III. CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH THỨC

Chúng ta thấy có thể có việc các chức năng đào tạo bên trong cần sự trợ giúp của các chức năng bên ngoài; thực vậy, đó là giả thuyết của mọi nền giáo dục. Nền giáo dục chính thức làm tăng tiến sự phát triển các cơ năng thể chất và trí thức nhất định, và nó tạo ra chất liệu giáo dục thích hợp. Cả hai làm việc rộng dài với nhau. Các chức năng được huấn luyện cần có để tiếp nhận các chất liệu; mặt khác, những chức năng này chỉ có thể được huấn luyện bằng các chất liệu. Việc bàn tới cơ thể đương nhiên thuộc về một lý thuyết tổng thể trong ngành giáo dục phụ nữ. Tôi xin để nó cho các chuyên gia diễn dịch các công trình giáo dục tự nhiên do giải phẫu học và sinh lý học cung cấp; Tôi chỉ muốn bàn đến khía cạnh giáo dục liên quan đến linh hồn. Linh hồn cần những chất liệu nào cho việc phát triển của nó? Nó phải nhận được một điều gì đó vào chính nó để phát triển. Và, như chúng ta đã thấy, chỉ những gì linh hồn nhận được từ bên trong mới có thể trở thành một phần cấu thành nó để chúng ta có thể nói đến việc phát triển và đào tạo; những gì được giác quan và trí hiểu tiếp nhận vẫn là một sở hữu ở bên ngoài (5). Chúng ta gọi các phẩm tính [qualities] là những đối tượng có một điều gì đó bên trong chính chúng làm chúng thích đáng để được tiếp nhận vào bên trong linh hồn; chúng ta gọi điều gì này là giá trị.



Một khao khát tự nhiên đặc biệt mạnh mẽ muốn có những giá trị nuôi dưỡng tinh thần như vậy sống trong linh hồn người phụ nữ. Họ có thiên hướng yêu thích cái đẹp, được gợi hứng bởi những điều được đề cao về mặt luân lý; nhưng, trên hết, họ luôn cởi mở với những giá trị trần thế cao nhất, những giá trị không thể diễn tả vẫn nằm trong bản chất của chính linh hồn. Do đó, chắc chắn là hợp pháp khi các môn học đào tạo về cảm xúc - văn chương, nghệ thuật, lịch sử - chiếm một vị trí quan trọng trong nền giáo dục các thiếu nữ cho đến vài năm gần đây. Tôi khá tin rằng, trong thời kỳ trước đây, ít nhất những cô gái có năng khiếu hơn của kiểu trường hay bị chế giễu là “Höheren Töchterschule” (Trường Cao đẳng Nữ) (6) đã được hưởng một phần khá lớn của nền giáo dục hữu hiệu.

Tuy nhiên, sự kiện chất liệu đào tạo về cảm xúc được tiếp nhận một cách chung chung là điều ít quan trọng; chất liệu như thế phải được thẩm hóa một cách thích đáng mới có thể góp phần vào việc đào tạo. Có một quy luật qui định việc đào tạo này - luật lý trí. Vị trí liên hệ trong linh hồn cần nhường chỗ một cách hợp lý cho các giá trị và phẩm tính tương ứng với cấu trúc của thế giới bên ngoài và sự phát triển từ từ các giá trị và phẩm tính này. Để linh hồn được đào tạo đúng đắn và không bị đào tạo sai, nó phải có khả năng so sánh và phân biệt, cân đo đong đếm. Nó không nên thấm nhiễm một sự nhiệt tình khả nghi; không nên bị cuồng tín tràn ngập; và nó phải đạt được nhận thức tinh tế và khả năng phán đoán nhạy bén.

