1. Hàng trăm người dầm mưa lần hạt Mân Côi tại Sydney

Trong video, tổng giáo phận giải thích rằng đã có hơn 100 người đàn ông tụ tập bên ngoài nhà thờ chính tòa Đức Bà ở Sydney để cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi trong gần một giờ đồng hồ. Đó là một chứng tá tuyệt vời cho đức tin, và còn gây ấn tượng mạnh hơn nữa khi xét đến điều kiện thời tiết đặc biệt xấu.

Đa số những người đàn ông quỳ gối, mặc áo mưa và cầm dù. Họ dường như không lo lắng gì trước cơn mưa lớn như trút nước, và bất chấp mọi tiếng ồn, lòng sùng kính sâu sắc của họ chắc chắn sẽ được nghe thấy bởi Đức Trinh Nữ.

Cuộc Thập tự chinh Mân Côi của họ diễn ra vào thứ Bảy đầu tiên của mỗi tháng và thật thú vị khi thấy có bao nhiêu người đàn ông tụ tập vào tháng Bảy này, mặc dù họ biết rằng họ sẽ bị ướt sũng.

Và những nỗ lực của họ đã được đánh giá cao bởi tất cả những người xem video, với một người dùng Facebook, Jennifer Pierno, bình luận:

“Tôi đã nhìn thấy họ. Trời mưa như trút nước và họ kiên trì với nhiệm vụ của mình. Những người đàn ông tuyệt vời. Cảm ơn các bạn. Các bạn là nguồn cảm hứng trong một xã hội chán chường”.

Tổng giáo phận cũng chia sẻ những lợi ích của video đã được xem hơn một triệu lần trên toàn thế giới. Trong một bài báo của Debbie Cramsie cho Tuần báo Công Giáo, Giám đốc Trung tâm Phúc âm hóa Tổng giáo phận Sydney, Daniel Ang, đã chia sẻ:

“Chúa thực sự hiện diện trong cuộc sống của chúng ta và trong thành phố của chúng ta. Một số người có thể chùn bước trước cảnh tượng như vậy, nhưng phản ứng mà nó gợi ra đã nói lên sức mạnh của chứng tá Kitô. Thấy những người đàn ông định hướng cuộc sống của họ không chỉ bằng sức mạnh của cảm giác hay sự thoải mái mà bởi những gì họ trân trọng là một chứng tá và đặt ra câu hỏi về những gì chúng ta cống hiến cho bản thân, những gì chúng ta tin là nguồn gốc và kết thúc của cuộc đời mình.”

Cramsie giải thích thêm rằng cuộc Thập tự chinh Mân Côi hàng tháng ra đời nhờ một phong trào quốc tế cầu xin Đức Mẹ bảo vệ gia đình của họ.

Ivica Kovac, trong Ủy ban Đời sống, Hôn nhân và Gia đình của Tổng giáo phận Sydney, chỉ ra rằng nam giới thường miễn cưỡng thể hiện đức tin của mình trước công chúng. Tuy nhiên, video đã lan truyền có vẻ là một thực tế ngược lại. Nó sẽ được nhìn thấy trên toàn thế giới và có thể truyền cảm hứng cho những người đàn ông khác lần chuỗi Mân Côi.

“Những người đàn ông có đức tin rất thích chia sẻ 'tin mừng' với người khác nhưng thường miễn cưỡng không muốn công khai điều đó, vì vậy Cuộc Thập tự chinh Mân Côi của những người đàn ông đang cung cấp cho chúng ta một con đường tuyên xưng đức tin một cách công khai và yêu thương nhất bằng cách cầu nguyện cho những người thân yêu của chúng ta, cộng đồng, đất nước và Giáo Hội bất kể điều kiện bên ngoài như thế nào.

Và chính những kiểu thể hiện đức tin này đã cho thế giới thấy niềm vui và sức mạnh của việc đồng lòng cầu nguyện.

2. Biết Nhờ Tin Nhân Chứng Linh

Mở đề

Mỗi năm, chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Thánh Tôma Tông đồ ngày 03 tháng 7. Trong bài Tin Mừng chúng ta nghe dịp đó (Ga 20,24-29: Chúa Phục sinh hiện ra cho Tôma), câu đáng chú ý nhất có lẽ là câu Chúa nói với ngài: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).

