CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH C

Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

YÊU THƯƠNG LÀ DẤU CHỈ THỰC SỰ MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊ-SU

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35

(31) Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33a) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy. Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. (34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (35) Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt của Đức Giê-su trong bữa tiệc ly vào chiều thứ Năm tuần thánh. Khi Giu-đa rời khỏi bàn tiệc lao mình vào bóng đêm thì Đức Giê-su tuyên bố “Giờ Con Người được tôn vinh” đã bắt đầu đúng theo thánh ý Chúa Cha. Sau đó Đức Giê-su ban cho các môn đệ điều răn mới là “Hãy yêu thương nhau như Thầy”. Tình yêu thương lẫn nhau chính là dấu chỉ để người ngoài phân biệt các ông là môn đệ đích thực của Đức Giê-su.

3. CHÚ THÍCH:

- C 31-32: + Khi Giu-đa đi rồi: Có lẽ Giu-đa ra khỏi phòng tiệc sau khi Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ và trước khi Người thiết lập bí tích Thánh Thể. Từ giờ phút này, Người bắt đầu cho biết về cái chết Người sắp trải qua và trăn trối những lời cuối cùng cho các môn đệ. + Giờ đây Con Người được tôn vinh: Cuộc thương khó chính thức bắt đầu, vì Giu-đa tiến hành công việc đi nộp Người. + Và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người: Thiên Chúa cũng được vinh hiển nhờ việc Đức Giê-su “vâng lời cho đến chết trên cây thập giá” (x. Pl 2,8). + Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình: Nếu Đức Giê-su làm cho Chúa Cha được vinh hiển nhờ cái chết của Người trên thập giá, thì Chúa Cha cũng sẽ ban cho Người được vinh hiển bằng cách cho Người sống lại vinh quang.

- C 33a.34-35: + Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy: Đức Giê-su giống như một người cha trăn trối những lời sau hết cho con cái trước khi chịu chết. + Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn này mới ở chỗ: thay vì lấy bản thân làm khuôn mẫu để yêu người khác như luật cũ dạy “Yêu đồng loại như chính thân mình” (x. Lv 19,18), Đức Giê-su lại đòi môn đệ phải yêu thương nhau theo khuôn mẫu tình yêu của Người dành cho họ, là hy sinh mạng sống mình vì họ. Thánh Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta” (1 Ga 3,16). + Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy...: Tình yêu hy sinh như thế sẽ trở thành dấu chỉ đặc biệt để người đời nhận biết ai là môn đệ đích thực của Đức Giê-su.

4. CÂU HỎI:

1) Giu-đa có được Đức Giê-su rửa chân và có được tham dự bữa tiệc Thánh Thể không?

2) Tại sao sau khi Giu-đa vừa rời bàn tiệc, Đức Giê-su lại nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh”?

3) So sánh với điều răn yêu người của Luật Mô-sê, thì điều răn các môn đệ hãy yêu thương nhau của Đức Giê-su mới ở điểm nào?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TÔI RẤT YÊU MẾN BÀ:

Một buổi tối nọ, Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Tê-rê-xa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu.

Người đàn bà đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Tê-rê-xa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”

Mẹ Tê-rê-xa trả lời: “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”

Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.

- “Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi !”

- “Tôi rất yêu mến bà”, Mẹ Tê-rê-xa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.

- “Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà !”

Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Tê-rê-xa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…

Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Tê-rê-xa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta: “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.

2) YÊU THƯƠNG LÀ QUÊN MÌNH ĐỂ TÌM HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI YÊU:

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện rất cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:

Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạm vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn chỗ bị cắt cho con bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng khi làm như thế thì chị sẽ bị mất máu và sẽ bị chết hay sao?” Chị trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo cho con tôi có cái gì bú để nó được sống !”.