Một trí hiểu phát triển đầy đủ cần thiết đối với mục đích trên. Ngay cả khi hoạt động tri thức trừu tượng xét chung ít phù hợp với phụ nữ hơn, trí hiểu vẫn có tính chủ chốt cho lĩnh vực tâm trí; nó là con mắt của tâm trí, và qua nó, ánh sáng xuyên vào bóng tối của linh hồn. Trong diễn văn tại Graz của mình về Sứ mệnh Phụ nữ, Oda Schneider nói rằng phụ nữ chỉ cần sống là đủ và không cần dài dòng hỏi “điều gì” và “mục đích gì”. Nhưng nói như thế tiềm ẩn một nguy cơ sai lầm, mất mục đích và mục tiêu. Tầm quan trọng của quyền kiểm soát nam tính đã được làm sáng tỏ trong bài diễn văn đó. Nhưng điều đó không nên có nghĩa là từ bỏ phán đoán của mình để ngả về sự phụ thuộc. Trí hiểu có thể và phải được thúc đẩy để hành động vì tất cả những gì chắc chắn đều có ở đó. Nó không thể, bất cứ cách nào, trở nên minh mẫn và nhạy bén đủ. Nhưng, tất nhiên, không nên gia tăng việc phát triển trí hiểu mà gây hại cho việc tinh tế hóa xúc cảm. Điều đó có nghĩa là biến phương tiện thành cùng đích. Điểm chính là không nhận vào chương trình giảng dạy mọi điều đáng khuyến nghị như là việc huấn luyện trí hiểu thuần túy. Ngược lại, nó đáng khuyến khích nếu chịu khó đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu để vẫn còn cơ hội lớn nhất có thể cho các cải tiến chất liệu.

Hơn nữa, người ta phải nhớ rằng không chỉ có hiểu biết lý thuyết mà còn có hiểu biết thực hành mới đối đầu với những nhiệm vụ đa dạng nhất của cuộc sống hàng ngày. Trước hết, việc đào tạo khả năng này có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống sau này; và nó được đào tạo qua việc thự hành các nhiệm vụ cụ thể, không phải chỉ các vấn đề lý thuyết mà thôi. Nó phù hợp với bản chất của người phụ nữ hơn vì họ thực sự có xu hướng ngả về điều cụ thể hơn là điều trừu tượng. Và cùng với việc đào tạo này, nên đào tạo ý chí mà từ đó những thành tựu liên tục được yêu cầu: lựa chọn, phán đoán, từ bỏ, hy sinh, v.v. Và việc huấn luyện trí hiểu thực tiễn cũng là điều cần thiết để nuôi dưỡng các cảm xúc đúng đắn. Chỉ nơi nào xác tín và ý định được chuyển thành hành động một cách thành công, nó mới có thể chứng tỏ liệu sự nhiệt tình có chính đáng hay không, liệu những điều cao hơn có thực sự được ưa thích hơn những điều thấp hơn hay không. Cuối cùng, bản chất con người không chỉ được điều hướng tới việc tiếp nhận mà còn hướng tới việc hành động bằng cách lên khuôn thế giới bên ngoài.

Vì lý do đó, một phần thiết yếu của diễn trình giáo dục là kích hoạt các khả năng thực tế và sáng tạo của người ta. Và các khả năng thực tế trong cuộc sống được yêu cầu nơi đa số phụ nữ. Chỉ khi nào chúng ta cho phép họ hành động ngay trong thời gian đi học thì chúng ta mới nuôi dưỡng được những người phụ nữ thực tế, có khả năng, nghị lực, quyết tâm và hy sinh.