Là tín hữu trong Hội thánh, chúng ta thường nghe nói đến chuyện tin Chúa, tin đạo. Rồi còn được nhắc nhở: dù không thấy cứ nhắm mắt mà tin, dù không hiểu cứ cúi đầu mà tin. Điều đó khiến chúng ta đôi khi bực mình, có lúc mặc cảm trước kẻ ngoại đạo, cảm thấy như Chúa áp bức tự do của những ai theo Người, không cho Kitô hữu suy nghĩ tìm hiểu.

Trước hết phải nói ngay: tin là điều bình thường trong cuộc sống. Lúc nhỏ chúng ta tin cha mẹ, bắt đầu đi học chúng ta tin thầy giáo, đau bệnh chúng ta tin bác sĩ… Tin những gì họ nói với chúng ta. Có hai lý do để chúng ta tin cha mẹ, thầy giáo, bác sĩ… Một là vì họ thương mến hay ít nhất tử tế đối với chúng ta, hai là vì họ thành thật, nói cho ta điều họ nghĩ rằng mình biết hay làm cho ta điều họ nghĩ rằng mình thạo, hoặc ít nhất chúng ta cho là như vậy. Khi lớn lên hoặc với thời gian, chúng ta sẽ kiểm chứng những gì họ đã nói và làm, vì có khi họ đã sai lầm hay đã lừa gạt (chuyện các thần y dổm bị vạch mặt là một ví dụ).

Hiểu biết sự thật

Điều đó đặt chúng ta trước một vấn đề quan trọng của cuộc sống, đó là vấn đề hiểu biết sự thật. Có mấy loại sự thật? Có mấy cách hiểu biết? Cái gì chứng minh cho loại sự thật đó? Hay nói cách khác, chúng ta hiểu biết sự thật dựa trên bằng chứng nào?

1- Thưa trước hết, chúng ta biết bằng giác quan, ngũ quan: mắt thấy, tay sờ, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm. Cách hiểu biết này có đối tượng là vật chất, thực tại vật chất, những gì liên quan tới thế giới hữu hình chung quanh chúng ta. Đây là lãnh vực mà người ta gọi là khoa học, chuyên khám phá và mô tả bản tính mọi loài, để tìm ra định luật trong vật thể, sự thật của vật thể. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi ta phải có ngũ quan tốt và máy móc tốt. Chuyện nhiều thầy bói mù sờ voi là một ví dụ minh họa. Bằng chứng ở đây được gọi là vật chứng. Có vật chứng thì hẳn biết rõ, có vật chứng thì phải chấp nhận. Cũng xin lưu ý rằng khoa học không bao giờ ra khỏi giới hạn này cả, nên tự nó chẳng bênh cũng chẳng chống thuyết vô thần hay thuyết hữu thần.

2- Cách biết thứ hai là biết bằng lý luận, nghĩa là bằng đầu óc suy nghĩ, tìm ra sự liên hệ giữa nhiều thực tại, dựa trên một vài nguyên tắc cơ bản, chẳng hạn nguyên tắc nhân quả (có quả tức phải có nhân, có tác phẩm ắt phải có tác giả…)… Và đây là lãnh vực mà người ta gọi là triết học, chuyên tìm hiểu và giải thích mối liên hệ giữa những hữu thể, những hiện tượng, hoặc đi từ cái mình thấy đến cái mình không thấy, để rút ra một kết luận. Bằng chứng ở đây được gọi là lý chứng. Ví dụ thấy tác phẩm biết có tác giả; thấy đồng hồ biết có thợ làm đồng hồ; thấy tạo vật tốt đẹp biết có Tạo hóa tài ba, thấy định luật trong trời đất và trong lương tâm thì biết có Đấng lập luật, lý luận ra có Đấng lập luật; thấy nơi loài người có sự hiểu biết bao la, vượt thời gian không gian, có trái tim vĩ đại, yêu người đến độ hy sinh chính mình, thì biết có hồn thiêng, lý luận ra rằng có hồn thiêng. Đừng đặt vấn đề tin ở đây, như nhiều giáo lý viên hay hạch hỏi giáo lý sinh rằng: “Các em tin có Chúa không, tin có linh hồn không?” Lý luận thì biết là có, cần gì phải tin rằng có. Người lương cũng biết có hồn thiêng, có Ông Trời mà! Điều kiện cần ở đây là có một lý trí lành mạnh và lương tâm trong sáng. Đừng như kẻ duy vật vô thần, tiên thiên (=ngay từ đầu) phủ nhận Thiên Chúa rồi nói: tạo vật tự nhiên chuyển động, tự mình biến hóa, chẳng cần có Trời làm ra, hơn nữa chẳng thấy Ổng đâu cả! Họ đánh đồng, lẫn lộn mô tả với giải thích.