3) TÌNH YÊU KHÔNG ÍCH KỶ NHƯNG BIẾT NGHĨ ĐẾN THA NHÂN:

Một ông lão đang đào đất gieo trồng mấy hột đào. Cháu trai của ông thấy vậy liền thắc mắc hỏi: “Ông ơi, tại sao ông lại phải vất vả trồng đào làm chi? Liệu ông có sống được tới ngày cây đào ra trái hay không?”. Bấy giờ ông lão liền âu yếm đặt tay lên vai đứa cháu, vừa cười vừa nói: “Này cháu, trái đào chúng ta ăn bây giờ chẳng phải là do người trước đã trồng đó sao? Chúng ta ăn trái đào do người khác trồng, thì tại sao ta lại không trồng cho người đời sau được hưởng hả cháu? Còn nếu ai cũng nghĩ rằng: chỉ khi nào được ăn thì mình mới trồng, thì liệu bây giờ chúng ta có được ăn những trái đào thơm ngon này không hả cháu?”

4) YÊU THƯƠNG LÀ QUẢNG ĐẠI CHO ĐI HƠN LÀ NHẬN LÃNH:

Một sinh viên nghèo nọ theo học ngành mỹ thuật, ngày kia ghé thăm phòng vẽ của một danh họa Pháp. Bấy giờ trong phòng vẽ đang vắng lặng. Rồi cậu ta nhìn thấy một lão hành khất ngồi ở một góc tối để chờ làm người mẫu cho họa sĩ vẽ. Thấy bộ dạng tiều tụy đáng thương của người hành khất, cậu sinh viên liền động lòng trắc ẩn. Cậu ta mở bóp ra và tìm mãi mới thấy còn một quan tiền và sau đó cậu đã lấy ra tặng cho ông lão nghèo khổ kia. Khi họa sĩ đến làm việc, người hành khất mới hỏi xem cậu sinh viên có lòng quảng đại kia là ai. Trả lời người hành khất, họa sĩ nói: “Thưa đó là một sinh viên nghèo nhưng rất hiếu học”. Chiều hôm đó, cậu sinh viên đã nhận được một món quà gói kín, trên có đề tên người gửi là “Nam tước GIẮC ĐỜ RÓT-SIN” (Jacques De Rothschild). Mở gói quà ra, cậu thật vui mừng khi đếm được tới 10 ngàn quan, kèm theo một bức thư nội dung như sau: “Đây là số tiền lời do một quan tiền mà cậu đã bố thí cho người nghèo sáng hôm nay !”. Thì ra người hành khất ngồi chờ làm mẫu cho họa sĩ vẽ lại chính là một nam tước ham thích hội họa. Ông cũng là một người rất giàu có và tốt bụng.

5) TÌNH YÊU TÁI TẠO SỨC SỐNG MỚI CHO CỘNG ĐOÀN:

Một Tu viện trưởng đến thăm một vị ẩn sĩ khôn ngoan, để xin tư vấn về cách điều hành tu viện mà ông đảm trách. Ông cho biết: trước đây tu viện của ông là một trung tâm thu hút rất nhiều khách thập phương đến hành hương cầu nguyện. Nhà nguyện trong tu viện luôn vang tiếng ca hát cầu kinh. Số người đến gõ cửa xin vào tu đông đến nỗi không còn chỗ nhận thêm. Thế nhưng hiện nay tu viện lại rơi vào tình trạng vắng tanh vắng ngắt. Các tu sĩ chỉ còn lèo tèo mười lăm ông già. Ai nấy chỉ biết lo cho bản thân mà không biết nghĩ đến kẻ khác. Nói chung tình trạng tu viện hiện đang xuống cấp trầm trọng. Sau đó, Tu viện trưởng yêu cầu vị ẩn sĩ tư vấn để tìm ra nguyên nhân và phương thế khắc phục tình trạng trên. Sau khi nghe biết tình hình tu viện, vị ẩn sĩ đã góp ý với tu viện trưởng như sau: “Theo thiển ý tôi thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng xuống cấp bi đát kia chính là tội thiếu tình thương hay vô tình !” và giải thích thêm: “Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một người trong tu viện, nhưng không ai trong tu viện nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, tu viện trưởng trở về tu viện, triệu tập các tu sĩ và cho biết Đức Giê-su hiện đang cải trang thành một người trong nhà. Ai trong cộng đoàn cũng có thể là Đức Giê-su ! Từ ngày đó, các tu sĩ đã đối xử với nhau như đối với Đức Giê-su: họ đã biết quan tâm phục vụ lẫn nhau, tôn trọng nhau và sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm khuyết điểm của nhau. Bầu khí cộng đoàn đã dần dần nồng ấm trở lại. Mọi người đều cảm thấy an vui. Ngày ngày họ chăm chỉ lao động ngòai đồng khiến năm ấy tu viện được mùa nho và lúa mì bội thu. Họ chia sẻ hoa lợi cho dân nghèo. Tấm gương đạo đức của họ ngày càng đồn xa khiến khách hành hương lại lục tục kéo đến nghe giảng dạy và xưng tội. Số tu sĩ ngày một gia tăng. Chính nhờ sống tình yêu thương mà tu viện đã hóa nên sinh động và ngày càng tốt đẹp hơn trước.