Một số điểm tham chiếu căn bản cho một kế hoạch giáo dục hiện nay xuất hiện như được đòi hỏi bởi bản chất và ơn gọi của người phụ nữ. Người ta sẽ phải hoàn toàn thoát khỏi quan niệm cho rằng việc học ở trường phải cung cấp một bản tóm lược mọi lĩnh vực kiến thức của thời đại chúng ta. Ngược lại, người ta nên cố gắng đào tạo những người đủ thông minh và đủ khả năng để làm quen với bất cứ lĩnh vực kiến thức nào sẽ trở nên quan trọng đối với họ. Đó là lý do tại sao chủ đề trong điều gọi là các khoa học chính xác nên được giới hạn rất nhiều, cũng như thời gian dành cho việc học ngoại ngữ của các trẻ em có ít tài năng ngôn ngữ. Tâm trí phải được tạo cơ hội thỏa đáng để nó tự vận hành. Muốn vậy, hoạt động trừu tượng không thể nào thiếu được. Vì mục đích này, tùy thuộc vào tài năng, người ta nên tham khảo các tác phẩm cổ điển hoặc toán học nhiều hơn. Trong mọi trường hợp, các thao tác thực hành của tâm trí nên được đặt bên cạnh các thao tác trừu tượng, tri thức.

Dạy cho các thiếu nữ biết và hiểu thế giới và con người cũng như học cách liên kết với những thực tại này, nên được coi là nhiệm vụ thiết yếu của nhà trường. Chúng ta đã hiểu rõ một cách đầy ấn tượng rằng mối tương quan đúng đắn với các tạo vật đồng loại của chúng ta chỉ khả hữu bên trong khuôn khổ mối tương quan đúng đắn với Đấng Sáng tạo.

Vì vậy, chúng ta trở lại khái niệm cho rằng giáo dục tôn giáo là thành tố quan trọng nhất của giáo dục. Nhiệm vụ cấp bách nhất là mở con đường dẫn đứa trẻ tới Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta cũng có thể nói rằng để được đào tạo về mặt tôn giáo, người ta phải có đức tin sống động. Có đức tin sống động có nghĩa là nhận biết Thiên Chúa, yêu mến Người và phụng sự Người.

Ai nhận biết Thiên Chúa (theo mức trong đó sự hiểu biết về Thiên Chúa có thể có được nhờ ánh sáng tự nhiên và siêu nhiên) không thể làm gì khác hơn là yêu mến Người; ai yêu mến Người không thể làm gì khác hơn là phụng sự Người. Vì vậy, các vấn đề về trí óc và trái tim, thành tựu và hành động của ý chí đều là đức tin sống động. Người biết cách đánh thức đức tin sẽ huấn luyện mọi khả năng. Nhưng người ta chỉ đánh thức được đức tin nếu đồng thời vận dụng được mọi khả năng. Điều này không thể thực hiện được qua sự dạy dỗ tri thức tẻ nhạt, mà nó cũng không thể thực hiện được qua sự dạy dỗ cuồng tín “lôi cuốn các cảm xúc”; trái lại, điều này chỉ có thể thực hiện được qua việc dạy dỗ tôn giáo dẫn từ sự sung mãn của đời sống tôn giáo của họ đến những chiều sâu của Thiên tính, một sự dạy dỗ biết trình bày Thiên Chúa trong lòng nhân từ của Người; một sự dạy dỗ như vậy khơi dậy tình yêu và đòi hỏi phải chứng tỏ bằng hành động, và nó có thể thách thức vì người ta đạt được điều này bởi chính họ. Bất cứ nơi nào linh hồn được kích thích, nó đều khao khát được hành động; và nó hăng hái nắm bắt những hình thức sống thực tế mà Thiên Chúa và Giáo Hội Thánh đã cung cấp: tham dự vào Hy Tế Thánh Lễ, một sự tham dự hoàn tất hy lễ thánh như một của lễ kết hợp với Chúa Thánh Thể, lời ngợi khen hân hoan dâng lên Thiên Chúa, và mọi công việc của tình yêu trong đó Chúa Kitô được phục vụ trong các chi thể của Nhiệm Thể Người. Do đó, trọn sự phong phú của thế giới siêu nhiên của tinh thần được mở ra cho linh hồn, và một sự phong phú bất tận chất liệu đào tạo đi vào trong đó có khả năng xây dựng và biến đổi nó.