Một ví dụ khác: Làm sao biết sách Tin Mừng nói thật? Dĩ nhiên là không thể dựa vào vật chứng. Có đâu mà dựa! Nhưng nhờ lịch sử, chúng ta biết sách Tin Mừng đã được viết bởi các Tông đồ và môn đệ Đức Giêsu, tức những người đã thấy Chúa. Khi họ khởi thảo thì vẫn còn sống rất nhiều người từng nghe và thấy Chúa giảng dạy, tử nạn, phục sinh. Các sách Tin Mừng lại được viết giữa một cộng đoàn có tổ chức, có kỷ luật (Giáo hội sơ khai). Những điều ấy cho thấy là không thể viết thêm, viết bậy, viết bịa. Các Tông đồ và môn đệ Chúa lại không trục lợi nhờ những điều lạ lùng kỳ diệu trong Tin Mừng, hay là nhờ tổ chức các cộng đoàn Kitô hữu. Trái lại các ngài đã bỏ mọi sự, chịu gian khổ, vượt chông gai, đi khắp nơi rao giảng nội dung Tin Mừng, cuối cùng lấy sinh mạng để làm chứng cho những gì mình đã thấy, đã ghi, đã truyền lại. Và rồi, từ nhóm nhỏ các ngài, một Giáo hội đã khai sinh, lớn lên và phát triển khắp hoàn cầu như ta thấy hôm nay. Như thế, nhờ cách lý luận vừa đưa ra, tức là nhờ lý chứng, chúng ta biết sách Tin Mừng nói thật.

3- Có cách biết thứ ba, sâu xa hơn, liên quan đến tâm linh, tinh thần, đến các thực tại tâm linh, các hữu thể tinh thần. Tôi chỉ biết người khác nghĩ gì, cảm gì khi chính họ tỏ cho tôi biết. Vì những tư tưởng, tình cảm nằm trong linh hồn: trong trái tim, trong óc não, không thể biết bằng giác quan, bằng dụng cụ khoa học như điện tâm đồ (electrocardiogram), điện não đồ (electroencephalogram) vốn chỉ cho biết tim hay não hoạt động nhiều hay ít, mạnh hay nhẹ thôi, hoặc là bằng lý luận, suy diễn, mà chỉ biết được nhờ đương sự đích thân bày tỏ, còn người nghe chỉ có việc tin vào. Nhưng chỉ có sự bày tỏ lòng mình với hai điều kiện: bản thân người thổ lộ cảm nghĩ đúng đắn và chân thành yêu mến kẻ được thổ lộ. Thông thường, đó là khi bạn bè tâm sự với nhau. Sâu xa hơn, khi vợ chồng bày tỏ ý tình cho nhau. Cao hơn nữa, đó là việc những tín đồ có cảm nghiệm tâm linh đích thực với Đấng Tuyệt đối và rồi nói lên cho người khác hay. Bằng chứng ở đây được gọi là nhân chứng, xuất phát từ chứng nhân. Dĩ nhiên chứng nhân cũng có thể là người (hay nhiều người) duy nhất chứng kiến một sự việc và rồi kể lại, nhưng chứng từ này không phải là vấn đề tâm linh, kinh nghiệm tâm linh (tư tưởng, tình cảm).

Nhân chứng kinh nghiệm tâm linh càng mang tính thuyết phục khi được củng cố bằng cuộc sống trở nên đạo hạnh nhờ đó và nhất là bằng cái chết cam chịu anh dũng vì đó. Trong Kitô giáo, đấy là cảm nghiệm thần bí (gặp gỡ, giao tiếp với Thiên Chúa cách sống động trong tâm hồn) mà ta thấy nơi ông Môsê, nơi vua Đavít, nơi các ngôn sứ Cựu Ước... Sang thời Tân Ước, nơi Đức Mẹ, Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông đồ và nhiều môn đệ Chúa. Trong lịch sử Giáo hội thì là các hiển thánh, nhất là những vị đã được ban cho ơn thần nghiệm và những tín hữu có đời sống đức tin sâu đậm. Tất cả họ đều tiếp xúc với thế giới tinh thần tuyệt đối là chính Thiên Chúa và đã được Người bày tỏ (tiếng chuyên môn gọi là mạc khải) cho nhiều điều. Các ngài đã tin Thiên Chúa rồi tỏ lộ kinh nghiệm ấy lại cho chúng ta, để chúng ta tin vào các ngài và từ đó tin vào Thiên Chúa. Tất cả các ngài đã củng cố chứng từ của mình bằng cuộc sống thánh thiện, bằng gian khổ triền miên và phần lớn bằng cái chết anh dũng. Đó là lãnh vực mà người ta gọi là thần học.

Nhưng chứng nhân số một chính là Đấng mà Tin mừng Gioan 1,18 đã nói: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”. Chính Chúa Giêsu cũng xác nhận như thế với các Tông đồ trong Diễn từ giã biệt: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Rồi để làm chứng cho lời mình nói là chân thật, Chúa đã chịu chết đau khổ. Và cũng để làm chứng cho lời mình nói là hữu hiệu, Chúa đã phục sinh vinh quang.

Vậy Chúa Giêsu đã bày tỏ những gì từ Thiên Chúa, mạc khải những gì cho chúng ta? Thưa đó là những điều mà giáo lý gọi là “mầu nhiệm”. Trên hết là mầu nhiệm một Chúa ba Ngôi, tiếp đến là mầu nhiệm Nhập thể (Ngôi Con làm người), mầu nhiệm Chúa tử nạn phục sinh, mầu nhiệm Giáo hội như Thân thể Đức Kitô, mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm Đức Mẹ đồng trinh…. Như thế, theo những gì nói trên kia, có thể cho rằng các mầu nhiệm chính là những nỗi lòng của Thiên Chúa, những tâm sự về gia đình Thiên Chúa mà Ngôi Con bày tỏ với loài người, như giữa bạn bè với nhau; vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15). Đó cũng là những tâm sự mà Chúa Kitô ngỏ với Giáo hội, như giữa vợ chồng. Ta chẳng nhớ Chúa Giêsu tự gọi mình là Hôn phu và Giáo hội là Hôn thê sao? Và mỗi một tâm hồn tín hữu chẳng được gọi là Bạn tình của Chúa Kitô sao?

Dĩ nhiên những gì Ngôi Con mạc khải về Thiên Chúa thì thâm sâu, khó hiểu. Chuyện đó chẳng có chi lạ. Ngay cả những điều thuộc thế giới, vũ trụ hữu hình thì cũng đã thâm sâu, khoa học tới nay vẫn chưa khám phá ra hết, nên được gọi là bí nhiệm. Những gì ở trong tâm hồn con người càng thâm sâu hơn, vợ chồng với nhau cả đời cũng chưa chắc đã hiểu lòng nhau, bạn bè lâu năm tri kỷ cũng chưa hẳn đã thấu tâm nhau, vì thế mà triết học hiện sinh gọi tâm hồn mỗi người là một huyền nhiệm. Huống chi là những điều thuộc về tâm lòng, thế giới Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mạc khải các mầu nhiệm để thách thức óc não, đánh đố suy nghĩ của nhân loài. Nghĩ như thế là tội cho Người quá! “Mầu nhiệm chẳng phải là một bức tường cho trí tuệ bể nát khi đụng vào, mà là một đại dương trong đó trí tuệ bị mất hút luôn” (G. Thibon). Một đại dương tình yêu bao la, một nỗi lòng thiết tha sâu thẳm.