3. THẢO LUẬN:

1) Bạn thích câu chuyện nào nhất trong các câu chuyện trên và rút ra cho mình những bài học cụ thể nào về một tình yêu chân chính?

2) Bạn hãy kể ra những bằng chứng nào cho thấy gia đình, xứ đạo hay hội đoàn của bạn đã sống được giới răn mới yêu thương của Đức Giê-su hôm nay?

4. SUY NIỆM:

1) THẦY BAN CHO ANH EM MỘT ĐIỀU RĂN MỚI:

Có nhiều dấu hiệu để giúp người khác nhận ra một Ki-tô hữu như: đeo ảnh, làm dấu thánh giá, treo ảnh Chúa trong nhà... Nhưng dấu hiệu quan trọng nhất của môn đệ đích thực của Đức Giê-su chính là tình yêu thương nhau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”. Yêu thương nhau cũng là một phương thế truyền giáo hữu hiệu như Lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Tiếc thay, hiện nay vẫn còn những bất đồng giữa những người cùng tôn thờ Thiên Chúa và cùng tin Đức Giê-su, nhưng chưa hiệp thông với nhau như Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo, Tin Lành... Thậm chí đã từng xảy ra những mối hận thù và giết hại lẫn nhau giữa những người cùng nhận mình là con của Thiên Chúa như hai cộng đồng Công Giáo và Tin Lành ở Bắc Ai-Len, hai bộ tộc Hutu và Tút-si ở nước Ru-ăng-đa. Biết đến bao giờ các tín hữu mới có thể cùng đọc chung một kinh Tin kính, mừng chung các đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh trong cùng một ngày, cùng cử hành một lễ nghi phụng vụ chung? Thế giới hiện nay giống như một sa mạc khô khan cằn cỗi vì thiếu tình yêu. Ước chi các cộng đoàn Ki-tô sẽ trở thành những ốc đảo, có cỏ xanh tươi và nước suối trong lành, lôi kéo các con chiên lạc quay về sống trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha, có Đức Giê-su là Thầy và mọi người đều là anh em với nhau, như lời ước nguyện của Đức Giê-su: “Xin cho chúng nên một” (Ga 17,21).

2) HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY:

Đức Giê-su đòi các môn đệ phải yêu thương nhau “như Thầy đã yêu”. Đặc điểm tình yêu của Đức Giê-su như sau:

- Hy sinh mạng sống vì người yêu: Đức Giê-su đã chịu chết trên cây thập giá biểu lộ một tình yêu tột đỉnh đối với chúng ta, như Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).

- Nâng môn đệ đang là tôi tớ lên hàng bạn bè nghĩa thiết: "Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu của Thầy". Đức Giê-su là Thầy, là Chúa của các môn đệ, nhưng Người đã coi họ là bạn biểu lộ qua việc Người chia sẻ mọi điều mầu nhiệm của Chúa Cha cho các ông: "Tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết" (Ga 15,15).