IV. THÁCH THỨC CỦA HIỆN TẠI — CON ĐƯỜNG ĐỂ THỂ HIỆN THỰC TIỄN

Làm thế nào chúng ta có thể tổ chức một cơ sở giáo dục, trong đó mọi người sống với Chúa và nhân loại, trong đó họ làm việc cho Chúa và nhân loại? Một tổ chức như vậy phải dựa trên tất cả sự hiểu biết về bản chất và ơn gọi của người phụ nữ như tôi đã trình bày.

Nhưng tôi tin rằng điều này phải được xem xét từ một góc độ hoàn toàn khác. Thời của chúng ta đòi hỏi gì ở phụ nữ? Trước hết, nó đòi hỏi phần lớn trong số họ phải tự kiếm sống lấy. Điều hợp lý là mong những người quản lý một hộ gia đình thực hiện nó một cách hợp lý và hỗ trợ điều kiện chung của nền kinh tế, điều này mời gọi họ đóng góp (với tư cách là những người vợ và người mẹ) vào việc phục hồi đạo đức của người dân. Người ta mong rằng họ dọn đường vào thiên đàng. Điều đó có nghĩa đòi người phụ nữ phải có kiến thức sống, sự khôn ngoan và khả năng thực tiễn; những người phụ nữ kiên định về mặt đạo đức, những người phụ nữ có đời sống bám rễ chắc chắn vào Thiên Chúa. Làm thế nào tất cả những điều này có thể có được nếu nền tảng cho mục đích này không được đặt ngay lúc còn trẻ?

Không thiếu những sáng kiến theo hướng này. Các viên chức đã phần lớn áp dụng các phương pháp nền tảng của sư phạm cải cách: họ yêu cầu sự giảng dạy có tính giáo dục "Selbsttätigkeit" [cố gắng bản thân] (7). Người ta đã bắt đầu sắp xếp một lối dạy mới tại các trường tiểu học ở Bavaria nhằm cải thiện kế hoạch giảng dạy hiện nay: tại Phổ [Prussia] trong những năm gần đây, người ta đã quan tâm để các trường trung học dành cho giáo viên và học sinh nhiều tự do hơn. Nhưng tựu chung, phải nói rằng có những trở ngại khó khăn như chương trình học quá nặng nề và hệ thống thi cử cũng như phát bằng cấp quá kéo dài. Tôi tin rằng một cuộc cải tổ tổng quát hệ thống giáo dục chỉ có thể được thực hiện song song với một việc ra quy luật có hệ thống cho hệ thống hướng nghiệp. Và đối với tôi, một việc kiểm soát như vậy dường như là một nhu cầu khẩn thiết cho thời điểm hiện tại, một nhu cầu còn cấp bách hơn cả việc cải tổ giáo dục: ngày nay, một số lớn người dân do dự trước việc chọn nghề của họ và không biết phải đến nơi nào để hỏi han liên quan đến việc lựa chọn này, và hầu như không ai có thể đưa ra lời tư vấn. Chúng ta được cảnh báo rằng nhiều nghề đang quá đông người chọn. Ngoài ra, có nhiều đòi hỏi lý thuyết liên quan đến việc đào tạo các nghề chủ yếu có tính thực tiễn đến nỗi nhiều người có kỹ năng thực tiễn cũng bị loại trừ.

Như bước đầu tiên trong việc tìm ra giải pháp cho tình trạng này, cần có số liệu thống kê tổng quát về hướng nghiệp: điều này đồng thời sẽ cho biết đích xác nhu cầu lớn như thế nào đối với từng nghề nghiệp và do đó sẽ kiểm soát được tin đồn không thể biện minh được về tình trạng quá đông. Như thế, việc huấn luyện hướng nghiệp cần được phát triển phù hợp với các đòi hỏi thực tế của các nghề; nó không nên chịu ảnh hưởng của những quan điểm hoàn toàn không liên quan — thí dụ, mong muốn của các viên chức hạn chế số lượng ứng viên bằng các điều khoản tuyển sinh khó khăn nhất, hoặc tính phù phiếm của một số lớp dạy nghề muốn duy trì sự bình đẳng trong diễn trình đào tạo ngay cả khi các yêu cầu thực sự không đòi hỏi như thế.

Do đó, sẽ thích hợp hơn nếu chuẩn bị một cách có hệ thống cho hệ thống trường hướng nghiệp trong các định chế dành cho người trẻ bao lâu các định chế này có thể quan sát và phân biệt học sinh theo năng khiếu cá nhân của họ; năng khiếu nghề nghiệp sẽ được bộc lộ sớm và từ đó tạo cơ sở cho việc lựa chọn và hướng nghiệp phù hợp. Một vấn đề giáo dục nữa có thể cần bàn liên quan đến các trường hướng nghiệp dành cho những người có những dấu chỉ sớm.

Tại các trung tâm giáo dục này, sự tự do và linh hoạt trong công việc tự nhiên sẽ được cần đến. Điều tôi nghĩ đến là một loại hệ thống Montessori sẽ được tiến hành từ giai đoạn tuổi thơ sớm nhất cho đến tuổi ở ngưỡng cửa trường dạy nghề.

Chương trình giảng dạy cốt lõi trong các trường nữ phải là loại giáo dục tổng quát được quy định bởi bản chất và thiên hướng của phụ nữ: một nền giáo dục tôn giáo căn bản phù hợp với từng cấp độ tuổi; đồng thời huấn luyện kỹ năng nội trợ, lập ngân sách, chăm sóc trẻ em và thiếu niên, các vấn đề chính trị - xã hội. Tất cả những điều này không nên thuần túy lý thuyết, mà đồng thời phải vừa lý thuyết vừa thực hành, và tất nhiên, không phải qua các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm mà qua việc giải quyết thực sự các nhiệm vụ có thực, dù nhỏ hơn và khiêm tốn hơn. Liên hệ đến điều này sẽ là các lĩnh vực tri thức thuần túy; ở đây sự phân chia sẽ tùy thuộc năng khiếu và thiên hướng của từng cá nhân, và việc chuyển tiếp vào trường dạy nghề sẽ được chuẩn bị.

Việc chuyển từ một định chế giáo dục tổng quát qua một trường dạy nghề đối với tôi là bình thường và đáng mong muốn. Trước hết, việc chuẩn bị học nghề sẽ là một nhu cầu kinh tế cần thiết trong một thời gian dài. Thứ hai, đối với tôi, có vẻ như nó cũng có lợi cho việc đào tạo nhân cách. Năng lực và nghị lực cá nhân của người trưởng thành luôn phấn đấu hướng tới hiệu quả thiết thực và việc thủ diễn có khả năng. Chỉ trong một số rất ít trường hợp, đời sống gia đình mới có chỗ cho việc đào tạo căn bản này. Ngoài ra, nó còn là một yêu cầu có tính xã hội nữa. Nghề nghiệp là nơi mà cá nhân được sáp nhập vào cộng đồng hoặc vào chức năng mà họ phải hoàn thành trong cơ cấu cộng đồng. Nhiệm vụ độc đáo của người phụ nữ lao động là kết hợp ơn gọi nữ giới của họ với ơn gọi hướng nghiệp của họ và, nhờ sự kết hợp này, họ đem một phẩm chất nữ giới cho ơn gọi hướng nghiệp của họ.

Đương nhiên, không thể tiến hành dễ dàng một sự biến đổi học đường như vậy. Trước hết, vì có thể thiếu một lực lượng giảng dạy thích hợp. Thứ hai, bất cứ rắc rối chớm nở nào trong một hệ thống mới cũng có thể xuất hiện nhanh như bệnh dịch trên phạm vi khắp nước, và điều đó có thể gây hại đến mức người ta phải tiếc nuối “những ngày xưa tốt đẹp” và từ bỏ các nguyên tắc lành mạnh.

Tất cả các biện pháp cải cách trước hết phải được thử nghiệm ở quy mô nhỏ; thực vậy, một số đã được thử nghiệm bởi các nhà cải cách được cảm hứng trong các trường thực nghiệm tư nhân hoặc công lập trước khi chúng chính thức được giới thiệu hoặc đặt hàng để hiện thực hóa tổng quát.

Vì vậy, xem ra sẽ là một khởi đầu đáng mong ước cho một cuộc cải cách giáo dục phụ nữ nếu người ta có thể tìm được một số phụ nữ Công Giáo kiên quyết để xây dựng một ngôi trường như vậy, những phụ nữ bám rễ vững chắc trong đức tin, được trau dồi về sư phạm căn bản; nhưng, trên hết, phải là các phụ nữ đã quen thuộc với tất cả các phương pháp làm việc hiện đại. Tất nhiên, cũng liên quan đến vấn đề này sẽ là một nhóm các bậc cha mẹ đủ can đảm và tin tưởng trong việc giao phó con cái của họ cho ngôi trường này, và một nhóm các nhà bảo trợ để tài trợ cho nó. Tạm thời, tôi chỉ mong muốn các viên chức tạo phạm vi cho khái niệm giáo dục mới qua việc giảm bớt chủ đề giảng dạy và quyền tự do hành động của các nhà giáo. Hơn nữa, tôi mong muốn hệ thống thi cử và phát bằng cấp được sửa đổi từ nền tảng và có một sự sắp xếp mới cho toàn bộ hệ thống hướng nghiệp.

Trong phần trình bày này, tôi đã, một cách ý thức và cố ý, đặt việc giáo dục phụ nữ vào vị trí trung tâm. Người ta cũng đã nhấn mạnh rằng phụ nữ cũng như nam giới là những cá nhân mà cá tính của họ phải được xem xét trong công việc giáo dục. Tuy nhiên, để tránh hiểu lầm, điều có lẽ không thừa là nhấn mạnh rằng phụ nữ và nam giới đều có một mục tiêu giáo dục chung là những con người nhân bản: “Các con phải hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Đấng hoàn thiện”. Mục tiêu giáo dục này thể hiện một cách tổng thể hữu hình trước mắt chúng ta trong con người của Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của mọi người là trở nên giống như Người. Được đào tạo như thế qua chính Chúa Giêsu Kitô là con đường dành cho tất cả chúng ta, với tư cách là những chi thể nối kết với Người như là đầu. Nhưng chất liệu căn bản thì đa dạng. Thiên Chúa đã tạo ra loài người như là nam và nữ, và Người đã giao cho mỗi người những nhiệm vụ đặc thù trong nhân loại. Bản chất nam giới và nữ giới bị thoái hóa vì cuộc Sa Ngã. Họ có thể được giải thoát khỏi đống xỉ rét [slag] này trong lò lửa của vị lên khuôn thần linh. Và bất cứ ai phó mình một cách vô điều kiện cho sự đào tạo này, không những bản chất trong sáng được phục hồi nơi họ mà người này còn sẽ phát triển vượt quá bản chất họ và trở thành một Chúa Kitô khác, trong đó, các rào cản đã được loại bỏ và các giá trị tích cực của bản chất nam giới và nữ giới được hợp nhất. Nhưng tất cả các công việc tự nhiên phải tiến hành từ nền tảng tự nhiên.



St. Lioba, ngày 12 tháng 1 năm 1932 (8)

Trong bài nói chuyện mà tôi đã thuyết trình vào tháng 11 năm 1930 tại Berndorf liên quan đến các nền tảng của việc giáo dục phụ nữ, tôi đã cố gắng vẽ nên bức tranh của linh hồn phụ nữ vì nó sẽ tương ứng với ơn gọi vĩnh cửu của người phụ nữ, và tôi đã gọi các thuộc tính của nó là cởi mở chan hòa(expansive), yên tĩnh, tự làm trống rỗng mình, ấm áp và rõ ràng. Bây giờ tôi được yêu cầu nói vài điều về việc làm thế nào để ta có thể sở hữu những phẩm tính này.