Quả thế, mầu nhiệm Ba Ngôi cho chúng ta thấy Thiên Chúa của Ki-tô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Người là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Người là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa. Và tình yêu đó tràn ra qua việc Người dựng nên muôn vật hữu hình và vô hình. Mầu nhiệm Nhập thể cho thấy Thiên Chúa đã hóa nên người phàm để ở với nhân loại và để cứu chuộc nhân loại, như đòi hỏi của tình yêu nơi Người, là không để tạo vật của Người bơ vơ trên cõi thế, khốn đốn vì tự do và đi vào cõi hư vô tuyệt diệt. Mầu nhiệm Giáo hội cho thấy Thiên Chúa muốn kết hợp tất cả thụ tạo hữu hình và vô hình (từ thiên thần đến loài người và muôn vật) trong một Thân Thể vĩ đại mà Đức Kitô phục sinh là đầu và mọi thụ tạo khác là thành phần, là chi thể, để hết thảy trở về với Thiên Chúa, Nguồn gốc và Cùng đích, như mong ước vĩ đại của tình yêu là tất cả nên một. Mầu nhiệm Thánh Thể cho thấy Chúa Kitô Phục sinh ở với chúng ta mọi nơi và mọi lúc cách hữu hình nhờ Mình Máu Người. Mình Máu ấy duy trì nơi ta sự sống thần linh, liên kết chúng ta với Thiên Chúa và chúng ta với nhau, để từ đó xây dựng nên Thân Thể mầu nhiệm của Người. Đó chẳng phải là bản chất của tình yêu hay sao? Các mầu nhiệm khác cũng mang ý nghĩa tương tự…

Kết luận:

Như thế, sự hiểu biết nhờ tin vào mạc khải từ lòng con người, và đặc biệt trong Kitô giáo, nhờ tin vào mạc khải từ lòng Thiên Chúa, chính là kiểu hiểu biết mang tính sâu xa nhất, nhân bản nhất, vì có thể giúp tạo ra ý nghĩa cho kiếp sống, hướng đi cho cuộc đời. Kitô hữu hạnh phúc khi tin vào Thiên Chúa vì Người không sai lầm cũng chẳng lừa gạt chúng ta. Những gì Người mạc khải cho chúng ta xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, có nội dung: Thiên Chúa là Tình Yêu, một sự thật cao vời, bao trùm mọi sự thật.

Trở lại với câu chuyện Tôma, chúng ta thấy vị Tông đồ này đã lần lượt trải qua 3 thứ hiểu biết với 3 bằng chứng: 1- thấy Chúa liền nhận ra vị Thầy mình đã sống với suốt 3 năm. 2- nhìn vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Thầy, suy ra rằng Thầy đã thực sự sống lại. 3- được sự soi sáng, được ơn mạc khải (như Phêrô ở Mt 16,17), cuối cùng tin nhận và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

3. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 10 tháng 7

Chúa Nhật 10 tháng 7, Giáo Hội cử hành Chúa Nhật thứ 15 Mùa Thường Niên.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giêsu mới đứng lên hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”

Đức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samaritanô kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’

Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”

Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Bài Tin Mừng của Phụng vụ hôm nay thuật lại dụ ngôn Người Samaritô nhân hậu (x. Lc 10:25-37) – mà chúng ta đều biết. Trong bối cảnh là con đường đi từ Giêrusalem đến Giêricô, trên con đường đó, một người đàn ông đã bị một bọn cướp đánh đập dã man và cướp bóc. Một tư tế đi ngang qua nhìn thấy anh ta nhưng không dừng lại; tư tế ấy tiếp tục đi. Một người Lêvi, phục vụ trong đền thờ, cũng làm như thế. Phúc Âm cho biết “Nhưng một người Samaritanô kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương”(c. 33). Chúng ta đừng quên từ này - “anh đã động lòng thương người ấy”. Đây là điều mà Thiên Chúa cảm thấy mỗi khi Ngài thấy chúng ta đang gặp khó khăn, khi chúng ta phạm tội, khi chúng ta đang gặp đau khổ. “Anh đã động lòng thương người ấy”. Thánh Sử chỉ rõ rằng người Samaritanô đang trong một cuộc hành trình. Như thế, mặc dù đã có kế hoạch riêng và đang hướng đến một đích đến xa xôi, nhưng người Samaritanô không viện cớ đó mà cho phép mình lảng tránh, anh ta tham gia vào những gì đã xảy ra trên đường. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này: không phải Chúa dạy chúng ta làm điều đó sao? Nhìn về phía xa, đến điểm đến cuối cùng của chúng ta, đồng thời chú ý đến các bước cần thực hiện ở đây và bây giờ để đến được đó.