- Khiêm nhường rửa chân phục vụ môn đệ (Ga 13,1.5), cảm thông giúp đỡ chữa lành cho những kẻ bệnh tật bất hạnh (x Mt 4,23): chữa người mù được sáng mắt, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi như các người thu thuế và gái điếm cũng nhận được ơn thứ tha tội lỗi để sau này còn được hưởng hạnh phúc Nước trời với Người...

- “Yêu cho đến tột cùng” (x Ga 13,1), yêu đến nỗi sẵn sàng hiến thân chịu chết để đền tội thay cho loài người và thiết lập bí tích Thánh Thể để nên của ăn cho chúng ta được sống đời đời (1 Cr 11,23-25).

Tóm lai: Chúa dạy “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” (Ga 13,34). Không phải là thứ tình yêu ích kỷ, tìm cách chiếm đoạt và lợi dụng người yêu (Êros), nhưng là thứ tình yêu quảng đại vị tha, sẵn sàng hiến thân cho người mình yêu được hạnh phúc (Agapê).

3) THỰC HÀNH YÊU THƯƠNG CỤ THỂ:

- Năng gặp nhau: Người môn đệ đích thực của Chúa Giê-su sẽ thể hiện tình yêu thương nhau qua việc năng họp mặt để lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chia sẻ cơm bánh vật chất với nhau. Vào ngày Chúa Nhật, ngoài việc đi dự lễ nhà thờ, chúng ta cũng dành thời gian để gặp gỡ trao đổi và làm công tác bác ái chung với nhau.

- Yêu nhau là luôn làm tốt cho nhau như: giúp nhau vượt qua hoàn cảnh nghèo đói, bệnh tật; quảng đại chia sẻ cơm bánh và động viên tinh thần, giúp nhau gia tăng đức tin, hoà giải các tranh chấp bất đồng, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, có cuộc sống ổn định. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sẵn sàng hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc cho nhau… Hãy năng cầu xin ơn Thánh Thần giúp chúng ta nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.

4) CHIA SẺ PHỤC VỤ LÀ DẤU HIỆU GIÚP NGƯỜI ĐỜI TIN YÊU CHÚA:

Hãy liên kết với nhau thành những Nhóm Nhỏ gọi là Gia Đình thiêng liêng nhằm giúp nhau sống giới răn mến Chúa yêu người của Chúa Giê-su.

Ngoài việc đi dự lễ Chúa Nhật hằng tuần, Gia Đình Nhóm Nhỏ còn cần họp mặt nhau luân phiên tại nhà các thành viên một hoặc hai lần mỗi tháng, để đọc kinh chung, cùng nhau hiệp sống Tin Mừng, sau đó báo cáo công tác đã làm trong thời gian qua và phân công tác mới. Các công tác bác ái như thăm viếng các người già cả neo đơn taị tư gia, bệnh viện hay nhà dưỡng lão, thăm bệnh nhân liệt giường lâu ngày, thăm các đôi vợ chồng đang bất hòa, thăm người lương có thiện cảm với đạo, phúng viếng đám ma người mới qua đời trong khu vực…

Thể hiện tình thương cụ thể đối với những người bất hạnh chính là ánh sáng, là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu Chúa đến với mọi người, nhất là những người chưa biết Chúa. Nhờ đó họ sẽ dễ dàng tin yêu Chúa để được ơn cứu độ, như lời Chúa Giê-su phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy chúng con biết yêu thương hợp tác với nhau để xây dựng Nước Chúa ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con đi bước trước đến với tha nhân. biết nhìn thấy Chúa đang hiện thân giữa cộng đoàn, dễ dàng tha thứ các lỗi lầm cho nhau. Ước chi chúng con biết chủ động đi bước trước đến với tha nhân, mở tai để lắng nghe, mở lòng để yêu thương và mở tay để phục vụ những người đau khổ, bệnh tật, neo đơn… hầu góp phần xây dựng môi trường chúng con đang sống ngày càng an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1) theo thánh ý Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON