Chúa Nhật 4 MÙA CHAY. A
(Ga 9:1-41)
ÁNH SÁNG.


Chúng ta nhìn thấy được mọi sự chung quanh là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Nhờ qua cặp mắt sáng, chúng ta thấy sự hùng vĩ núi đồi, sông biển, sự cao siêu của vũ trụ, sự tuyệt vời của muôn vật và vẻ đẹp của thiên nhiên. Có được đôi mắt sáng là một hồng phúc Chúa ban. Đôi mắt là cửa sổ để chúng ta tiếp cận với thế giới bên ngoài.

Bài phúc âm nói về việc Chúa chữa người mù. Mù lòa thật khổ sở. Họ lần mò trong đêm tối. Không nhìn thấy chi cả. Họ bị thiệt thòi và mất mát quá nhiều. Chúa Giêsu đã chữa anh ta được sáng mắt. Sáng mắt cả thể xác lẫn tinh thần. Anh ta đã nhìn thấy rõ ràng minh bạch hơn cả những thầy Biệt Phái và Luật Sĩ. Anh ta nhìn thấy và tin vào Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhìn thấy sự tốt lành và quyền năng nơi Chúa.

Có nhiều thứ đêm tối chúng ta đang bước đi. Có thứ đêm tối của u mê, ánh sáng văn minh có đó, sách vở có đó, nhưng chúng ta lại mù chữ không hiểu. Có thứ đêm tối của đức tin. Chúng ta thấy đó có các tôn giáo, các sự kiện lạ lùng xảy ra hàng ngày, sự hiện hữu của Thiên Chúa trong vũ trụ, nhưng chúng ta không thấy và không tin. Tin là thái độ của phó thác và dấn thân.

Chúng ta có mắt sáng, nhưng có lúc chúng ta như mù hoặc giả mù. Chúng ta muốn nhắm mắt làm ngơ trước những khổ đau của người khác. Có nhiều hình thức mù lòa trong tâm hồn như ích kỷ, vô tâm, vô cảm và thiên kiến. Những thứ mù lòa này sẽ vây hãm cuộc đời chúng ta trong đêm tối.

Câu chuyện một gia đình Công Giáo nửa vời. Ba là người Công Giáo, mẹ là đạo thờ ông bà. Ba dần dần nguội lạnh thờ ơ. Cháu có ông nội bị mù. Thấy vậy, cháu đến đưa ông đi lễ mỗi tuần. Cháu không muốn đi nhà thờ, nhưng chỉ để giúp dắt ông đi thôi. Một ngày kia, dịp lễ Giáng sinh, như có lời mời gọi huyền nhiệm vang vọng trong tâm hồn. Cháu cố đi nhanh tới nhà thờ với cặp mắt thấm lệ. Cháu nói: Nội ơi, nay cháu thực sự tìm thấy Chúa. Chính nội đã dắt cháu đến với Chúa.

Chúa chính là ánh sáng đến trong trần gian. Chúa đã mở mắt người mù. Xin Chúa mở mắt tâm hồn của chúng ta để chúng ta được nhìn thấy công trình cứu độ của Chúa. Nhìn thấy những nhu cầu của anh em chung quanh. Xin cho con mắt linh hồn chúng ta luôn trong sáng để nhìn biết Chúa qua những người lầm than, nghèo khổ, bệnh tật, tù đầy, bất toại và mù lòa.

TUẦN 4 MÙA CHAY
THỨ HAI
Gioan 4: 43-54


Chúa Giêsu chữa cho người con trai của một quan chức bị đau liệt. Ông đã đến gặp Chúa và xin Chúa chữa cho con ông. Chúa Giêsu bảo ông: Ông hãy về đi, con ông sống đấy. Đây là sự thách thức của lòng tin. Ông quan chức muốn Chúa Giêsu đến và đặt tay trên đứa con của ông. Nghe lời Chúa phán, ông tin vào Chúa và trở về nhà. Vào giờ đó, con ông đã khỏi bệnh. Ông đã tin vào Chúa.

Chúa Giêsu chữa các bệnh tật bằng nhiều cách khác nhau. Khi thì Chúa đặt tay trên người bệnh, khi thì Chúa sai đi làm một việc gì như người mù đến giếng rửa mắt và người cùi đến trình diện với tư tế. Có người chỉ sờ tới gấu áo của Chúa, bệnh loạn huyết biến mất. Có khi Chúa chỉ phán một lời thì đã lành bệnh. Từ con người của Chúa có một sức siêu nhiên ngoại thường. Đây chính là dấu chỉ quyền năng nơi Chúa Giêsu bắt nguồn từ Thiên Chúa.

Muốn được ơn chữa lành, cần nhất là có đức tin. Tin tuyệt đối vào quyền năng của Chúa. Dân chúng vây quanh Chúa, họ chứng kiến rất nhiều phép lạ nhưng sao nhiều người vẫn không tin. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và niềm cậy tin quá yếu.

Chúng ta hãy chạy đến với Chúa và đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Ngoài Chúa ra, không còn thần nào khác.

THỨ BA
Gioan 5: 1-3a. 5-16


Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát lại làm cho người Do Thái cảm thấy khó chịu. Họ không nhìn thấy ân huệ Chúa ban cho người bị liệt lào đã ba mươi tám năm. Dân chúng chỉ muốn chu toàn luật ngày Sabát một cách máy móc. Họ đâu quan tâm đến nỗi khổ của người bị bại liệt. Đáng lẽ ra họ phải vui mừng và chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa.

Chúa Giêsu gặp người đau yếu và hỏi cho biết cớ sự. Chúa thấu tỏ tâm hồn của ông, đã 38 năm chờ đợi không ai giúp đỡ. Ông vẫn kiên trì chờ đợi cơ hội xuống tắm hồ để được lành bệnh. Sau khi trao đổi câu truyện, Chúa nói với ông: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà đi. Ông vui sướng vác chõng ra về.

Anh vác chõng ra về vào ngày Sabát là không được phép. Dân chúng không cần biết sự gì xảy ra cho anh, họ chỉ nghĩ anh đã phạm luật ngày Sabát. Và họ đã đả kích Chúa Giêsu. Lòng hẹp hòi của con người đối với tha nhân là thế. Họ thiếu đi lòng nhân đạo của tình người. Họ đã không nhận ra quyền năng của Chúa mà họ còn phiền trách Chúa vì Chúa yêu thương con người bệnh hoạn liệt lào.

Hãy đến với Chúa, hỡi những ai gồng gánh nặng nề, Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và tin yêu Chúa. Chúa chính là nơi chúng con nương tựa là chỗ chúng con cậy trông.

THỨ TƯ.
Gioan 5: 17-30


Chúa Giêsu chính là Con Một của Chúa Cha. Tất cả Kinh Thánh đều qui về Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là hình ảnh của Chúa Cha. Ngài xuống trần để mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: Quả thật, tôi bảo các ông: Ai nghe lời tôi và tin Đấng sai tôi, thì có sự sống đời đời.

Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để dẫn dắt con người về với Thiên Chúa nhưng con người cũng có nhiều cách để chối từ Ngài. Chúa Giêsu đã dùng lời giảng dạy, thực hiện các phép lạ và cư xử nhân hậu với mọi người nhưng nhiều người vẫn không nhận ra sứ mệnh Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu cứ tiếp tục đem ánh sáng chân lý vào nơi tối tăm của lòng con người. Ngài làm việc luôn và không chán nản. Ngài hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha.

Chúa Giêsu ra rao giảng vỏn vẹn ba năm. Ngài đã chuẩn bị 30 năm âm thầm và sống ẩn dật nơi vùng quê. Ba mươi năm đó, Chúa Giêsu đã học hỏi những kinh nghiệm sống và cách hành xử ở đời. Chúa dùng ba năm để rao giảng chân lý nước trời. Ngài đã hoàn tất mọi sự theo thánh ý Chúa Cha. Lời của Ngài được truyền lại từ đời này đến đời kia. Ánh sáng chân lý cần được tỏa lan đến mọi nơi.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài khắp mọi nơi. Ngài chính là đường, là sự thật và là sự sống.

THỨ NĂM
Gioan 5: 31-47


Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng: Nếu tôi làm chứng về mình, thì chứng của tôi không xác thực. Chúa Giêsu phải chứng minh sứ mệnh của mình với người đương thời. Người ta lắng nghe lời tin mừng, họ chứng kiến các sự lạ, họ đi theo Chúa nhưng hình như có một khoảng cách nào đó. Người ta không thể suy nghĩ người mà họ đang chung đụng lại là Con Thiên Chúa.

Mầu nhiệm nhập thể vượt trên tất cả những suy nghĩ và dự tính của con người. Bởi thế người ta vẫn bị hụt hẫng khi đối diện với con người của Chúa Giêsu. Chúa nói về Gioan Tẩy Giả, ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Gioan là đèn cháy sáng và nhiều người đã vui mừng nhất thời trong ánh sáng của ông. Khi Chúa Giêsu hỏi họ: Vậy chứng của Gioan bởi trời hay bởi người ta. Họ đã không trả lời được.

Chúa Giêsu không cần chứng của người phàm, Ngài có chứng cớ cao trọng hơn chứng cớ của Gioan. Chính Cha của Ngài làm chứng về Ngài. Chứng của Chúa Giêsu chính là những việc Ngài đã thực hiện. Nhìn quả thì biết cây. Chúng ta nhìn những việc Chúa thực hiện, chúng ta biết Ngài bởi trời mà xuống.

Phúc âm của thánh Gioan dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm của Con Thiên Chúa. Ngài đã xuống thế làm người. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Lạy Chúa, con tin Chúa.

THỨ SÁU
Gioan 7: 1-2. 10: 25-30


Bước gần đến những ngày cuối của mùa chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe những đoạn phúc âm nói về các diễn tiến của các nhà lãnh đạo tôn giáo tìm cách bắt và giết Chúa Giêsu. Sự ganh ghét và chống đối Chúa đã lên cao độ. Các phe nhóm trong đạo đã bàn kế hoạch để diệt trừ Chúa Kitô.

Chúa Kitô biết những âm mưu của họ nhưng thời gian chưa tới. Chúa Giêsu không xuất hiện nhiều ở Giuđêa, Ngài đi lại trong xứ Galilêa. Tuy nhiên, Ngài không trốn tránh hay chạy trốn. Ngài quyết định về thành dự Lễ Lều của người Do Thái. Hằng năm, người Do Thái trở về Giêrusalem mừng Lễ Lều để tạ ơn và thờ phượng Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng quyết định đi Giêrusalem, Ngài dũng cảm đối diện với những thử thách. Chúa Giêsu không bỏ lỡ cơ hội nào mà không tiếp tục giảng dạy. Các phe nhóm đã âm thầm cấu kết để luận tội Chúa. Chúa vào đền thờ và lớn tiếng nói rằng: Tôi không tự mình mà đến, nhưng Đấng sai tôi là Đấng chân thật mà các ông không biết. Còn tôi, tôi biết Ngài, bởi vì tôi từ Ngài mà đến.

Dân chúng vẫn không hiểu Chúa Giêsu nói gì. Họ càng căm tức vì đầu óc và trái tim của họ bị thiên kiến và trì độn. Lạy Chúa, xin soi dọi ánh sáng chân lý của Chúa vào tâm hồn chúng con, để chúng con nhận ra mầu nhiệm ơn cứu độ.

THỨ BẢY
Gioan 7: 40-53


Dư luận đã xôn sao về việc lên án Chúa Giêsu. Có những phân rẽ giữa dân chúng, một số người tin vào Chúa Giêsu và sự giảng dạy của Ngài. Cũng có một số bất mãn và chống đối Chúa. Những tranh luận sôi nổi về nguồn gốc và sứ mệnh rao giảng của Chúa. Có người nói rằng: Người này thật là một vị tiên tri. Người khác lại nói: Người này là Đức Kitô.

Họ tra cứu về nơi xuất thân và dòng dõi của Chúa nhưng không ai biết rõ. Trong đó cũng có người muốn bắt Chúa nhưng không ai dám ra tay. Còn các thượng tế và biệt phái đã dứt khoát diệt trừ Chúa. Họ tìm mọi lý chứng để cáo gian và buộc tội Chúa. Chúng ta cũng không nên vơ đũa cả nắm. Trong nhóm biệt phái cũng có người còn lòng đạo như ông Nicôđêmô. Ông không muốn kết tội người nào nếu không nghe người ấy nói hay nếu không hiểu rõ việc người ấy làm.

Nhiều người bị lôi cuốn vào vòng dư luận và thổi phồng dư luận. Có nhiều người vẫn chịu ơn Chúa, nay cũng quay lưng lại với Chúa. Họ không nắm vững lập trường và có phần vì sợ các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính quyền. Phần vì sợ mất địa vị hay lợi lộc.

Đúng thật không dễ gì nhận ra chân dung đích thực và căn tính của Chúa Giêsu. Dân chúng bị phân rẽ vì quyền lực thế gian áp đảo. Xin Chúa cho chúng con ơn khôn ngoan để xét xử mọi việc trong ánh sáng của Chúa.