Điều quan trọng là những Kitô hữu đầu tiên được gọi là “môn đệ của Con Đường” (xem Công vụ 9: 2). Trên thực tế, môn đệ rất giống người Samaritanô – cũng như anh ta, môn đệ đang trong một cuộc hành trình, là một người trẩy đi xa. Người tín hữu biết mình chưa “đến nơi”, nhưng muốn học hỏi mỗi ngày, theo Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14: 6), “Ta là đường”. Môn đệ của Chúa Kitô cùng bước theo Ngài và do đó trở thành “môn đệ của Con Đường”. Người đó đi theo sau Chúa, không thụ động, không, nhưng luôn đi trên đường. Trên đường đi, người đó gặp gỡ mọi người, chữa lành bệnh tật, thăm các làng mạc và thành phố. Đây là những gì Chúa đã làm, Ngài luôn di chuyển.

Do đó, “môn đệ của Con Đường”, tức là những tín hữu Kitô chúng ta, nhận thấy rằng cách suy nghĩ và hành động của mình dần dần thay đổi, ngày càng trở nên phù hợp với lối sống của Thầy hơn. Bước đi theo bước chân của Chúa Kitô, người môn đệ trở thành một người đi đường và - giống như người Samaritanô - học cách nhìn và có lòng trắc ẩn. Anh ta nhìn thấy và có lòng trắc ẩn đối với tha nhân. Trước hết, cần thấy rằng: đôi mắt của những người môn đệ Chúa đang mở ra với thực tế, chứ không phải khép kín một cách ích kỷ vào vòng xoáy của những suy nghĩ riêng mình. Trái lại, thầy tư tế và người Lê vi nhìn thấy người đàn ông bất hạnh, nhưng họ đi ngang qua như không thấy anh ta, họ nhìn theo hướng khác. Tin Mừng dạy chúng ta cách nhìn - Tin Mừng dẫn dắt mỗi người chúng ta hiểu đúng về thực tế, vượt qua những định kiến và chủ nghĩa giáo điều mỗi ngày, vì có nhiều tín hữu đã ẩn náu đằng sau những giáo điều để tự bảo vệ mình khỏi thực tế. Bên cạnh đó, Tin Mừng cũng dạy chúng ta theo Chúa Giêsu, bởi vì Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có lòng trắc ẩn - nhìn thấy và có lòng trắc ẩn - trở nên ý thức về người khác, đặc biệt là những người đau khổ, những người đang gặp khó khăn, và can thiệp như người Samaritanô, không tỉnh bơ đi ngang qua nhưng phải dừng lại.

Đối mặt với câu chuyện ngụ ngôn Phúc Âm này, chúng ta có thể đổ lỗi cho người khác hoặc đổ lỗi cho chính mình, chỉ tay về phía người khác, so sánh họ với thầy tư tế hoặc người Lê vi “Người đó, người đó tiếp tục, người đó không dừng lại…” - hay thậm chí là tự trách mình, kể lể thất bại của bản thân không chú ý đến những người xung quanh. Nhưng tôi muốn đề xuất một loại bài tập khác cho tất cả anh chị em, không phải loại bài tập tìm ra lỗi, không. Chắc chắn, chúng ta phải nhận ra khi nào chúng ta đã vô tâm và đã tự biện minh cho mình. Nhưng chúng ta đừng dừng lại ở đó. Chúng ta phải thừa nhận điều này, đó là một sai lầm. Nhưng chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta vượt qua sự thờ ơ ích kỷ của mình và đặt mình trên Con đường. Chúng ta hãy xin Chúa cho được nhìn thấy và động lòng thương, đây là một cơ duyên. Chúng ta cần cầu xin Chúa, “Lạy Chúa, xin cho con có thể nhìn thấy, để con có thể có lòng nhân ái giống như Chúa nhìn thấy con và thương xót con”. Đây là lời cầu nguyện mà tôi gợi ý cho anh chị em ngày hôm nay. “Lạy Chúa, xin cho con có thể nhìn thấy và có lòng thương xót giống như Chúa nhìn thấy con và có lòng thương xót đối với con” - để chúng ta có thể thương xót những người chúng ta gặp trên đường đi, trên hết là những người đau khổ và thiếu thốn, để đến gần họ và làm những gì chúng ta có thể làm để giúp họ một tay. Nhiều khi có một số Kitô hữu đến nói với tôi về những điều tâm linh, tôi hỏi họ có bố thí không. “Có”, người đó nói với tôi.

“Vậy, nói cho tôi biết, bạn có chạm vào tay của người mà bạn đã đưa tiền không?”

“Không, không, con ném tiền xuống đó.”

“Và bạn có nhìn vào mắt người đó không?”

“Không, điều đó không hề thoáng qua trong tâm trí con.”

Nếu bạn bố thí mà không chạm đến thực tế, không nhìn vào mắt người cần, thì những bố thí đó là cho bạn, chứ không phải cho người đó. Hãy nghĩ về điều này. Tôi có chạm vào sự khốn khổ, thậm chí là sự khốn cùng mà tôi đang giúp đỡ không? Tôi có nhìn vào mắt những người đau khổ, những người mà tôi giúp đỡ không? Tôi để lại cho anh chị em suy nghĩ này - để nhìn thấy và có lòng trắc ẩn.

Xin Đức Trinh Nữ Maria đồng hành với chúng ta trên hành trình trưởng thành này. Xin Mẹ, Đấng “chỉ cho chúng ta Con Đường”, tức là Chúa Giêsu, giúp chúng ta ngày càng trở thành “môn đệ của Con Đường”.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Tôi hiệp nhất với nỗi buồn của người dân Sri Lanka, những người tiếp tục phải chịu những tác động của bất ổn chính trị và kinh tế. Cùng với các Giám mục của đất nước, tôi tái kêu gọi hòa bình và tôi khẩn cầu những người có thẩm quyền đừng bỏ qua tiếng kêu của người nghèo và những nhu cầu thiết yếu của người dân.

Tôi muốn gửi một suy nghĩ đặc biệt tới người dân Libya, đặc biệt là những người trẻ tuổi và tất cả những ai đang phải chịu đựng những vấn đề kinh tế và xã hội nghiêm trọng ở đất nước này. Tôi kêu gọi mọi người luôn tìm kiếm những giải pháp thuyết phục mới với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, thông qua đối thoại mang tính xây dựng và hòa giải dân tộc.

Tôi lặp lại sự gần gũi của mình với những người dân Ukraine, những người đang hàng ngày bị dày vò bởi những cuộc tấn công tàn bạo mà những người dân bình thường đang phải trả giá. Tôi cầu nguyện cho tất cả các gia đình, đặc biệt là cho các nạn nhân, những người bị thương, những người bị bệnh. Tôi cầu nguyện cho người già và trẻ em. Xin Chúa chỉ ra con đường để chấm dứt cuộc chiến vô nghĩa này.

Ngày Chúa Nhật Biển đang được tổ chức vào ngày hôm nay. Chúng ta hãy ghi nhớ tất cả những người đi biển với lòng kính trọng và biết ơn đối với công việc quý báu của họ, cũng như các tuyên úy và tình nguyện viên của “Stella Maris” – “Ngôi Sao Biển”. Tôi phó thác cho Đức Mẹ những người đi biển bị mắc kẹt trong vùng chiến sự để họ có thể trở về nhà.

Tôi chào nhóm đến từ Trường Cao đẳng São Tomás từ Lisbon, và các tín hữu từ Viseu, Bồ Đào Nha; dàn hợp xướng “Siempre Así” từ Tây Ban Nha; các bạn trẻ đến từ Tổng giáo phận Berlin và các ứng viên Thêm sức từ Bolgare miền Bergamo. Tôi gửi lời chào đến những người hành hương Ba Lan cũng như những người đang tham gia cuộc hành hương hàng năm của các gia đình từ Đài Maria đến Đền Częstochowa. Tôi chào các linh mục đến từ các quốc gia khác nhau, những người đang tham gia khóa học dành cho các nhà đào tạo chủng viện do Istituto Sacerdos của Rôma tổ chức.

Chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật an lành. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana