1. Hồng Y Osoro dương tính với Covid-19 và sẽ không tham gia chuyến thăm ad limina tới Vatican. 30 Hồng Y đã bị ảnh hưởng kể từ khi bắt đầu đại dịch

Theo trang cá nhân Twitter của ngài, Đức Hồng Y Carlos Osoro Sierra, Tổng Giám mục Madrid, phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, đã xét nghiệm dương tính với Covid-19 và sẽ không thể tham gia chuyến thăm ad limina được lên lịch vào tuần tới tới Vatican. Đức Hồng Y vẫn khỏe mạnh và đang được cách ly tại nhà.

Kể từ khi bắt đầu đại dịch, theo thông tin mà “Il seismografo” thu thập được trên mạng và với sự đóng góp của độc giả, Đức Hồng Y Osoro là vị Hồng Y thứ 30 bị nhiễm Covid19. Ba trong số 30 vị Hồng Y nhiễm bệnh đã chết, nhiều vị bị rất nặng nhất là khi đại dịch mới bắt đầu, nhưng may mắn là hầu hết các vị đều có các triệu chứng nhẹ. Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti, Chủ tịch Hội đồng Giám mục người Ý, đã hai lần bị nhiễm bệnh.

Ba vị Hồng Y đã qua đời vì coronavirus là

01) Đức Hồng Y Eusébio Oscar Scheid - Tổng giám mục danh dự của São Sebastião do Rio de Janeiro, Brazil, sinh năm 1932 - 2021). Đã chết vì Covid-19 vào ngày 13 tháng Giêng năm 2021.

02) Đức Hồng Y Jorge Urosa Savino - Tổng Giám mục hiệu tòa Caracas, Venezuela, sinh năm 1942. Đã chết vì Covid-19 vào ngày 23 tháng 9 năm 2021.

03) Đức Hồng Y José Freire Falcão - Tổng giám mục hiệu tòa Brasilia, Brazil, sinh năm 1925. Qua đời vì Covid-19 vào ngày 26 tháng 9 năm 2021.

Bốn vị Hồng Y vừa nhiễm coronavirus là

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, sinh năm 1955.

Đức Hồng Y Toribio Ticona Porco, Tổng Giám Mục hiệu tòa của Corocoro, Bolivia, sinh năm 1937.

Đức Hồng Y Antonio Cañizares, Tổng giám mục Valencia, Tây Ban Nha,, sinh năm 1945.

Đức Hồng Y Carlos Osoro Sierra, Tổng giám mục Madrid, Tây Ban Nha,, sinh năm 1945.
Source:ilsismografo.blogspot.com

2. Nhật ký trừ tà số 174: Quỷ dữ trốn chạy quyền năng của Chúa Kitô

“Barbara” đã tham gia trong nhiều năm vào các hoạt động ngoại giáo. Cô ấy tham gia sâu vào việc thờ cúng các “vị thần” không phải Kitô giáo. Cô cũng liên kết tâm linh và khuất phục mình trước một pháp sư, người tự cho mình là đã giác ngộ. Cô ấy nói anh ta là một “loại pháp sư” và đã thực hành ma thuật. Tuy nhiên, cuối cùng cô đã từ bỏ những thực hành tà giáo này và trở về với cội nguồn Công Giáo của mình.

Nhưng pháp sư và các cộng sự viên của ông ta không cho phép điều đó xảy ra. Vào ban đêm, cô ấy là mục tiêu của những nỗi ám ảnh về sức mạnh ma quỷ của họ. Sử dụng ma thuật của họ, là thứ thực sự có tác dụng với ma quỷ, để dày vò và đe dọa cô. Họ tuyên bố sẽ làm cho cô ấy bị bệnh ung thư. Họ nói rằng cô ấy sẽ bị đau tim. Họ đe dọa sẽ kéo cô xuống địa ngục. Cô ấy nói những bậc thầy này “rất mạnh mẽ” và cô ấy vô cùng sợ hãi.

Barbara không chỉ cần sự giải thoát khỏi những pháp sư này và những con quỷ của họ, cô ấy còn cần được dạy giáo lý về Chân Lý. Vị linh mục làm việc với cô ấy, hết lần này đến lần khác, nói với cô ấy về quyền năng vượt trội của Chúa Giêsu Kitô. Ngài khuyên cô đừng sợ các pháp sư nhưng hãy tin cậy nơi Chúa Giêsu. Sau nhiều năm xa rời đức tin và đắm chìm trong tà giáo, điều này không hề dễ dàng đối với cô.

Vị linh mục nhận ra rằng, để được xác tín, cô ấy phải có kinh nghiệm bản thân về quyền năng của Chúa Kitô. Vì vậy, ngài nói với cô ấy, “Họ chỉ đang cố gắng để làm cho con sợ hãi. Họ không có quyền hạn đối với con, không thể gây ung thư hoặc kéo con xuống địa ngục. Lần tới khi chúng tấn công con, hãy nhắc nhở bản thân rằng con là con gái của Chúa, Đấng tạo thành trời đất. Sau đó, với sự tin tưởng hoàn toàn, hãy nói to ba lần: 'Nhân danh Chúa Giêsu, ta tuyên bố rằng mi không có quyền năng gì trên ta! Ta là con gái của Chúa. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, ta truyền lệnh cho ngươi cút đi-- ngay bây giờ!' Ngài cam đoan với cô “Pháp sư sẽ sợ hãi bỏ chạy.”

Barbara trả lời, “Đó là lời khuyên tốt. Con sẽ điều đó.” Ngày hôm sau, cô ấy nhắn tin lại: “Khi họ bắt đầu quấy rối con trong đêm, con đã làm những gì cha khuyên và họ đã lùi lại.”

Nhiều người sợ hãi Sa-tan và tay sai của hắn. Một phần quan trọng của tiến trình giải phóng, và hành trình cứu độ cho tất cả chúng ta, là “nhận biết Đức Kitô và quyền năng phục sinh của Người” (Pl 3,10).
Source:Catholic Exorcisms

3. Tiến sĩ Michael Hesemann: Cuộc ám sát nhân cách Đức Bênêđíctô thứ 16 là quá quắt

Tiến sĩ Michael Hesemann vừa dành cho tờ EXAUDI một cuộc phỏng vấn về cuộc tấn công mới nhất vào Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

'Quá đáng!' Đây là cách Tiến sĩ Michael Hesemann, chuyên gia, tác giả và học giả về Giáo hội Đức, mô tả tất cả các cuộc tấn công gần đây nhằm vào Đức Bênêđíctô sau báo cáo của một công ty luật của Đức tuyên bố rằng ngài đã xử lý sai bốn trường hợp lạm dụng trong thời gian làm Tổng giám mục của Munich và Freising.

Đức Bênêđíctô đã dứt khoát phủ nhận mọi hành vi sai trái.

Trong một cuộc phỏng vấn độc quyền với Exaudi, Tiến sĩ Hesemann giải thích về báo cáo, này, các tuyên bố và liệu chúng có bất kỳ tính hợp pháp nào hay không. Hơn nữa, nhà sử học thẳng thắn thảo luận về cách Đức Hồng Y Ratzinger, từng lãnh đạo Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican, và sau đó là Giáo hoàng, đã làm như thế nào để giải quyết vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em của các giáo sĩ trong Giáo Hội Công Giáo.

Đây là cuộc trò chuyện của chúng tôi:

EXAUDI: Thưa Tiến sĩ Hesemann, báo cáo mới có chứa thông tin đáng lo ngại về việc lạm dụng 497 trẻ em trong Tổng giáo phận Munich và Freising từ năm 1945 đến năm 2019. Bạn đã xem chưa?

DR. MICHAEL HESEMANN: Tất nhiên là có. Bạn có thể tìm thấy toàn bộ 1893 trang trực tuyến, nhưng tiếc là chỉ bằng tiếng Đức. Nhưng vì tôi là người Đức, nên tôi không có vấn đề gì khi đọc nó.

EXAUDI: Bạn có thấy nơi nào báo cáo này nói về việc Đức Hồng Y Ratzinger bị cáo buộc là đã xử lý sai khi phục vụ với tư cách là Tổng Giám mục của Munich?

DR. MICHAEL HESEMANN: Tôi đã đọc cả hai, 72 trang đề cập đến 5 năm khi Đức Hồng Y Ratzinger làm Tổng giám mục của Munich và Freising, tức là từ 1977 đến 1982, cũng như 88 trang ngài trả lời câu hỏi của các nhà điều tra.

EXAUDI: Điều gì được nói đến? Nó có giá trị pháp lý gì không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Trước hết, có sự khác biệt rất lớn giữa một mặt là bản báo cáo và cuộc họp báo; và mặt khác là tường trình quốc tế về báo cáo này. Điều này rất quan trọng, bởi vì mọi nhà báo đã đưa tin về cuộc họp báo ở Munich, đều thừa nhận rằng họ chưa đọc bản báo cáo. Tất nhiên là không, vì không ai có thể đọc được 1893 trang trong một ngày! Vì vậy, mọi tiêu đề đều dựa trên những gì được nói trong cuộc họp báo, nhưng đây thực sự chỉ là một cách diễn giải thiên vị và ác ý mà không có sự hỗ trợ của các sự kiện như được trình bày trong báo cáo. Vì vậy, hầu hết những gì bạn nghe được trong hai ngày qua chỉ là tin giả, dựa trên thông tin sai lệch có chủ ý của các phương tiện truyền thông.

Như chúng ta đã biết, sự xôn xao của giới truyền thông tập trung vào Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, mặc dù ngài không phải là chủ đề chính của bản báo cáo. Báo cáo đề cập đến các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên từ năm 1945 đến năm 2019, trong 74 năm, chứ không chỉ 5 năm của Đức Tổng Giám Mục Ratzinger. Nó đề cập đến 65 trường hợp, chỉ có 4 trường hợp trong số đó có liên quan ít nhiều đến Đức Hồng Y Ratzinger. Nếu bạn nghiên cứu những trường hợp đó, Đức Hồng Y Ratzinger chỉ là một nhân vật phụ, một người không đóng vai trò quan trọng nào trong những gì đã xảy ra, nhưng tất cả mọi người đều tập trung vào ngài. Tất nhiên, đưa ngài vào ánh đèn sân khấu là một cách dễ dàng để che đậy hành vi sai trái của một số người kế nhiệm ngài, đặc biệt là Hồng Y Marx, người là Tổng giám mục của Munich và Freising từ năm 2008 cho đến nay.

Vì vậy, chúng ta hãy cùng xem xét bốn trường hợp đó và cách Đức Hồng Y Ratzinger giải quyết chúng.

EXAUDI: Vâng, bạn có thể vui lòng giải thích về các trường hợp được không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Nếu bạn nghiên cứu chúng, bạn sẽ rất ngạc nhiên rằng không có nạn nhân nào trong bốn trường hợp đó, ít nhất là không có nạn nhân nào trong nhiệm kỳ Tổng giám mục của Đức Hồng Y Ratzinger. Không có trường hợp nào trong cả bốn trường hợp được nêu, không một linh mục nào bị buộc tội về bất kỳ hoạt động tình dục nào với trẻ vị thành niên hay người lớn, trai hay gái trong suốt 5 năm đó! Đó là một thực tế rất quan trọng vì người ta thường tuyên bố rằng Giáo hội nhắm mắt làm ngơ với các nạn nhân. Trong bản báo cáo không có tên một nạn nhân nào cả, trong thư trả lời của Đức Bênêđíctô cũng chẳng có cái tên nào cả, trừ ra tên của linh mục khét tiếng Peter Hullermann là người hở hang trong trường hợp thứ hai.

Hãy bắt đầu bằng cách nói về trường hợp đầu tiên. Trong trường hợp đó, một linh mục, là người đã bị đưa ra nước ngoài sau một hành vi tà dâm trong quá khứ và bị kết án tù, đã được Đức Hồng Y Ratzinger cho phép trở về giáo phận quê hương của mình để nghỉ hưu. Vì vị linh mục này chỉ muốn nghỉ hưu, nên việc cho phép ông được chết tại quê nhà là một hành động nhân bản của con người. Tuy nhiên, báo cáo nói rằng Cha Tổng Đại diện – chứ không phải Đức Hồng Y Ratzinger! - gửi cho anh ta một lá thư, chấp nhận việc nghỉ hưu của anh ta, và gọi anh ta là “mục tử” (“Pfarrer”). Các nhà điều tra cho rằng “mục tử” là một danh hiệu kính trọng, do Đức Tổng Giám Mục Ratzinger ban cho ông ta, điều này thật vô nghĩa. “Mục tử” hoàn toàn không phải là một danh hiệu kính trọng, như các danh hiệu “Đức Ông”, “Đức Cha”, v.v. Không nên đổ lỗi cho Đức Hồng Y Ratzinger vì điều này, vì chính Cha Tổng đại diện đã chấp nhận cho ông ấy nghỉ hưu, và chính Cha Tổng đại diện là người đã gọi ông ấy là ‘mục tử’.

Trong trường hợp thứ hai, một linh mục từ giáo phận khác, cụ thể là ở Giáo phận Essen, đã bị kết tội lạm dụng tình dục trẻ em khi ông ta say rượu, và được giám mục của ông ta gửi đến Tổng giáo phận Munich để điều trị tâm thần. Mặc dù không có tên trong báo cáo, ở đây chúng tôi nói rõ ràng về linh mục khét tiếng này. Peter Hullermann, cái tên mà chúng ta đã nghe thấy rất thường xuyên. Vụ lạm dụng tình dục trẻ em này ở giáo phận Essen, quê hương của ông ấy đã xảy ra trước nhiệm kỳ của Đức Hồng Y Ratzinger với tư cách là Tổng giám mục Munich, và do đó ngài không phải chịu trách nhiệm. Một khoảng thời gian khác, một giáo phận khác! Hullerman được giám mục của mình gửi đi điều trị tâm thần tại tổng giáo phận Munich. Vào thời điểm đó, người ta thường tin rằng chứng đồi bại tình dục có thể chữa được. Vì Hullerman đã hành động dưới ảnh hưởng của rượu, câu hỏi đặt ra là liệu có ai ở Munich biết rằng ông ta bị bệnh ấu dâm hay họ chỉ coi ông ta là một kẻ nghiện rượu có vấn đề về tâm thần. Trong thời gian điều trị, ông ta được phép cư trú tại một nhà xứ nơi ông ta điều trị và vị linh mục địa phương đã cho ông ta tham gia một số hoạt động. Đức Bênêđíctô bảo đảm rằng ngài không được thông báo về lai lịch của người đàn ông này theo đó ông ta đã lạm dụng tình dục trẻ em trong giáo phận quê hương của mình, và không có bằng chứng nào cho thấy Đức Bênêđíctô biết điều đó!

EXAUDI: Vậy Đức Hồng Y Ratzinger không biết rằng việc thuyên chuyển của Hullerman là vì lạm dụng tình dục trẻ em?

DR. MICHAEL HESEMANN: Không, Đức Bênêđíctô nói rõ ràng là ngài không biết và chúng tôi không có lý do gì để thắc mắc về tuyên bố của ngài. Vị linh mục này, Cha Hullerman, rất nhanh chóng nổi tiếng và không bao giờ thực hiện bất kỳ hành vi sai trái nào trong thời gian phục vụ của mình. Khi bị phát hiện dính líu đến một hành vi hở hang, ông ta đã bị toà án kết án và bị đuổi khỏi giáo xứ, rồi ông ấy tìm việc khác, làm giáo viên trong một trường tư thục. Điều quan trọng là phải làm rõ trường này là một trường kinh tế tư nhân và không liên quan gì đến Giáo hội.

Hành động ‘triển lãm’ của Cha Hullerman, về cơ bản là ông ấy thoát y ở một nơi công cộng [trong một hồ bơi], bên ngoài giáo xứ, nơi người ta không biết ông ấy là một linh mục và không ai trong giáo xứ của ông ta chứng kiến. Ông ấy được phép tiếp tục điều trị tâm thần mà không có bất kỳ hoạt động nào trong giáo xứ địa phương, ít nhất là dưới thời Đức Hồng Y Ratzinger. Vì vậy, ở đây chúng ta không có hành vi ấu dâm, không có trường hợp lạm dụng tình dục, không có nạn nhân trong nhiệm kỳ của Đức Hồng Y Ratzinger. Tất cả những lời buộc tội chỉ tập trung vào câu hỏi tại sao Đức Hồng Y Ratzinger lại cho phép một người đàn ông mà ngài không hề hay biết về quá khứ, được điều trị tâm thần và ở lại trong một nhà xứ.

EXAUDI: Báo cáo có đưa ra bằng chứng nào cho thấy Đức Hồng Y Ratzinger đã biết lai lịch của Cha Hullerman?

DR. MICHAEL HESEMANN: Hoàn toàn không! Báo cáo không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào như vậy. Trong tuyên bố của Đức Bênêđíctô, ngài phủ nhận việc biết lai lịch của linh mục này, Cha Hullermann, và không có bằng chứng nào cho thấy ngài đã từng biết. Và tôi muốn nói thêm điều này, đây là trường hợp đã thu hút sự chú ý của các phương tiện truyền thông rộng rãi nhất!

EXAUDI: Vụ thứ ba liên quan đến ai?

DR. MICHAEL HESEMANN: Trong trường hợp thứ ba, một giám mục từ một quốc gia khác đã hỏi Đức Hồng Y Ratzinger liệu ngài có cho phép cháu trai của mình, một linh mục, tiếp tục nghiên cứu và làm luận văn ở Munich, điều mà Đức Hồng Y Ratzinger đã cho phép. Điều mà ngài không biết là vị linh mục trẻ đã bị kết án ở quê nhà vì hành vi sai trái tình dục. Trong thời gian học tập, ông ấy từng là tuyên úy tại giáo xứ Đại học và được nhìn thấy đang khỏa thân bơi ở dòng sông Isar ở địa phương. Chà, bản thân tôi đã sống ở Munich ba năm và tôi có thể bảo đảm với bạn rằng đó là một điều khá phổ biến ở đó, mặc dù tất nhiên không phải đối với một linh mục trẻ. Nhưng, một lần nữa, không có nạn nhân! Dù sao, vị linh mục trẻ ngay lập tức bị loại khỏi giáo xứ của mình và cuối cùng bị đuổi về nhà. Một lần nữa, Đức Hồng Y Ratzinger bị đổ lỗi vì đã cho phép người đàn ông trẻ tuổi này học ở Munich, tuyên bố rằng “ngài phải biết” về quá khứ của người ấy. Tôi thấy hợp lý hơn khi cho rằng chú của cha ấy đã không nói với Đức Hồng Y Ratzinger về điều đó…

EXAUDI: Đối với vị linh mục trẻ này, báo cáo gần đây cho thấy Đức Hồng Y Ratzinger có phản ứng gì không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Chắc chắn rồi! Vị linh mục trẻ không làm gì phạm pháp, ngoài việc không giữ tư cách một linh mục. Và ngay lập tức Đức Hồng Y Ratzinger đã phản ứng, loại bỏ anh ta và đuổi anh ta về nhà! Như là một biện pháp phòng ngừa! Nhưng họ vẫn khẳng định rằng Đức Ratzinger hẳn đã biết về quá khứ của cha ấy, điều này thật vô lý và không có bằng chứng gì cả.

EXAUDI: Bản báo cáo có chỉ ra bất kỳ bước nào mà Đức Bênêđíctô đã thực hiện để chống lại nạn lạm dụng trong Tổng giáo phận không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Vâng, vụ cuối cùng trong số bốn vụ án liên quan đến một linh mục đã chụp ảnh các cô gái vị thành niên thay quần áo cho một vở kịch. Khi anh ta bị kết án và Đức Hồng Y Ratzinger biết về điều đó, ngài đã loại bỏ anh ta khỏi giáo xứ và đưa anh ta đến một bệnh viện và nhà của người cao niên.Vì vị linh mục này có khuynh hướng ấu dâm và không nên tiếp xúc với trẻ vị thành niên! Tuy nhiên, các điều tra viên cáo buộc Đức Hồng Y Ratzinger “thiếu quan tâm” đến vụ án. Tuyên bố của họ hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta biết được từ chính vụ việc.

Tuy nhiên, như bạn thấy, lạm dụng tình dục không phải là vấn đề lớn trong suốt 5 năm ngài làm Tổng Giám Mục Munich. Chúng ta không có trường hợp nào mà bất kỳ trẻ vị thành niên hoặc người lớn nào đó bị quấy rối tình dục. Và chúng ta có một Tổng Giám mục Ratzinger, người đã ngay lập tức thực hiện các biện pháp ngăn chặn.

EXAUDI: Hãy quay lại sau khi Đức Hồng Y Ratzinger rời Munich, một số bước quan trọng nhất của ngài chống lại việc lạm dụng khi lãnh đạo Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican là gì?

DR. MICHAEL HESEMANN: Đúng vậy, báo cáo đã đổ lỗi cho Đức Hồng Y Ratzinger vì đã không báo cáo bốn trường hợp đó cho Rôma. Nhưng trên thực tế, đây không phải là mô hình hoạt động trong những năm 1970. Chỉ khi Đức Hồng Y Ratzinger trở thành Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin vào năm 1982, ngài mới đưa Huấn thị Crimen sollicitationis năm 1922 vào Bộ giáo luật cải cách năm 1983. Tuy nhiên, phải đến giữa những năm 1990, các giáo phận mới thực sự tuân theo hướng dẫn này, bởi vì Đức Hồng Y Ratzinger nhấn mạnh vào hướng dẫn đó. Trước đây, những trường hợp đó thường được che đậy bởi các giám mục địa phương. Sau Công đồng Vatican II, nguyên tắc là giám mục phải “chữa lành, không trừng phạt”; những người hành động khác với tinh thần này được coi là quá cứng nhắc và không khoan dung. Chỉ khi những trường hợp lạm dụng tạo ra một vụ tai tiếng ở Mỹ, các giám mục Mỹ mới hỏi Đức Hồng Y Ratzinger liệu các ngài có nên kỷ luật nội bộ các linh mục ấu dâm hay nhờ cơ quan thực thi pháp luật tham gia.

Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lo sợ một vụ lợi dụng chính trị, chính Đức Hồng Y Ratzinger đã yêu cầu làm rõ và kỷ luật không khoan nhượng. Thật vậy, vào năm 2001, ngài đã thuyết phục Đức Giáo Hoàng ban hành các quy tắc chặt chẽ hơn. Trong chỉ dẫn của mình “Deophitis gravioribus”, ngài yêu cầu các Giám Mục phải có nghĩa vụ báo cáo những trường hợp đó cho cơ quan thực thi pháp luật theo luật quốc gia - ngay lập tức, không phải sau một quy trình thông thường! Một năm sau, Đức Gioan-Phaolô II đã ra lệnh cho 13 giám mục Mỹ đến Rôma để thông báo cho họ về “chính sách không khoan nhượng” mới của Tòa thánh.

EXAUDI: Vào năm 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã thực hiện những bước to lớn để chống lại nạn ấu dâm trong Giáo hội, phải không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Đúng thế. Ngay từ đầu triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã thực thi “chính sách không khoan nhượng” này, ngay cả trong một trường hợp nổi bật là trường hợp của Cha Marcial Maciel Delgado. Vào năm 2010, khi biết rằng các chỉ thị của ngài đã bị một số giám mục phớt lờ, ngài đã thi hành những chỉ thị thậm chí còn nghiêm khắc hơn. Ví dụ, thời hạn hồi tố được kéo dài từ 10 lên 20 năm. Những trường hợp nghiêm trọng phải được báo cáo lên chính Đức Giáo Hoàng, là người sẽ loại những kẻ vi phạm khỏi hàng giáo sĩ. Hơn nữa, ngài hướng dẫn các chủng viện chọn các ứng viên cẩn thận hơn và từ chối những người đàn ông có khuynh hướng ấu dâm hoặc đồng tính luyến ái. Mọi sự che đậy đều được Đức Bênêđíctô XVI tuyên bố là “hoàn toàn không thể chấp nhận được”.

EXAUDI: Ngay cả khi yêu cầu cựu Tổng Giám mục của Vienna, Stephen Groer, từ chức sau khi ông bị cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ em?

DR. MICHAEL HESEMANN: Đúng như vậy. Đức Bênêđíctô đã đóng một vai trò tuyệt vời.

EXAUDI: Trong tư cách Giáo Hoàng, Đức Bênêđíctô cũng đã loại bỏ nhiều linh mục phải không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Đúng thế, để làm gương và chấm dứt “sự đồi bại chức tư tế”, như cách gọi của ngài, ngài đã lên án gần 400 linh mục ấu dâm.

EXAUDI: Những lời nổi tiếng của ngài về 'sự ô uế bên trong Giáo hội' trong cuộc đi đàng thánh giá năm 2005 trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng, ngay trước khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, sẽ không bao giờ bị lãng quên. Một số cách quan trọng nhất mà ngài đã thể hiện và bày tỏ sự ghê tởm đối với sự bẩn thỉu này là gì?

DR. MICHAEL HESEMANN: Trên đường đến Fatima, trong chuyến bay của Giáo hoàng, ngài đã nói rằng “cuộc bức hại nghiêm trọng nhất đối với Giáo hội không đến từ những kẻ thù bên ngoài, mà phát triển từ tội lỗi bên trong Giáo hội”. Và trong lá thư gửi cho một Tập hợp Công Giáo Đức, ngài khuyên các giám mục và các tín hữu, hãy “nhổ hết cỏ dại,” đặc biệt là “ở giữa Giáo hội và giữa các tôi tớ của Giáo hội”. Trong “Năm Linh mục” năm 2010, ngài nói với người viết tiểu sử của mình, Peter Seewald, rằng năm linh mục được mở ra như một “năm thanh tẩy, đổi mới nội tâm, hoán cải và sám hối” đối với chức tư tế. Không có Giáo hoàng nào trước và sau khi ngài hành động và lên tiếng mạnh mẽ để chống lại “sự ô uế trong Giáo hội”, cũng như cơn ôn dịch của nạn ấu dâm và lạm dụng linh mục! Và không chỉ vậy, ngài còn là vị Giáo hoàng đầu tiên gặp gỡ các nạn nhân của những kẻ lạm dụng nhiều lần ở hầu hết các quốc gia mà ngài đến thăm và yêu cầu đền bù thỏa đáng cho những đau khổ đã gây ra cho họ, ngay cả khi điều đó gây ra các vấn đề tài chính nghiêm trọng ở một số giáo phận.

EXAUDI: Bạn có lo lắng rằng trong cuộc phỏng vấn này sẽ có người nói rằng bạn thể hiện phản ứng của mình theo một cách nào đó vì bạn gần gũi với gia đình ngài không?

DR. MICHAEL HESEMANN: Bạn không cần phải là người gần gũi với gia đình ngài (và trong trường hợp của tôi là quen biết với anh trai quá cố của ngài) để đọc báo cáo chính thức một cách cẩn thận, nhận ra sự thiên vị và xem sự khác biệt giữa các sự kiện được báo cáo và đã biết, các tuyên bố của các nhà điều tra và những tuyên bố thậm chí còn lớn hơn và vô lý hơn trong cuộc họp báo ở Munich. Bốn trường hợp này có đủ mạnh để làm tổn hại đến công việc cả đời của Joseph Ratzinger không? Chắc chắn là không!

Một lần nữa: Không có nạn nhân, không có trường hợp lạm dụng tình dục nào trong nhiệm kỳ Tổng Giám mục của Munich và Freising. Không một cái nào cả. Chỉ trong hai trường hợp, câu hỏi đặt ra là ngài đã được thông báo trước như thế nào về quá khứ của hai linh mục đến từ các giáo phận bên ngoài, thậm chí một linh mục ở nước khác. Ngài nói rằng ngài không biết các chi tiết được đề cập và không có bằng chứng cho thấy ngài đã biết. In dubio pro reo – khi còn hồ nghi, chứng lý phải thuộc về bị cáo - là một nguyên tắc phổ biến và không thể nào mà điều đó lại không áp dụng đối với một vị Giáo hoàng.

Không có cuộc tấn công nào mới nhất chống lại Đức Bênêđíctô XVI là có thể biện minh được, bởi vì chúng không dựa trên bất kỳ sự kiện nào, mà chỉ dựa trên sự thiên vị, vu khống và xuyên tạc. Tốt nhất, bốn trường hợp cho thấy rằng Giáo hội đã trở nên nhạy cảm hơn trong việc đối phó với lạm dụng, và đó là một điều tốt. Nhưng đó, như tôi đã nói, là nhờ công việc của Đức Bênêđíctô XVI. Tất cả càng vô lý hơn, lại càng trở nên táo tợn hơn khi đặt người chịu trách nhiệm dọn dẹp vào một góc với những người chịu trách nhiệm về việc che đậy!

Tôi chỉ có thể mời mọi người đọc bản báo cáo gốc “cum grano salis”, “với sự hoài nghi cần thiết”. Bất cứ ai đang tìm kiếm bằng chứng, manh mối hoặc thậm chí là các sự kiện tỏ tường để có thể kết tội Đức Ratzinger nói dối sẽ nhanh chóng thất vọng. Có những giới ở Đức muốn có một Giáo hội khác, một Giáo hội thờ phượng con người [thay vì thờ phượng Chúa], Tin lành hơn, “cởi mở hơn với thế giới”. Đối với họ, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô là một biểu tượng, một biểu tượng cho Giáo hội cũ đặt Chúa ở trung tâm. Đây là lý do tại sao họ cố gắng làm mọi cách để vu khống ngài, làm mất uy tín của ngài và chà đạp mọi điều ngài đã dạy chúng ta với tư cách là nhà thần học, giám mục, Hồng Y, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và Giáo hoàng. Hoàn toàn không phải là vì bốn trường hợp đó, mà là vì ngài và những lời dạy của ngài. Vì vậy, đối với họ, ngài là vật tế thần hoàn hảo để họ có thể đánh lạc hướng mọi sự chú ý vào ngài.

EXAUDI: Cảm ơn Tiến sĩ Hesemann.
Source:Exaudi