó, thì em cảm thấy gần như ông em đang có mặt với em, mà lúc ấy không có ai trong phòng em cả, nhưng em cảm thấy rõ có một linh thể nào đó đang ở đấy… Chắc chắn vào lúc đó, em nghĩ đó chính là ông em hay hy vọng là ông em và có thể nói nó làm em cảm thấy tốt hơn, cảm thấy o.k.
Cả cảm thức về một cái ‘gì khác’ trong Thiên Nhiên lẫn cảm thức về sự hiện diện của một ai đó vừa mới qua đời đều là những cảm nghiệm ‘nguyên khởi' (primordial) hết sức quen thuộc (14). Và trong trường hợp của Katherine, cũng như tiêu biểu cho các kinh nghiệm loại này, đương sự không có được một cái khung rõ ràng để giải thích, một cái khung có thể cung cấp cho họ một thứ ý nghĩa gắn liền với quan niệm hay ý niệm kia; các cảm thức ấy có thể không phù hợp với các niềm tin đương sự đã học được từ một truyền thống tôn giáo, dám còn bị cái khung này bác bỏ nữa; chúng chỉ là những ‘cảm nhận’ hay trực giác mơ hồ từ kinh nghiệm phát sinh ra; ấy thế nhưng, chúng có thể mang theo mình một cảm tưởng mạnh mẽ về giá trị, một thứ ‘chân lý của kinh nghiệm’, và một giá trị và ảnh hưởng mạnh mẽ về xúc cảm do tính trực tiếp và cận kề của chúng đem tới.
2b) Các thực hành nói lên và hỗ trợ thứ thành tố ‘nhận thức nhờ kinh nhgiệm’này trong thế giới quan của Katherine:
“Em hay suy niệm, có thể nói thế. Bên ngoài kia, trong cảnh thiên nhiên, hết sức hữu ích đối với em… chú tâm tới chính mình và thư giãn bản thân mình… Em ráng làm thế ít nhất mỗi tuần một lần… Nó tạo ra sự khác biệt lớn trong cách cảm nghĩ của em, cách em liên hệ với mọi người khác và cách em đương đầu với sự việc”.
Thực hành trên khá đều đặn, nổi bật, và Katherine còn đi xa đến độ xếp nó vào hạng nhất trong số những điều đem lại cho em hạnh phúc.
Hỏi: Đâu là những điều em làm, được em coi là tốt đối với em, những điều làm em hạnh phúc?
Thưa: Chắc chắn là việc suy niệm, nó là việc lớn nhất của em.
Tuy nhiên, điều ngạc nhiên hơn cả đối với bạn đọc là nguồn gốc của thực hành này:
Hỏi: Thế làm thế nào em bước vào việc suy niệm?
Thưa: À, bà em dạy các lớp suy niệm. Không hẳn suy niệm về tôn giáo, nhưng là tập chú vào chính chị và để chị thật thanh thản, rồi từ từ em sẽ lĩnh hội được những điều khác. Em thích ngồi ngoài kia, rồi đọc và để em thanh thản tâm hồn và…
Hỏi: Thế bao lâu em làm một lần?
Thưa: Em ráng làm mỗi tuần một lần. Tất cả còn tùy bài làm của em, liệu em có thì giờ dành cho nó hay không. Nhưng điều chắc là khi em thực hành, nó tạo ra sự khác biệt lớn đối với cách em cảm nghĩ, cách em liên hệ với mọi người khác và cách em đương đầu với sự việc.
Hỏi: Đó có phải là loại suy niệm có hướng dẫn không? Em có cuộn băng nhựa hay phương tiện nào giống thế để giúp em không?
Thưa: À, đôi khi em không có băng nhựa nhưng là âm nhạc, âm nhạc cổ điển hay giống thế, chúng tạo nên âm thanh tự nhiên. Đôi khi em dùng nó, phần lớn ngồi bên ngoài kia và lắng nghe thiên nhiên và để môi sinh làm nhà hướng dẫn, lắng nghe chim chóc, ngồi đấy và để nó hướng dẫn em.
Hỏi: Thế, em nghĩ thiên nhiên có thể hướng dẫn em?
Thưa: Vâng, em nghĩ nó làm ta rất thanh thản, chỉ cần ngồi ở bên ngoài rồi tập chú không phải vào điều đang xẩy ra với đời em mà là điều đang xẩy ra chung quanh em”.
Người bà này còn rất nhiều điều khác chứ không phải chỉ là một bà già đạo đức chuyên lo sao để cháu gái đa tài của mình giữ liên hệ với Giáo Hội. Có thể vì ích lợi của chính cụ, nhưng có lẽ phần lớn là vì đứa cháu gái của mình, mà cụ ‘can dự’ vào việc suy niệm, và đã gặt hái được thành công rực rỡ trong việc chuyển giao cho cô một kỹ thuật tâm linh hiển nhiên hết sức thích hợp với giai đoạn tra vấn linh đạo hiện tại của tuổi thiếu niên. Hoan hô, bà nội!
Khả năng biết thưởng ngoạn cảnh thanh tĩnh và yên lặng, một thưởng ngoạn dứt khoát đối với họ, hình như không quen thuộc lắm nơi một thế hệ dường như không bao giờ biết ngưng nghỉ, trái lại luôn luôn gián tai vào những nguồn, đủ loại, phát ra đủ thứ ồn ào điện tử, chẳng điện thoại di động thì cũng MP3. Nên thực hành suy niệm của Katherine quả đã giải thích được tính ‘hướng tâm’ (centredness) của em ngay ở giữa một đời sống ‘có mặt khắp nơi’ này, và tính lớp lang tương đối rất cao trong thế giới quan của em. Em từng suy tư về các niềm tin tôn giáo trước đây của mình và tuy không vứt bỏ chúng hoàn toàn, em đã đưa ra nhiều chất vấn đối với chúng, và một ý hướng phải đi đâu mới tìm ra tín liệu thêm. Rõ ràng là: tuy chưa bao giờ nghe nói đến, nhưng em quả đang theo toa thuốc của Rilke, đã được nhắc đến trên đây: em đang ‘sống các vấn nạn’ của em, hơn là đi tìm các câu trả lời, ‘những câu trả lời vốn không thể có cho bạn vì bạn chưa có khả năng sống các câu trả lời ấy’.
Việc thực hành suy niệm của em rõ ràng không phát sinh từ các nguồn vốn được nhận dạng là của Tân Đại, của Đông Phương kỳ bí hay được liên kết với các thực hành khác thuộc loại như Yoga, Tai Chi, thông linh học, bói bài; các câu hỏi về các hình thức trên đã không được em nói chi ngoại trừ điều đã nói ở trên liên quan đến hồn ma khiến em đề cập đến ông nội em. Em từng xem tử vi, nhưng thấy nó ‘chả ăn nhập chi’.
Lớp lang trong thế giới quan
Như đã ghi nhận ở trên, cái hiểu đang phát triển của Katherine về thế giới tương đối khá cao về mức độ lớp lang/phát biểu và suy tư nhờ một trí khôn linh lợi và việc em thực hành suy niệm. Em đã khai triển được một ý thức biết phê phán khá trưởng thành so với tuổi và trình độ giáo dục của em. Em phân biệt được rõ ràng giữa một đàng là tra vấn các niềm tin của quá khứ và đàng kia là thẳng thừng vứt bỏ chúng; em biết em biết gì và không biết gì; nhưng không quá lo lắng tới chuyện phải lấp cho đầy khoảng cách lớn rộng. Không phải mọi sự đều đang biến chẩy (flux); điều em biết, nhất là những điều do kinh nghiệm riêng, em biết là thật (15), em đã thủ đắc làm của riêng và đem ra sống.
Gắn bó rõ ràng trong thế giới quan
Giống cuộc sống của mình, thế giới quan của Katherine cũng ‘có mặt khắp nơi’; nó không cho thấy sự gắn bó của một toàn bộ có thứ tự; các yếu tố bất nhất chen lấn lẫn nhau. Nhưng đó là điều các tác giả chờ mong ở giai đoạn phát triển này của em, có cái nhìn thế giới, nhìn vị trí của mình trong đó như thế, một giai đoạn em đang tích cực xem sét lại các niềm tin cũ của mình, đang tra vấn, đang tích nhập các kinh nghiệm mới. Nơi em, diễn trình này đang diễn tiến tốt; nhưng xem ra còn lâu mới chấm dứt. Ta có thể dự ước rằng diễn trình ấy vẫn còn tiếp tục và tăng cường độ suốt những năm còn lại của ban trung học, và có lẽ đến tận những năm đầu của tuổi trưởng thành. Em đã chứng tỏ một mức độ hết sức cao, cao một cách khác thường, về lòng khoan dung đối với tính hàm hồ (16) mà người ta vốn coi là biểu hiệu của chính sự trưởng thành, ngày nay rất cần thiết cho cả những người trưởng thành lớn tuổi hơn vốn có những nền linh đạo đã được tích nhập cao độ.
Ấy thế nhưng, các yếu tố cá thể trong thế giới quan của Katherine không hẳn đã chỉ được gom góp thành một đống hỗn loạn. Cũng không phải là một biến chẩy vô trật tự, nhưng cho thấy nhiều khuôn mẫu khác nhau: ta thấy có những hạ tầng của niềm tin truyền thống, và một cơ cấu các vấn nạn phát sinh từ các nguồn gốc rất rõ ràng: nhận thức mới thủ đắc được ở nhà trường và nhờ đọc sách báo, các tiêu chuẩn kiểm nhận có tính khoa học và lịch sử rất hiện đại, tuy bị em hiểu một cách sai lạc; điều thứ ba, ta còn thấy nhiều khuôn mẫu ý thức mới phát sinh do kinh nghiệm và thực hành suy niệm của em. Đồng thời, ta cũng thấy một thúc đẩy hướng tới sự nhất quán nhận thức, hay dịch ra xa sự ‘bất hòa nhận thức’ (cognitive dissonance) (17), có lẽ đã được thiết dựng vào chính cấu trúc của tâm tư, nên xem ra rất có thể một phụ nữ với khả năng của Katherine, một lúc nào đó, sẽ hoà giải được các nguyên lý mâu thuẫn nhau, và tìm ra câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi của em, để đạt tới một quan điểm nhất quán hết sức mềm dẻo và hết sức phức tạp, mà vẫn dành chỗ để phát triển thêm, và dành chỗ cho các yếu tố tế vi của ý thức thực nghiệm mà người ta thường dùng ‘bạo lực’ mới buộc được chúng đi vào hòa hợp trong những tổng quát hóa thuận lý có tính dễ hiểu hơn.
Triết lý sống
Có thể miêu tả triết lý sống của Katherine một cách tốt nhất bằng cách căn cứ vào tính khí ổn định trong việc hân hoan dìm mình vào cuộc sống của em, nắm lấy rất nhiều cơ hội ở trong đời và lao mình một cách không sợ hãi vào bài vở ở trường và một loạt không biết bao nhiêu các sinh hoạt ngoại khóa (mà trên đây chỉ mới kể một số) cũng như nhiều gặp gỡ, lôi cuốn và khám phá có tính bản thân khác. Em hết sức cở mở đối với kinh nghiệm.
Nếu về phương diện nhậy cảm luân lý, xem ra em có vẻ phần nào thiếu phát triển, thì phương diện nhậy cảm thẩm mỹ của em lại phát triển cao và gây nhiều ảnh hưởng, nhất là qua việc em tham gia ngành vũ và âm nhạc (em chơi hai nhạc cụ và biết đánh giá cả âm nhạc bình dân lẫn cổ điển). Mặt khác, em lại là người duy cảm (sentimentalist), dễ xúc cảm đến cả tin: em mô tả cuốn phim em ưa thích như sau:
Katherine: Thực là buồn và thực là tốt.
Hỏi: Thế tại sao em lại thấy nó tốt?
Thưa: À, em chỉ nghĩ thế thôi vì nó làm em khóc. Em nghĩ nếu chị khóc thì hẳn nó phải đưa ra cái gì đúng chứ. Cuốn phim đó thực là buồn nhưng là một truyện tình: chàng chứng thực tình yêu của chàng cho nàng, đại khái thế”.
Các độc giả lớn tuổi hơn dám sợ rằng ngây thơ tin vào bất cứ điều gì đến độ nhỏ lệ như thế chứng tỏ một phán đoán nghèo nàn đầy xúc cảm, và cho là Katherine rất dễ bị thương tổn. Nhưng trong một thời đại mà ngay cả những trái tim trẻ cũng rất thường bị khô cứng bởi ngờ vực, hợm hĩnh, có lẽ đây chỉ là một lỗi lầm dễ có thể tha thứ được; em có thể là bất cứ điều gì nhưng nhất định không phải là loại ghiền xúc cảm (emotional junkie), và em cho thấy nhiều bằng chứng rõ ràng em dùng được cả đầu lẫn trái tim của mình. Em còn đưa ra được lý do tại sao cuốn phim ấy có nhiều tác dụng đối với em: nó là câu truyện tình chân thực. Tuy vậy, triết lý sống của em không chỉ bao gồm những đoản khúc vui tươi, những xúc cảm thái quá và những nhậy cảm thẩm mỹ. Em còn có một số giá trị đã lên khuôn hoàn toàn: nghiêm chỉnh quan tâm đến các vấn đề lớn của linh đạo; dấn thân bênh vực phúc lợi của thú vật vốn là cơ sở cho tham vọng nghề nghiệp của em, và như ta sẽ thấy, còn là một lương tâm xã hội đang bừng lên.
Các tác giả hy vọng sẽ phỏng vấn lại em trong hai năm tới; chắc chắn em sẽ làm tất cả chúng ta vui và ngạc nhiên một lần nữa.
Loại linh đạo
Các câu trả lời sinh động của Katherine cho các tác giả thấy một thiểu nữ tài năng và hạnh phúc giữa lúc đang lớn lên. Khó có thể xếp loại em theo các mẫu xếp loại của họ. Em không thích hợp lắm nếu xếp em vào loại truyền thống, nhưng vì em có đủ các yếu tố truyền thống nên lại càng không thể xếp em vào loại thế tục; rõ ràng em không thuộc loại Tân Đại, và nền linh đạo của em phát triển khá cao không thể xếp vào loại phôi thai được. Các tác giả đành xếp linh đạo của em đệ nhất đẳng là truyền thống, đệ nhị đẳng là thế tục: con đường linh đạo duy nhất mà em biết là truyền thống; nhưng các vấn nạn triệt để của em lại phát sinh từ phạm vi thế tục, được phát biểu một cách mạnh mẽ trong môi trường văn hóa Úc.
Các ảnh hưởng đối với linh đạo:
Katherine có một hệ thống bè bạn khá mạnh và xuất thân từ một gia đình hạch nhân rất gắn bó. Bối cảnh văn hóa của em là Anglo-Celtic. Như đã nói trên đây, việc em tham dự nhà thờ trong quá khứ và còn đang tiếp diễn vẫn còn có liên hệ đối với cô.
Katherine đặc biệt gần gũi cha mẹ. Giống nhiều người khác cùng tuổi, em xếp họ là những người có ảnh hưởng đến đời em:
Hỏi: Rồi, bây giờ em có thể nói cho chị về một người nào đó em thực sự ngưỡng mộ và điều gì em ngưỡng mộ nơi họ được không?
Thưa: Có lẽ mẹ em. Mẹ tuyệt lắm. Thí dụ, em nghĩ mẹ em hẳn là người bạn thân nhất của em. Mẹ đã 40 nhưng mẹ cư xử như thể mới chỉ 25. Không ngon (tacky) nhưng chị biết đó, mẹ trông không giống 40, có thể nói như vậy.
Hỏi: Thế còn những người khác trong gia đình? Họ có ảnh hưởng với em không?
Thưa: Em cho rằng cách cư xử của mẹ em và rồi của bố em nữa đã ảnh hưởng đối với cách cư xử của em. Như, bố em rất đặc thù về một số sự việc. Không hẳn quá đòi hỏi (compulsive) nhưng có khuynh hướng như thế. Em cho điều ấy ảnh hưởng trên em theo nghĩa em rất chính xác (precise) về điều em làm, em thích có những điều đúng.
Dù rất qúy hệ thống bạn bè, em lại không quá dấn thân vào việc cùng bè bạn đi thám thính linh đạo:
Hỏi: Rồi, thế em có phải là người có thật nhiều bạn bè rất thân hay chỉ một số nhỏ?
Thưa: Cả hai. Em có một số bạn để ra ngoài thường xuyên với nhau, nhiều, khá nhiều, nhưng chỉ hai hay ba người là em thực sự gần gũi thôi.
Nói thế xong, cũng như phần lớn các thiếu niên khác, các kinh nghiệm họ có với bè bạn là những kinh nghiệm thuộc loại quan trọng nhất đối với cuộc sống của họ:
Hỏi: Rồi, bây giờ, đâu là lúc em thấy vui đùa nhất xưa nay?
Thưa: Không có gì nổi bật cả. Chắc là một số buổi liên hoan em mới dự gần đây với bạn bè, nhưng chỉ cảm thấy hoàn toàn phấn chấn thôi, nhiều năng lực chứ không có gì nhất thiết đặc thù cả, như không có rượu, chỉ là cảm giác được quây quần bên bạn bè. Ai cũng rất phấn chấn và lên tinh thần (hyped up) và hân hoan vì cùng được ở với nhau…
Về các tài nguyên văn hóa gây ảnh hưởng đối với nền linh đạo của em, các tác giả đã nhắc tới lòng say mê suy niệm của em. Thế còn âm nhạc, phim ảnh và truyền hình thì sao? Chắc chắn chúng khá nổi bật đối với em, nhưng không như Rohan, vai trò chính xác của chúng trong nền linh đạo của em không dễ gì kể ra một cách lớp lang được:
Hỏi: Rồi, thế, nhóm âm nhạc nào em ưa thích nhất, nếu em có nhóm nào? Điều ấy không phải là chuyện lớn đối với mọi người phải không?
Thưa: Em thích nhóm Destiny’s Child, những loại nhạc hơi xưa hơn một chút. Một số bài về Kitô giáo của nhóm này thực là hay. À, có lẽ gần như mọi bài. Em nghe nhiều loại nhạc khác nhau, nhiều thể loại, nhưng em không đặc thù thực sự thích loại nào, dạ, đúng thế.
Hỏi: Em vừa nhắc đến chuyện nhóm Destiny’s Child chơi một số bài về Kitô giáo.
Thưa: Vâng.
Hỏi: Thế đối với em đó có phải là điều tốt không?
Thưa: Vâng, vì khi họ chơi một số bài về Kitô giáo thì đó là những bài vui và nhanh nhưng họ không phải là một ban nhạc đặc thù Kitô giáo. Ban nhạc ấy rất thích thú với em vì ngoài những loại nhạc khác, họ còn chơi nhiều thể loại bình dân cách đều đặn nữa. Họ lại còn chơi cả nhạc Kitô giáo.
Hỏi: Rồi, phim nào em ưa thích hơn hết?
Thưa: Em thích phim A Walk to Remember.
Hỏi: Nói về gì?
Thưa: À, nói về một người con gái mắc bệnh ung thư. Cô ta yêu một cậu trai nhưng lại không yêu được vì sắp sửa qua đời.
Hỏi: Ồ.
Thưa: Thực là buồn và thực là hay.
Hỏi: Thế sao em thấy là hay?
Thưa: Á, em chỉ nghĩ thế vì nó làm em khóc. Em nghĩ nếu chị khóc thì hẳn nó phải đưa ra điều gì đúng chứ. Nó thực sự buồn nhưng là một truyện tình, chàng chứng tỏ tình yêu đối với nàng.
Các hậu quả của linh đạo:
1. Kiến thức
Dù kiến thức của Katehrine về các vấn đề chính trị và thời sự không rộng dài, nhưng em đọc báo mỗi ngày, quá lòng mong đợi đối với phần lớn những người tuổi em. Dù quan tâm tới các câu truyện có tính nhân bản em đọc trong báo, nhưng em tỏ ra ít chú tâm tới việc gia tăng ý thức của mình về các vấn đề công bằng xã hội. Phạm vi đấu tranh duy nhất em từng tham gia là tẩy chay không mua một số hàng hóa chế biến từ một phần cơ thể loài thú.
Hỏi: Thêm chút nữa, nào, nghĩ tới thế giới ngày nay hay cộng đồng địa phương của em, có vấn đề nào em thực sự cảm nhận một cách mạnh mẽ không?
Thưa: Gần đây, khi người đàn bà kia bị giết gần ga xe lửa, mà các báo chí có tường thuật, em như không nhận ra đang có vấn đề bạo lực hay ma túy trong cộng đồng ta, nhưng biến cố kia đã đưa điều đó ra ánh sáng. Thật là khiếp đảm khi người ta ra ngoài kia mà không biết phải làm gì, buôn ma túy, ăn cướp và giết người. Điều đó gần như làm em thực sự bất ổn. Em thực sự chưa bao giờ hiểu được loại sự việc như thế lại có thể xẩy ra trong phạm vi này…Nhận thức về thời sự của em không tốt mấy. Em đọc báo hầu như mọi ngày và bất cứ khi nào có vấn đề gì đó, thực ra em không nhớ được sự việc đã xẩy ra một hay hai năm trước, vì từ đó đến nay, không biết bao nhiêu chuyện đã xẩy tới…Em ráng và đứng ngoài chính trị. Em không thạo lắm trong phạm vi này. Một số chính khách em ghét thượng hạng vì họ ngu quá. Nhưng chắc chắn là các vấn đề môi sinh như chó đang bị vứt bỏ và việc đối xử tàn tệ với thú vật”.
2. Các khả năng và kỹ năng bản thân
Katherine chứng tỏ một loạt các kỹ năng truyền đạt và liên bản ngã và có được một sự hỗ trợ sâu rộng từ gia đình và cộng đồng đối với cuộc sống em. Em không ngừng sử dụng các kỹ năng này trong nhiều sinh hoạt khác nhau, như tổ chức một tổ hợp đan chẳng hạn. “Công viên địa phương của bọn em có một chương trình thực hiện việc bảo tồn môi sinh, trồng cây và nhiều điều như thế và em có giúp một tay hồi trước đây. Việc ấy rất thoải mái, được dịp ra ngoài và làm cho công viên của mình lộng lẫy”.
3. Các thái độ xã hội
Katherine rõ ràng hết sức hội nhập và có ý thức mạnh về trách nhiệm đối với những người kém may mắn. Em cũng biết nối kết các sinh hoạt phục vụ cộng đồng với các niềm tin Kitô giáo của mình. “Em cho rằng em chỉ muốn người ta nhớ đến em như một người biết yêu thương người khác, biết sung sướng đóng góp, biết cởi mở và tạo khác biệt lớn cho đời sống người ta".
4. Hành động xã hội (cá nhân hay tập thể)
Em từng được trao tặng ‘huy chương toàn diện’ vì việc phục vụ cộng đồng tại trường. Em tham dự một loạt các sinh hoạt thiện nguyện và tác phong công dân. “Em khởi xướng sáng kiến đan áo để đan áo cho những người kém may mắn, tại cơ quan dịch vụ cộng đồng, nhà trẻ và đúng, đã được nhìn nhận, cùng nhiều sinh hoạt ngoại khóa nữa, để giúp cộng đồng nhà trường và thân hữu với mọi người. Việc ấy quả tình là tốt, người bị khuyết tật và việc chị làm có tạo ra khác biệt, quả là điều rất tốt”.
Katherine được xếp vào loại có khuynh hướng công dân trung bình. Em thực hiện nhiều dịch vụ cộng đồng so với tuổi của em, có nhiều thái độ công dân lành mạnh nhưng không quan tâm tới các cơ cấu chính trị hay xã hội và không biết đến các vấn đề hay biến cố thời sự. Em khác với các trường hợp khác trong phúc trình này ở chỗ dù tham gia hàng loạt các việc thiện nguyện, quan tâm chính của em lại là phúc lợi của thú vật.
________________________________________________________________________
Ghi chú:
(12) Bất cứ ai từng dạy môn Giáo Dục Tôn Giáo (RE) đều gặp yếu tố phi lý nhưng phổ biến hay nghi ngờ này của tuổi trẻ: nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có thực sự hiện hữu như một con người lịch sử hay không, một nghi ngờ ta cũng thấy trong nhận định của người thiếu nữ khá thông minh này. Nó rất đáng lưu ý nếu ta muốn tìm hiểu rõ hơn sự mù mờ về các vấn đề tôn giáo nơi các thiếu niên. Khi khảo sát xa hơn, các tác giả thấy sự mù mờ ấy cũng có đối với các nhân vật lịch sử khác vốn không có một ý nghĩa tôn giáo nào, như Julius Caesar hay Napoleon. Ở đây, có thể có những lý do như: 1) ít có học sinh nào lấy môn lịch sử làm môn chính trong ba năm cuối cùng của ban trung học, nên không có ý niệm gì về những điều người ta biết về quá khứ của nhiều nhân vật, ngay cả những tiêu chuẩn sơ đẳng nhất giúp ta phân biệt sự kiện lịch sử với truyền thuyết cũng không nốt. Lại nữa, họ biết rằng trong tôn giáo, có rất nhiều truyền thuyết và nhiều tuyên bố có tính ‘biểu tượng’ mà họ không thể đọc như những trình thuật hoàn toàn đúng như sự kiện… 2) Hiệu quả từ các công trình của các bậc thầy hoài nghi như Marx, Freud và Nietzsche, vốn chỉ được nhỏ giọt tới các thế hệ sau qua các trước tác bình dân hóa rất kém giá trị, gần đây lại được những tay tổ chuyên phá phách (deconstructionoists) đẩy đến chỗ cực đoan; 3) Chủ nghĩa duy khoa học khá phổ thông, vốn được những phúc trình không có phẩm chất phê phán của các nhà văn như Richard Dawkins hỗ trợ, nói cách khác là niềm tin ngây thơ vào thẩm quyền tối thượng của các khoa học tự nhiên, là các khoa học, dù không bàn tới các vấn đề lịch sử, nhưng vẫn được coi như đã phủ một cái bóng hoài nghi phổ quát lên mọi kiến thức không phải là khoa học, nhất là những gì liên quan với tôn giáo; 4) lòng hoài nghi hết sức có tính ‘hậu hiện đại’ đối với ‘nhận thức công cộng’, được một số người, cách đây mấy năm, đưa ra làm điển hình trong đó họ lý luận rằng việc con người đổ bộ lên mặt trăng chẳng qua chỉ là trò lừa gạt của chính phủ Mỹ, vì đã chỉ được quay phim tại một lán máy bay và được lèo lái bằng kỹ thuật mới để trrông như thật khi chiếu trên truyền hình. Ở bình diện bình dân, xem ra nhiều người có khuynh hướng muốn hoài nghi mọi điều mà tự thân họ chưa có cảm nghiệm. Tóm lại, Thế hệ X và Thế hệ Y, dù lớn lên trong thời ‘hậu hiện đại’ hình như vẫn còn hiện hữu trong bầu khí nhận thức luận của thế kỷ 16, một thời đại hoài nghi triệt để khả năng của trí khôn trong việc nhận biết chân lý. Và nếu người ta không thể đạt được sự chắc chắn nào và tất cả chỉ là ý kiến, thì ý kiến của tôi cũng hay như ý kiến của bất cứ ai khác, như các thiếu niên trẻ tuổi hơn vẫn thích chủ trương. Tuy nhiên, thời đại nào cũng thế, chỉ một thiểu số thực sự suy nghĩ một cách có phê phán, còn đa số luôn biết kết hợp lòng hoài nghi đối với các chủ trương ‘chính thức’ về chân lý với lòng dễ tin (credulity) đối với bất cứ điều gì lôi cuốn họ về phương diện xúc cảm.
(13) Thẻ A chứa bốn đoản văn mô tả các loại kinh nghiệm tôn giáo hay tâm linh khác nhau. Đoản văn cuối cùng là kinh nghiệm của một người đang dạo bước trên một bãi biển, rồi một cách bất thường bỗng ‘cảm thấy một điều gì đó lớn hơn và tuyệt đối vượt quá tôi’. Đoản văn này không nhắc xa xôi chi tới một sự ‘Hiện Diện’.
(14) Về các kinh nghiệm tâm linh ‘nguyên khởi’ và chỗ đứng của chúng trong lý thuyết và phương pháp học của các tác giả, xin xem phúc trình trước đây của họ tựa là ‘Linh đạo nơi thiếu niên và người mới trưởng thành: một phương pháp nghiên cứu định chất’ ( ‘Spirituality in adolescence and young adulthood: A method for a qualitative study’), nay sắp được ấn hành trong International Journal of Children’s Spirituality. Trong đó, họ viết: ‘câu định nghĩa của chúng tôi về linh đạo cũng bao gồm các cách thế trong đó cuộc sống con người ta được lên khuôn nhờ các trực giác tiên niệm (pre-conceptual intuitions). Những cách thế này thường không được đem tới ý thức có suy nghĩ, bởi thế theo định nghĩa, người ta không nhận ra chúng để có thể trả lời các câu hỏi trực tiếp về chúng. Hai trong các phương pháp của các tác giả này (dùng các bức hình thuộc ‘ngôn ngữ hình ảnh’ và thăm dò các kinh nghiệm nguyên khởi) chính là để tìm cách khêu gợi các hiện tượng như thế. Các giả thuyết được nghiên cứu hỗ trợ của họ là thế này: các hiện tượng kia ẩn núp đâu đó ở vùng tranh tối tranh sáng (penumbra) của ý thức nhiều người…Trong nhiều lần tái duyệt nghị trình phỏng vấn, thay vì dùng các câu hỏi trực tiếp để hỏi về các kinh nghiệm siêu việt, các tác giả đã quyết định dựa nhiều vào các câu hỏi nhằm gợi lên được điều họ gọi là kinh nghiệm nguyên khởi, tức các biến cố thuộc nhận thức tâm linh đang còn phôi thai nhưng đã bị đẩy vào vùng tranh tối tranh sáng của ý thức, và trước đó chưa bao giờ được phản tỉnh, hay thiếu cả một khung giải thích.
Một ghi chú đã được duyệt lại trong lần tái bản phúc trình trên cho hay: ‘Duyệt xét lại nghị trình phỏng vấn sau dự án thăm dò, chúng tôi đã bước thêm một bước nữa: thay thế các câu hỏi này bằng bốn trình thuật ngắn mà chủ từ là ngôi thứ nhất cho thấy các kinh nghiệm loại này, lấy từ bài phân tích của Maxwell và Tchudin (1990) đối với các trình thuật từ văn khố Alister Hardy Centre chuyên Nghiên Cứu Các Kinh Nghiệm Tôn Giáo. Các tác giả bao gồm cả các kinh nghiệm ‘kính sợ’ (numinous) lẫn kinh nghiệm ‘huyền nhiệm’ (mystical) (trong các kinh nghiệm sau, bản ngã và siêu việt thể không được phân biệt rõ ràng, mà đúng hơn được cảm nghiệm như một hợp thể duy nhất; đến độ siêu việt thể mất hết thuộc tính xa cách, và thay vào đó đã được cảm nghiệm như là ‘nội tại’). Các tác giả mong rằng các đoản văn thực tế sẽ có tính khêu gợi nhiều hơn là các câu hỏi trước đây từng dùng’. Các kinh nghiệm ấy nằm trong các tấm thẻ đưa cho người được phỏng vấn. Chính bức hình ‘mê trận đường rầy xe lửa’ đã khơi lên cảm thức nơi Katherine về sự mù mờ phong phú của đời cô, ‘có mặt khắp nơi’, và cảm nghiệm thiên nhiên (đã miêu tả ở trên) đối với tấm thiệp được trao cho cô, một tấm thiệp đã giúp cô nhớ lại ‘cảm thức hiện diện’ cô thấy được khi đang đi dạo dọc bãi biển.
(15) Trong cuốn ‘The Heretical Imperative’ (1980), Peter L. Berger đã bàn đến một cách hết sức sâu sắc sự ưu tiên dành cho kinh nghiệm như là nguồn của nhận thức trong các xã hội kỹ nghệ hậu truyền thống này.
(16) ‘Trong các vấn đề quan trọng, ta hiểu không phải nhờ đơn giản hóa, nhưng nhờ biết khoan dung đối với điều nghịch lý’ (E.R.Goodenough, được trích dẫn trong Robinson (1977 p. 144).
(17) Tác phẩm cổ điển bàn đến sự bất hòa nhận thức là của Festinger (1957).
(5048 chữ; nữ phỏng vấn viên)
Katherine, 15 tuổi, học lớp 10 tại một trường tư. Cả hai cha mẹ đều sinh tại Úc và đều là những nhà chuyên nghiệp.
Linh đạo:
Katherine tỏ ra hết sức thông minh. Cô hay nói ‘nhiều lắm’ khi mô tả một loạt các can dự của cô, bè bạn và suy nghĩ của mình. Đồng thời, người thiếu nữ này lại để nhiều trái banh lơ lửng trên không khí, đối đầu với nhiều điều không biết chắc, nhưng vẫn lao mình vào các sinh hoạt một cách cuồng nhiệt, hớn hở, nhiều thành công và hết sức hân hoan.
Hỏi: Em nghĩ có bao giờ em cảm thấy mình sinh động nhất chưa từng thấy không?
Thưa: Có lẽ năm ngoái trong đêm phát phần thưởng ở trường. Em được cấp bốn hay năm chứng chỉ thành tựu về học vấn. Vâng, đúng thế, trước sự hân hoan của các học sinh đêm ấy, em biết, em thấy em như ở trên mây, ồ, tuyệt. Hôm ấy em rất lăng xăng, gần như mất ngủ, ối chao, sao mà tuyệt.
Hỏi: Vậy ngoài lăng xăng ra, có gì khác trong đầu em không?
Thưa: À, có chứ, em đoán đó là cảm thức được chấp nhận, được nhìn nhận, người ta bảo chị có thể nghĩ chị thông minh, nhưng được thưởng huy chương giỏi về mọi môn (all-rounder) có thể nói lần đầu tiên về cộng đồng hay gần như thế, em nghĩ em phải được nhìn nhận và hẳn người ta phải nói là em tuyệt diệu. Điều ấy đem lại cho em một cảm nghĩ rất lớn.
Như thể điều trên chưa đủ, nên Katherine còn là một vũ công nhạc jazz nữa; em học trường khiêu vũ và sau ít năm em đã lên đến lớp cao nhất, và rất hãnh diện được kể là một trong các học viên giỏi nhất.
Nét ngoại thường và quan trọng trong đời em là em tham dự rất đều đặn việc thực hành suy niệm có cấu trúc đàng hoàng.
Giống Rohan, em chọn bức hình chụp các đường rầy xe lửa; chúng mô tả đời sống em, một đời sống ‘có mặt khắp nơi’. Vì em tham gia rất nhiều các sinh hoạt bên ngoài học trình; nhưng em giải thích hoàn cảnh ấy một cách hết sức tích cực: ‘Em thích tất cả các sinh hoạt ấy’.
Em thành công về học vấn và muốn học ngành thú y, từng có khá nhiều các giống vật ưa thích đủ loại. Em có một bạn trai rất ân cần và một gia đình biết nâng đỡ và thông cảm.
Đó là các nhân tố ảnh hưởng cách này cách khác tới lối suy nghĩ và hành động của em. Cuộc sống em đang kinh qua việc tái giải thích và tái xây dựng. Thành ra, thế giới quan của em giống như một công trường xây dựng trên đó một tòa nhà đang được tân trang; rất nhiều vật liệu đang nằm ngổn ngang, mà một số lấy từ toà nhà cũ, có thể để vất đi, mà cũng có thể để lên khuôn lại và để dùng lại; nhiều vật liệu mới đã được lắp ráp, nhưng vẫn còn ở trong trạng thái vật liệu thô, chưa tổng hợp được vào cấu trúc mới.
Đời sống của Katherine cho ta một điển hình rất tốt về sự pha trộn ở giai đoạn chuyển tiếp 1) các ý niệm thuần lý và 2) các trực giác kinh nghiệm, (đã miêu tả ở trên theo nghĩa tổng quát). Sẽ là điều hữu ích nếu ta trình bầy các điều trên một cách có hệ thống, bằng cách cho thấy trong mỗi trường hợp a) nội dung của ý niệm và b) các thực hành làm phát sinh và tăng cường các ý niệm ấy.
1a) Nội dung các ý niệm và các niềm tin liên quan tới linh đạo:
Katherine có nhiều ký ức về tôn giáo thời em còn nhỏ, mà giờ đây, phần lớn được em ‘kính nhi viễn chi’ và đôi chút nghi ngờ. Do đó, chắc chắn em không nhận mình là thành viên của giáo phái trước đây (theo nghĩa Kiểm Tra Dân Số), ấy thế nhưng, đối với tất cả các câu hỏi của em, chắc một điều em cũng không coi mình là người ‘vô tôn giáo’. Các tác giả không đặt câu hỏi trực tiếp, nhưng đoán rằng em muốn nhận mình là ‘Kitô hữu’.
Hỏi: Có phải em nói em tin Thiên Chúa hay một đấng như thế?
Thưa: Vâng. Em tin một đấng nào đó. Không đặc thù là Thiên Chúa, như thể em vẫn còn không biết chắc em tin gì. Chắc chắn em tin một đấng cao hơn mình, bất kể đó là Thiên Chúa của Kitô giáo hay một đấng nào khác, em chưa hoàn toàn xác tín về điều đó. Em vẫn còn trên hành trình tìm ra điều thực sự em tin…Em chưa nghiên cứu nhiều về các tôn giáo khác. Em thích không theo bất cứ tôn giáo đặc thù nào, mà lúc này, em muốn tổng hợp các tôn giáo ấy thành điều em cảm thấy là hữu ích cho em.
Hỏi: Thế em nghĩ gì về Chúa Giêsu? Ngài là nhân vật như thế nào?
Thưa: Em thực sự không biết Ngài có hiện hữu hay không, chuyện gì có lẽ sẽ đến và các niềm tin hay gì đó, cố gắng giải quyết xem ngài đã có ở đây hay không, hợp tác với những gì đã xẩy ra. Quả là một phạm vi nhá nhem (grey area) quá lớn (12).
Hỏi: Em có tin rằng các điều trong Thánh Kinh thực sự có xẩy ra hay không, như các câu truyện phép lạ, việc Chúa Giêsu sống lại?
Thưa: Em không biết. Tất cả những vấn đề ấy em thấy thực sự hơi thổi phồng. Em tin chúng rất có thể xẩy ra và em chắc một ngày kia em sẽ quyết định mình sẽ tin gì nhưng lúc này việc Chúa Giêsu xuất hiện và tất cả những chuyện cao siêu kia xem ra có hơi lý tưởng hóa.
Hỏi: Thế bản thân em, em tin điều gì xẩy ra sau khi chết?
Thưa: Em tin chắc có một đời sau. Chắc phải có một cái gì ở đó nhưng có những điều vô nghĩa đối với em. Em muốn nói, em không nhất thiết tin toàn bộ chuyện thiên đàng và hỏa ngục, nơi có chỗ tốt chỗ xấu, nơi tất cả chúng ta sẽ tận mạng. Em nghĩ thế, em cũng không biết nữa.
1b) Các thực hành làm phát sinh, nói lên và hỗ trợ các niềm tin này:
Katherine kể lại rằng lúc còn bé, khi gia đình em còn sống ở thôn quê, em và cha mẹ em thường đi nhà thờ đều đặn với bà nội, là người ‘rất hay đi nhà thờ’, và em cũng tham dự trường ngày Chúa Nhật nữa. Nhưng khi chuyển vào thành phố, ‘chả có nhà thờ nào ở đây’ (chắc em muốn chỉ nhà thờ thuộc giáo phái cũ của em). Nhưng nay em vẫn còn đi nhà thờ mỗi lần về thăm bà nội, người mà em rất gần gũi, và cả gia đình cùng đi nhà thờ của bà nội dịp lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên, nay em coi việc ấy một cách khác rồi: “Em thấy nó đáng lưu ý, không phải vì em tin mọi sự đang xẩy ra nhưng người ta có quan điểm khác nhau, cả cách họ tin nữa, em nghĩ, đều giúp tạo ra ý kiến riêng của em và điều em tin. Phải nói như thế này, em không tin rằng họ cải đạo em và em sẽ đặc thù tin điều người ta bảo em. Nhiều chuyện có tính thực tiễn trong Thánh Kinh, những điều về xúc cảm và tâm tư, có liên hệ với con người chẳng hạn, em thấy đáng lưu ý hơn”.
Một thực hành mà các tác giả thường chờ mong những người từng được dưỡng dục về tôn giáo thường có vào một thời điểm nào đó là cầu nguyện. Kartherine cho thấy em vừa thay đổi phương cách thực hành cổ truyền ấy vừa thấu hiểu nó.
Hỏi: Em có cầu nguyện bao giờ không?
Thưa: À, không cầu nguyện một cách đặc thù. Em nghĩ, có thể nói, em có nhiều hy vọng và thích nghĩ đến những điều em muốn xẩy ra, nhưng em không đặc thù ngồi xuống kia mà cầu nguyện. Chỉ khi có những vấn đề lớn, những vấn đề như chết chẳng hạn hay những vấn đề giống như thế xẩy ra, và em cầu cùng Chúa săn sóc người ta và chăm nom họ. Khi có những vấn đề lớn trong đời em, em biết em thích nghĩ về chúng và hy vọng có ai đó quan tâm đến chúng, vì em chả làm được gì, nhưng ngoài những chuyện đó, thì không chị ạ.
Ngay trình độ thực hành ấy cũng có thể đã đóng một vai trò duy trì được các niềm tin tôn giáo còn sót lại của em rồi.
2a) Các kinh nhgiệm mới đây và những loại ý thức phát sinh từ các kinh nghiệm này:
Hỏi: [Trao Thẻ A (13) cho đương sự]. Em có thể nói có điều gì đó áp dụng vào trường hợp em không?
Thưa: Em từng ở tại một bãi đậu xe móc nhà lưu động (caravan) và thường đi dạo dọc bãi biển mỗi sáng hay mỗi đêm và chính sự kiện ở ngoài bãi biển ấy làm chị cảm thấy mình nhỏ bé hơn và chắc chắn phải có gì khác ở đấy. Em tin chắc kinh nghiệm đã giúp em tự xác tín mình rằng có điều gì khác, điều gì khác cao hơn. Em thực sự chưa quyết định đi tìm hiểu nhiều như những người khác, chỉ vì ở thời điểm trong đời này em không nghĩ quyết định tin gì là điều quan trọng nhất. Nhưng chắc chắn kinh nghiệm kia đã cho em tâm thức này là chung quanh em, phải có gì đó hơn nữa, điều gì đó lớn hơn và điều gì đó càng lớn hơn càng tốt.
[Sau đó, sau câu hỏi có tin ma quái không, Katherine nói] “…chắc chắn đã có lúc em cảm thấy một sự hiện diện hay một sự gì đó lớn hơn hay cao hơn em. Nhưng em không biết chắc đó là điều gì
Hỏi: Em có thể cho chị hay một trong những điều ấy không?
Thưa: Được thôi, em biết một đêm kia khi đang nằm trên giường, sau khi ông em chết, khoảng 6 tháng sau hay gì đó, và đang suy nghĩ về điều đó, thì em cảm thấy gần như ông em đang có mặt với em, mà lúc ấy không có ai trong phòng em cả, nhưng em cảm thấy rõ có một linh thể nào đó đang ở đấy… Chắc chắn vào lúc đó, em nghĩ đó chính là ông em hay hy vọng là ông em và có thể nói nó làm em cảm thấy tốt hơn, cảm thấy o.k.
Cả cảm thức về một cái ‘gì khác’ trong Thiên Nhiên lẫn cảm thức về sự hiện diện của một ai đó vừa mới qua đời đều là những cảm nghiệm ‘nguyên khởi' (primordial) hết sức quen thuộc (14). Và trong trường hợp của Katherine, cũng như tiêu biểu cho các kinh nghiệm loại này, đương sự không có được một cái khung rõ ràng để giải thích, một cái khung có thể cung cấp cho họ một thứ ý nghĩa gắn liền với quan niệm hay ý niệm kia; các cảm thức ấy có thể không phù hợp với các niềm tin đương sự đã học được từ một truyền thống tôn giáo, dám còn bị cái khung này bác bỏ nữa; chúng chỉ là những ‘cảm nhận’ hay trực giác mơ hồ từ kinh nghiệm phát sinh ra; ấy thế nhưng, chúng có thể mang theo mình một cảm tưởng mạnh mẽ về giá trị, một thứ ‘chân lý của kinh nghiệm’, và một giá trị và ảnh hưởng mạnh mẽ về xúc cảm do tính trực tiếp và cận kề của chúng đem tới.
2b) Các thực hành nói lên và hỗ trợ thứ thành tố ‘nhận thức nhờ kinh nhgiệm’này trong thế giới quan của Katherine:
“Em hay suy niệm, có thể nói thế. Bên ngoài kia, trong cảnh thiên nhiên, hết sức hữu ích đối với em… chú tâm tới chính mình và thư giãn bản thân mình… Em ráng làm thế ít nhất mỗi tuần một lần… Nó tạo ra sự khác biệt lớn trong cách cảm nghĩ của em, cách em liên hệ với mọi người khác và cách em đương đầu với sự việc”.
Thực hành trên khá đều đặn, nổi bật, và Katherine còn đi xa đến độ xếp nó vào hạng nhất trong số những điều đem lại cho em hạnh phúc.
Hỏi: Đâu là những điều em làm, được em coi là tốt đối với em, những điều làm em hạnh phúc?
Thưa: Chắc chắn là việc suy niệm, nó là việc lớn nhất của em.
Tuy nhiên, điều ngạc nhiên hơn cả đối với bạn đọc là nguồn gốc của thực hành này:
Hỏi: Thế làm thế nào em bước vào việc suy niệm?
Thưa: À, bà em dạy các lớp suy niệm. Không hẳn suy niệm về tôn giáo, nhưng là tập chú vào chính chị và để chị thật thanh thản, rồi từ từ em sẽ lĩnh hội được những điều khác. Em thích ngồi ngoài kia, rồi đọc và để em thanh thản tâm hồn và…
Hỏi: Thế bao lâu em làm một lần?
Thưa: Em ráng làm mỗi tuần một lần. Tất cả còn tùy bài làm của em, liệu em có thì giờ dành cho nó hay không. Nhưng điều chắc là khi em thực hành, nó tạo ra sự khác biệt lớn đối với cách em cảm nghĩ, cách em liên hệ với mọi người khác và cách em đương đầu với sự việc.
Hỏi: Đó có phải là loại suy niệm có hướng dẫn không? Em có cuộn băng nhựa hay phương tiện nào giống thế để giúp em không?
Thưa: À, đôi khi em không có băng nhựa nhưng là âm nhạc, âm nhạc cổ điển hay giống thế, chúng tạo nên âm thanh tự nhiên. Đôi khi em dùng nó, phần lớn ngồi bên ngoài kia và lắng nghe thiên nhiên và để môi sinh làm nhà hướng dẫn, lắng nghe chim chóc, ngồi đấy và để nó hướng dẫn em.
Hỏi: Thế, em nghĩ thiên nhiên có thể hướng dẫn em?
Thưa: Vâng, em nghĩ nó làm ta rất thanh thản, chỉ cần ngồi ở bên ngoài rồi tập chú không phải vào điều đang xẩy ra với đời em mà là điều đang xẩy ra chung quanh em”.
Người bà này còn rất nhiều điều khác chứ không phải chỉ là một bà già đạo đức chuyên lo sao để cháu gái đa tài của mình giữ liên hệ với Giáo Hội. Có thể vì ích lợi của chính cụ, nhưng có lẽ phần lớn là vì đứa cháu gái của mình, mà cụ ‘can dự’ vào việc suy niệm, và đã gặt hái được thành công rực rỡ trong việc chuyển giao cho cô một kỹ thuật tâm linh hiển nhiên hết sức thích hợp với giai đoạn tra vấn linh đạo hiện tại của tuổi thiếu niên. Hoan hô, bà nội!
Khả năng biết thưởng ngoạn cảnh thanh tĩnh và yên lặng, một thưởng ngoạn dứt khoát đối với họ, hình như không quen thuộc lắm nơi một thế hệ dường như không bao giờ biết ngưng nghỉ, trái lại luôn luôn gián tai vào những nguồn, đủ loại, phát ra đủ thứ ồn ào điện tử, chẳng điện thoại di động thì cũng MP3. Nên thực hành suy niệm của Katherine quả đã giải thích được tính ‘hướng tâm’ (centredness) của em ngay ở giữa một đời sống ‘có mặt khắp nơi’ này, và tính lớp lang tương đối rất cao trong thế giới quan của em. Em từng suy tư về các niềm tin tôn giáo trước đây của mình và tuy không vứt bỏ chúng hoàn toàn, em đã đưa ra nhiều chất vấn đối với chúng, và một ý hướng phải đi đâu mới tìm ra tín liệu thêm. Rõ ràng là: tuy chưa bao giờ nghe nói đến, nhưng em quả đang theo toa thuốc của Rilke, đã được nhắc đến trên đây: em đang ‘sống các vấn nạn’ của em, hơn là đi tìm các câu trả lời, ‘những câu trả lời vốn không thể có cho bạn vì bạn chưa có khả năng sống các câu trả lời ấy’.
Việc thực hành suy niệm của em rõ ràng không phát sinh từ các nguồn vốn được nhận dạng là của Tân Đại, của Đông Phương kỳ bí hay được liên kết với các thực hành khác thuộc loại như Yoga, Tai Chi, thông linh học, bói bài; các câu hỏi về các hình thức trên đã không được em nói chi ngoại trừ điều đã nói ở trên liên quan đến hồn ma khiến em đề cập đến ông nội em. Em từng xem tử vi, nhưng thấy nó ‘chả ăn nhập chi’.
Lớp lang trong thế giới quan
Như đã ghi nhận ở trên, cái hiểu đang phát triển của Katherine về thế giới tương đối khá cao về mức độ lớp lang/phát biểu và suy tư nhờ một trí khôn linh lợi và việc em thực hành suy niệm. Em đã khai triển được một ý thức biết phê phán khá trưởng thành so với tuổi và trình độ giáo dục của em. Em phân biệt được rõ ràng giữa một đàng là tra vấn các niềm tin của quá khứ và đàng kia là thẳng thừng vứt bỏ chúng; em biết em biết gì và không biết gì; nhưng không quá lo lắng tới chuyện phải lấp cho đầy khoảng cách lớn rộng. Không phải mọi sự đều đang biến chẩy (flux); điều em biết, nhất là những điều do kinh nghiệm riêng, em biết là thật (15), em đã thủ đắc làm của riêng và đem ra sống.
Gắn bó rõ ràng trong thế giới quan
Giống cuộc sống của mình, thế giới quan của Katherine cũng ‘có mặt khắp nơi’; nó không cho thấy sự gắn bó của một toàn bộ có thứ tự; các yếu tố bất nhất chen lấn lẫn nhau. Nhưng đó là điều các tác giả chờ mong ở giai đoạn phát triển này của em, có cái nhìn thế giới, nhìn vị trí của mình trong đó như thế, một giai đoạn em đang tích cực xem sét lại các niềm tin cũ của mình, đang tra vấn, đang tích nhập các kinh nghiệm mới. Nơi em, diễn trình này đang diễn tiến tốt; nhưng xem ra còn lâu mới chấm dứt. Ta có thể dự ước rằng diễn trình ấy vẫn còn tiếp tục và tăng cường độ suốt những năm còn lại của ban trung học, và có lẽ đến tận những năm đầu của tuổi trưởng thành. Em đã chứng tỏ một mức độ hết sức cao, cao một cách khác thường, về lòng khoan dung đối với tính hàm hồ (16) mà người ta vốn coi là biểu hiệu của chính sự trưởng thành, ngày nay rất cần thiết cho cả những người trưởng thành lớn tuổi hơn vốn có những nền linh đạo đã được tích nhập cao độ.
Ấy thế nhưng, các yếu tố cá thể trong thế giới quan của Katherine không hẳn đã chỉ được gom góp thành một đống hỗn loạn. Cũng không phải là một biến chẩy vô trật tự, nhưng cho thấy nhiều khuôn mẫu khác nhau: ta thấy có những hạ tầng của niềm tin truyền thống, và một cơ cấu các vấn nạn phát sinh từ các nguồn gốc rất rõ ràng: nhận thức mới thủ đắc được ở nhà trường và nhờ đọc sách báo, các tiêu chuẩn kiểm nhận có tính khoa học và lịch sử rất hiện đại, tuy bị em hiểu một cách sai lạc; điều thứ ba, ta còn thấy nhiều khuôn mẫu ý thức mới phát sinh do kinh nghiệm và thực hành suy niệm của em. Đồng thời, ta cũng thấy một thúc đẩy hướng tới sự nhất quán nhận thức, hay dịch ra xa sự ‘bất hòa nhận thức’ (cognitive dissonance) (17), có lẽ đã được thiết dựng vào chính cấu trúc của tâm tư, nên xem ra rất có thể một phụ nữ với khả năng của Katherine, một lúc nào đó, sẽ hoà giải được các nguyên lý mâu thuẫn nhau, và tìm ra câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi của em, để đạt tới một quan điểm nhất quán hết sức mềm dẻo và hết sức phức tạp, mà vẫn dành chỗ để phát triển thêm, và dành chỗ cho các yếu tố tế vi của ý thức thực nghiệm mà người ta thường dùng ‘bạo lực’ mới buộc được chúng đi vào hòa hợp trong những tổng quát hóa thuận lý có tính dễ hiểu hơn.
Triết lý sống
Có thể miêu tả triết lý sống của Katherine một cách tốt nhất bằng cách căn cứ vào tính khí ổn định trong việc hân hoan dìm mình vào cuộc sống của em, nắm lấy rất nhiều cơ hội ở trong đời và lao mình một cách không sợ hãi vào bài vở ở trường và một loạt không biết bao nhiêu các sinh hoạt ngoại khóa (mà trên đây chỉ mới kể một số) cũng như nhiều gặp gỡ, lôi cuốn và khám phá có tính bản thân khác. Em hết sức cở mở đối với kinh nghiệm.
Nếu về phương diện nhậy cảm luân lý, xem ra em có vẻ phần nào thiếu phát triển, thì phương diện nhậy cảm thẩm mỹ của em lại phát triển cao và gây nhiều ảnh hưởng, nhất là qua việc em tham gia ngành vũ và âm nhạc (em chơi hai nhạc cụ và biết đánh giá cả âm nhạc bình dân lẫn cổ điển). Mặt khác, em lại là người duy cảm (sentimentalist), dễ xúc cảm đến cả tin: em mô tả cuốn phim em ưa thích như sau:
Katherine: Thực là buồn và thực là tốt.
Hỏi: Thế tại sao em lại thấy nó tốt?
Thưa: À, em chỉ nghĩ thế thôi vì nó làm em khóc. Em nghĩ nếu chị khóc thì hẳn nó phải đưa ra cái gì đúng chứ. Cuốn phim đó thực là buồn nhưng là một truyện tình: chàng chứng thực tình yêu của chàng cho nàng, đại khái thế”.
Các độc giả lớn tuổi hơn dám sợ rằng ngây thơ tin vào bất cứ điều gì đến độ nhỏ lệ như thế chứng tỏ một phán đoán nghèo nàn đầy xúc cảm, và cho là Katherine rất dễ bị thương tổn. Nhưng trong một thời đại mà ngay cả những trái tim trẻ cũng rất thường bị khô cứng bởi ngờ vực, hợm hĩnh, có lẽ đây chỉ là một lỗi lầm dễ có thể tha thứ được; em có thể là bất cứ điều gì nhưng nhất định không phải là loại ghiền xúc cảm (emotional junkie), và em cho thấy nhiều bằng chứng rõ ràng em dùng được cả đầu lẫn trái tim của mình. Em còn đưa ra được lý do tại sao cuốn phim ấy có nhiều tác dụng đối với em: nó là câu truyện tình chân thực. Tuy vậy, triết lý sống của em không chỉ bao gồm những đoản khúc vui tươi, những xúc cảm thái quá và những nhậy cảm thẩm mỹ. Em còn có một số giá trị đã lên khuôn hoàn toàn: nghiêm chỉnh quan tâm đến các vấn đề lớn của linh đạo; dấn thân bênh vực phúc lợi của thú vật vốn là cơ sở cho tham vọng nghề nghiệp của em, và như ta sẽ thấy, còn là một lương tâm xã hội đang bừng lên.
Các tác giả hy vọng sẽ phỏng vấn lại em trong hai năm tới; chắc chắn em sẽ làm tất cả chúng ta vui và ngạc nhiên một lần nữa.
Loại linh đạo
Các câu trả lời sinh động của Katherine cho các tác giả thấy một thiểu nữ tài năng và hạnh phúc giữa lúc đang lớn lên. Khó có thể xếp loại em theo các mẫu xếp loại của họ. Em không thích hợp lắm nếu xếp em vào loại truyền thống, nhưng vì em có đủ các yếu tố truyền thống nên lại càng không thể xếp em vào loại thế tục; rõ ràng em không thuộc loại Tân Đại, và nền linh đạo của em phát triển khá cao không thể xếp vào loại phôi thai được. Các tác giả đành xếp linh đạo của em đệ nhất đẳng là truyền thống, đệ nhị đẳng là thế tục: con đường linh đạo duy nhất mà em biết là truyền thống; nhưng các vấn nạn triệt để của em lại phát sinh từ phạm vi thế tục, được phát biểu một cách mạnh mẽ trong môi trường văn hóa Úc.
Các ảnh hưởng đối với linh đạo:
Katherine có một hệ thống bè bạn khá mạnh và xuất thân từ một gia đình hạch nhân rất gắn bó. Bối cảnh văn hóa của em là Anglo-Celtic. Như đã nói trên đây, việc em tham dự nhà thờ trong quá khứ và còn đang tiếp diễn vẫn còn có liên hệ đối với cô.
Katherine đặc biệt gần gũi cha mẹ. Giống nhiều người khác cùng tuổi, em xếp họ là những người có ảnh hưởng đến đời em:
Hỏi: Rồi, bây giờ em có thể nói cho chị về một người nào đó em thực sự ngưỡng mộ và điều gì em ngưỡng mộ nơi họ được không?
Thưa: Có lẽ mẹ em. Mẹ tuyệt lắm. Thí dụ, em nghĩ mẹ em hẳn là người bạn thân nhất của em. Mẹ đã 40 nhưng mẹ cư xử như thể mới chỉ 25. Không ngon (tacky) nhưng chị biết đó, mẹ trông không giống 40, có thể nói như vậy.
Hỏi: Thế còn những người khác trong gia đình? Họ có ảnh hưởng với em không?
Thưa: Em cho rằng cách cư xử của mẹ em và rồi của bố em nữa đã ảnh hưởng đối với cách cư xử của em. Như, bố em rất đặc thù về một số sự việc. Không hẳn quá đòi hỏi (compulsive) nhưng có khuynh hướng như thế. Em cho điều ấy ảnh hưởng trên em theo nghĩa em rất chính xác (precise) về điều em làm, em thích có những điều đúng.
Dù rất qúy hệ thống bạn bè, em lại không quá dấn thân vào việc cùng bè bạn đi thám thính linh đạo:
Hỏi: Rồi, thế em có phải là người có thật nhiều bạn bè rất thân hay chỉ một số nhỏ?
Thưa: Cả hai. Em có một số bạn để ra ngoài thường xuyên với nhau, nhiều, khá nhiều, nhưng chỉ hai hay ba người là em thực sự gần gũi thôi.
Nói thế xong, cũng như phần lớn các thiếu niên khác, các kinh nghiệm họ có với bè bạn là những kinh nghiệm thuộc loại quan trọng nhất đối với cuộc sống của họ:
Hỏi: Rồi, bây giờ, đâu là lúc em thấy vui đùa nhất xưa nay?
Thưa: Không có gì nổi bật cả. Chắc là một số buổi liên hoan em mới dự gần đây với bạn bè, nhưng chỉ cảm thấy hoàn toàn phấn chấn thôi, nhiều năng lực chứ không có gì nhất thiết đặc thù cả, như không có rượu, chỉ là cảm giác được quây quần bên bạn bè. Ai cũng rất phấn chấn và lên tinh thần (hyped up) và hân hoan vì cùng được ở với nhau…
Về các tài nguyên văn hóa gây ảnh hưởng đối với nền linh đạo của em, các tác giả đã nhắc tới lòng say mê suy niệm của em. Thế còn âm nhạc, phim ảnh và truyền hình thì sao? Chắc chắn chúng khá nổi bật đối với em, nhưng không như Rohan, vai trò chính xác của chúng trong nền linh đạo của em không dễ gì kể ra một cách lớp lang được:
Hỏi: Rồi, thế, nhóm âm nhạc nào em ưa thích nhất, nếu em có nhóm nào? Điều ấy không phải là chuyện lớn đối với mọi người phải không?
Thưa: Em thích nhóm Destiny’s Child, những loại nhạc hơi xưa hơn một chút. Một số bài về Kitô giáo của nhóm này thực là hay. À, có lẽ gần như mọi bài. Em nghe nhiều loại nhạc khác nhau, nhiều thể loại, nhưng em không đặc thù thực sự thích loại nào, dạ, đúng thế.
Hỏi: Em vừa nhắc đến chuyện nhóm Destiny’s Child chơi một số bài về Kitô giáo.
Thưa: Vâng.
Hỏi: Thế đối với em đó có phải là điều tốt không?
Thưa: Vâng, vì khi họ chơi một số bài về Kitô giáo thì đó là những bài vui và nhanh nhưng họ không phải là một ban nhạc đặc thù Kitô giáo. Ban nhạc ấy rất thích thú với em vì ngoài những loại nhạc khác, họ còn chơi nhiều thể loại bình dân cách đều đặn nữa. Họ lại còn chơi cả nhạc Kitô giáo.
Hỏi: Rồi, phim nào em ưa thích hơn hết?
Thưa: Em thích phim A Walk to Remember.
Hỏi: Nói về gì?
Thưa: À, nói về một người con gái mắc bệnh ung thư. Cô ta yêu một cậu trai nhưng lại không yêu được vì sắp sửa qua đời.
Hỏi: Ồ.
Thưa: Thực là buồn và thực là hay.
Hỏi: Thế sao em thấy là hay?
Thưa: Á, em chỉ nghĩ thế vì nó làm em khóc. Em nghĩ nếu chị khóc thì hẳn nó phải đưa ra điều gì đúng chứ. Nó thực sự buồn nhưng là một truyện tình, chàng chứng tỏ tình yêu đối với nàng.
Các hậu quả của linh đạo:
1. Kiến thức
Dù kiến thức của Katehrine về các vấn đề chính trị và thời sự không rộng dài, nhưng em đọc báo mỗi ngày, quá lòng mong đợi đối với phần lớn những người tuổi em. Dù quan tâm tới các câu truyện có tính nhân bản em đọc trong báo, nhưng em tỏ ra ít chú tâm tới việc gia tăng ý thức của mình về các vấn đề công bằng xã hội. Phạm vi đấu tranh duy nhất em từng tham gia là tẩy chay không mua một số hàng hóa chế biến từ một phần cơ thể loài thú.
Hỏi: Thêm chút nữa, nào, nghĩ tới thế giới ngày nay hay cộng đồng địa phương của em, có vấn đề nào em thực sự cảm nhận một cách mạnh mẽ không?
Thưa: Gần đây, khi người đàn bà kia bị giết gần ga xe lửa, mà các báo chí có tường thuật, em như không nhận ra đang có vấn đề bạo lực hay ma túy trong cộng đồng ta, nhưng biến cố kia đã đưa điều đó ra ánh sáng. Thật là khiếp đảm khi người ta ra ngoài kia mà không biết phải làm gì, buôn ma túy, ăn cướp và giết người. Điều đó gần như làm em thực sự bất ổn. Em thực sự chưa bao giờ hiểu được loại sự việc như thế lại có thể xẩy ra trong phạm vi này…Nhận thức về thời sự của em không tốt mấy. Em đọc báo hầu như mọi ngày và bất cứ khi nào có vấn đề gì đó, thực ra em không nhớ được sự việc đã xẩy ra một hay hai năm trước, vì từ đó đến nay, không biết bao nhiêu chuyện đã xẩy tới…Em ráng và đứng ngoài chính trị. Em không thạo lắm trong phạm vi này. Một số chính khách em ghét thượng hạng vì họ ngu quá. Nhưng chắc chắn là các vấn đề môi sinh như chó đang bị vứt bỏ và việc đối xử tàn tệ với thú vật”.
2. Các khả năng và kỹ năng bản thân
Katherine chứng tỏ một loạt các kỹ năng truyền đạt và liên bản ngã và có được một sự hỗ trợ sâu rộng từ gia đình và cộng đồng đối với cuộc sống em. Em không ngừng sử dụng các kỹ năng này trong nhiều sinh hoạt khác nhau, như tổ chức một tổ hợp đan chẳng hạn. “Công viên địa phương của bọn em có một chương trình thực hiện việc bảo tồn môi sinh, trồng cây và nhiều điều như thế và em có giúp một tay hồi trước đây. Việc ấy rất thoải mái, được dịp ra ngoài và làm cho công viên của mình lộng lẫy”.
3. Các thái độ xã hội
Katherine rõ ràng hết sức hội nhập và có ý thức mạnh về trách nhiệm đối với những người kém may mắn. Em cũng biết nối kết các sinh hoạt phục vụ cộng đồng với các niềm tin Kitô giáo của mình. “Em cho rằng em chỉ muốn người ta nhớ đến em như một người biết yêu thương người khác, biết sung sướng đóng góp, biết cởi mở và tạo khác biệt lớn cho đời sống người ta".
4. Hành động xã hội (cá nhân hay tập thể)
Em từng được trao tặng ‘huy chương toàn diện’ vì việc phục vụ cộng đồng tại trường. Em tham dự một loạt các sinh hoạt thiện nguyện và tác phong công dân. “Em khởi xướng sáng kiến đan áo để đan áo cho những người kém may mắn, tại cơ quan dịch vụ cộng đồng, nhà trẻ và đúng, đã được nhìn nhận, cùng nhiều sinh hoạt ngoại khóa nữa, để giúp cộng đồng nhà trường và thân hữu với mọi người. Việc ấy quả tình là tốt, người bị khuyết tật và việc chị làm có tạo ra khác biệt, quả là điều rất tốt”.
Katherine được xếp vào loại có khuynh hướng công dân trung bình. Em thực hiện nhiều dịch vụ cộng đồng so với tuổi của em, có nhiều thái độ công dân lành mạnh nhưng không quan tâm tới các cơ cấu chính trị hay xã hội và không biết đến các vấn đề hay biến cố thời sự. Em khác với các trường hợp khác trong phúc trình này ở chỗ dù tham gia hàng loạt các việc thiện nguyện, quan tâm chính của em lại là phúc lợi của thú vật.
________________________________________________________________________
Ghi chú:
(12) Bất cứ ai từng dạy môn Giáo Dục Tôn Giáo (RE) đều gặp yếu tố phi lý nhưng phổ biến hay nghi ngờ này của tuổi trẻ: nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có thực sự hiện hữu như một con người lịch sử hay không, một nghi ngờ ta cũng thấy trong nhận định của người thiếu nữ khá thông minh này. Nó rất đáng lưu ý nếu ta muốn tìm hiểu rõ hơn sự mù mờ về các vấn đề tôn giáo nơi các thiếu niên. Khi khảo sát xa hơn, các tác giả thấy sự mù mờ ấy cũng có đối với các nhân vật lịch sử khác vốn không có một ý nghĩa tôn giáo nào, như Julius Caesar hay Napoleon. Ở đây, có thể có những lý do như: 1) ít có học sinh nào lấy môn lịch sử làm môn chính trong ba năm cuối cùng của ban trung học, nên không có ý niệm gì về những điều người ta biết về quá khứ của nhiều nhân vật, ngay cả những tiêu chuẩn sơ đẳng nhất giúp ta phân biệt sự kiện lịch sử với truyền thuyết cũng không nốt. Lại nữa, họ biết rằng trong tôn giáo, có rất nhiều truyền thuyết và nhiều tuyên bố có tính ‘biểu tượng’ mà họ không thể đọc như những trình thuật hoàn toàn đúng như sự kiện… 2) Hiệu quả từ các công trình của các bậc thầy hoài nghi như Marx, Freud và Nietzsche, vốn chỉ được nhỏ giọt tới các thế hệ sau qua các trước tác bình dân hóa rất kém giá trị, gần đây lại được những tay tổ chuyên phá phách (deconstructionoists) đẩy đến chỗ cực đoan; 3) Chủ nghĩa duy khoa học khá phổ thông, vốn được những phúc trình không có phẩm chất phê phán của các nhà văn như Richard Dawkins hỗ trợ, nói cách khác là niềm tin ngây thơ vào thẩm quyền tối thượng của các khoa học tự nhiên, là các khoa học, dù không bàn tới các vấn đề lịch sử, nhưng vẫn được coi như đã phủ một cái bóng hoài nghi phổ quát lên mọi kiến thức không phải là khoa học, nhất là những gì liên quan với tôn giáo; 4) lòng hoài nghi hết sức có tính ‘hậu hiện đại’ đối với ‘nhận thức công cộng’, được một số người, cách đây mấy năm, đưa ra làm điển hình trong đó họ lý luận rằng việc con người đổ bộ lên mặt trăng chẳng qua chỉ là trò lừa gạt của chính phủ Mỹ, vì đã chỉ được quay phim tại một lán máy bay và được lèo lái bằng kỹ thuật mới để trrông như thật khi chiếu trên truyền hình. Ở bình diện bình dân, xem ra nhiều người có khuynh hướng muốn hoài nghi mọi điều mà tự thân họ chưa có cảm nghiệm. Tóm lại, Thế hệ X và Thế hệ Y, dù lớn lên trong thời ‘hậu hiện đại’ hình như vẫn còn hiện hữu trong bầu khí nhận thức luận của thế kỷ 16, một thời đại hoài nghi triệt để khả năng của trí khôn trong việc nhận biết chân lý. Và nếu người ta không thể đạt được sự chắc chắn nào và tất cả chỉ là ý kiến, thì ý kiến của tôi cũng hay như ý kiến của bất cứ ai khác, như các thiếu niên trẻ tuổi hơn vẫn thích chủ trương. Tuy nhiên, thời đại nào cũng thế, chỉ một thiểu số thực sự suy nghĩ một cách có phê phán, còn đa số luôn biết kết hợp lòng hoài nghi đối với các chủ trương ‘chính thức’ về chân lý với lòng dễ tin (credulity) đối với bất cứ điều gì lôi cuốn họ về phương diện xúc cảm.
(13) Thẻ A chứa bốn đoản văn mô tả các loại kinh nghiệm tôn giáo hay tâm linh khác nhau. Đoản văn cuối cùng là kinh nghiệm của một người đang dạo bước trên một bãi biển, rồi một cách bất thường bỗng ‘cảm thấy một điều gì đó lớn hơn và tuyệt đối vượt quá tôi’. Đoản văn này không nhắc xa xôi chi tới một sự ‘Hiện Diện’.
(14) Về các kinh nghiệm tâm linh ‘nguyên khởi’ và chỗ đứng của chúng trong lý thuyết và phương pháp học của các tác giả, xin xem phúc trình trước đây của họ tựa là ‘Linh đạo nơi thiếu niên và người mới trưởng thành: một phương pháp nghiên cứu định chất’ ( ‘Spirituality in adolescence and young adulthood: A method for a qualitative study’), nay sắp được ấn hành trong International Journal of Children’s Spirituality. Trong đó, họ viết: ‘câu định nghĩa của chúng tôi về linh đạo cũng bao gồm các cách thế trong đó cuộc sống con người ta được lên khuôn nhờ các trực giác tiên niệm (pre-conceptual intuitions). Những cách thế này thường không được đem tới ý thức có suy nghĩ, bởi thế theo định nghĩa, người ta không nhận ra chúng để có thể trả lời các câu hỏi trực tiếp về chúng. Hai trong các phương pháp của các tác giả này (dùng các bức hình thuộc ‘ngôn ngữ hình ảnh’ và thăm dò các kinh nghiệm nguyên khởi) chính là để tìm cách khêu gợi các hiện tượng như thế. Các giả thuyết được nghiên cứu hỗ trợ của họ là thế này: các hiện tượng kia ẩn núp đâu đó ở vùng tranh tối tranh sáng (penumbra) của ý thức nhiều người…Trong nhiều lần tái duyệt nghị trình phỏng vấn, thay vì dùng các câu hỏi trực tiếp để hỏi về các kinh nghiệm siêu việt, các tác giả đã quyết định dựa nhiều vào các câu hỏi nhằm gợi lên được điều họ gọi là kinh nghiệm nguyên khởi, tức các biến cố thuộc nhận thức tâm linh đang còn phôi thai nhưng đã bị đẩy vào vùng tranh tối tranh sáng của ý thức, và trước đó chưa bao giờ được phản tỉnh, hay thiếu cả một khung giải thích.
Một ghi chú đã được duyệt lại trong lần tái bản phúc trình trên cho hay: ‘Duyệt xét lại nghị trình phỏng vấn sau dự án thăm dò, chúng tôi đã bước thêm một bước nữa: thay thế các câu hỏi này bằng bốn trình thuật ngắn mà chủ từ là ngôi thứ nhất cho thấy các kinh nghiệm loại này, lấy từ bài phân tích của Maxwell và Tchudin (1990) đối với các trình thuật từ văn khố Alister Hardy Centre chuyên Nghiên Cứu Các Kinh Nghiệm Tôn Giáo. Các tác giả bao gồm cả các kinh nghiệm ‘kính sợ’ (numinous) lẫn kinh nghiệm ‘huyền nhiệm’ (mystical) (trong các kinh nghiệm sau, bản ngã và siêu việt thể không được phân biệt rõ ràng, mà đúng hơn được cảm nghiệm như một hợp thể duy nhất; đến độ siêu việt thể mất hết thuộc tính xa cách, và thay vào đó đã được cảm nghiệm như là ‘nội tại’). Các tác giả mong rằng các đoản văn thực tế sẽ có tính khêu gợi nhiều hơn là các câu hỏi trước đây từng dùng’. Các kinh nghiệm ấy nằm trong các tấm thẻ đưa cho người được phỏng vấn. Chính bức hình ‘mê trận đường rầy xe lửa’ đã khơi lên cảm thức nơi Katherine về sự mù mờ phong phú của đời cô, ‘có mặt khắp nơi’, và cảm nghiệm thiên nhiên (đã miêu tả ở trên) đối với tấm thiệp được trao cho cô, một tấm thiệp đã giúp cô nhớ lại ‘cảm thức hiện diện’ cô thấy được khi đang đi dạo dọc bãi biển.
(15) Trong cuốn ‘The Heretical Imperative’ (1980), Peter L. Berger đã bàn đến một cách hết sức sâu sắc sự ưu tiên dành cho kinh nghiệm như là nguồn của nhận thức trong các xã hội kỹ nghệ hậu truyền thống này.
(16) ‘Trong các vấn đề quan trọng, ta hiểu không phải nhờ đơn giản hóa, nhưng nhờ biết khoan dung đối với điều nghịch lý’ (E.R.Goodenough, được trích dẫn trong Robinson (1977 p. 144).
(17) Tác phẩm cổ điển bàn đến sự bất hòa nhận thức là của Festinger (1957).