Tôi tin rằng đây không phải là vấn đề chúng ta có thể xử lý và sở đắc một cách cá thể tính đa dạng của các thuộc tính khác nhau; đúng hơn ở đây chúng ta muốn hình dung ra toàn bộ trạng thái đơn nhất của linh hồn trong các thuộc tính này từ nhiều khía cạnh khác nhau. Chúng ta không thể đạt được trạng thái này bằng cách ước muốn nó, mà phải nhờ ân sủng để thực hiện nó. Những gì chúng ta có thể và phải làm là mở lòng đón nhận ân sủng; điều đó có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn ý chí của chúng ta và giao phó nó cho thánh ý Thiên Chúa, đặt trọn linh hồn của chúng ta trong tay Thiên Chúa, sẵn sàng để được tiếp nhận và đào tạo.

Trở nên trống rỗng nhưng vẫn được kết nối chặt chẽ. Linh hồn được bản nhiên bổ sung nhiều cách đến nỗi điều này luôn thay thế điều kia, và linh hồn luôn bị kích động, đôi khi bị xáo trộn và náo động.

Các nhiệm vụ và lo lắng trong ngày đổ xô đến khi chúng ta vừa thức dậy vào buổi sáng (nếu chúng chưa xua tan giấc ngủ ban đêm của chúng ta). Câu hỏi khó chịu lúc này là: Làm thế nào giải quyết được tất cả những điều này trong một ngày? Khi nào tôi phải làm điều này, khi nào phải làm điều kia? Tôi sẽ bắt đầu làm điều này và điều kia ra sao? Bị giao động như vậy, chúng ta chỉ biết chạy loanh quanh và lao tới lao lui. Lúc đó, dĩ nhiên chúng ta phải hãm đà dừng lại mà nói, “Từ từ thôi bạn! Không để bất kứ điều nào trong số này đụng vào tôi lúc này. Giờ đầu tiên vào buổi sáng của tôi phải thuộc về Chúa. Tôi sẽ giải quyết công việc trong ngày mà Người đã giao cho tôi, và Người sẽ ban cho tôi sức mạnh để hoàn thành nó".

Như thế, tôi sẽ đến bàn thờ Chúa. Ở đây, vấn đề không phải là về những việc nhỏ nhặt, phút giây của tôi, mà là về lời đề nghị hòa giải vĩ đại. Tôi có thể tham gia vào việc này, thanh tẩy bản thân và được hạnh phúc, và đặt mình với tất cả những việc làm và những rắc rối của tôi cùng với của lễ trên bàn thờ. Và khi Chúa đến với tôi trong lúc Rước lễ, lúc đó tôi có thể hỏi Người, "Lạy Chúa, Chúa muốn gì nơi con?" (Thánh Teresa). Và sau cuộc đối thoại trong im lặng này, tôi sẽ đi đến điều được tôi coi là nhiệm vụ tiếp theo của mình.

Tôi vẫn sẽ vui vẻ khi bước vào công việc trong ngày sau việc cử hành sáng nay: linh hồn tôi sẽ trống rỗng những điều vốn tấn công và đè nặng lên nó, nhưng nó sẽ tràn ngập niềm vui thánh thiện, lòng dũng cảm và nghị lực.

Bởi vì linh hồn tôi đã rời khỏi chính nó và đi vào sự sống thần linh, nó đã trở nên vĩ đại và mở thật rộng. Tình yêu bùng cháy trong nó như một ngọn lửa điềm tĩnh mà Chúa đã nhen nhóm, và thúc giục linh hồn tôi thể hiện tình yêu và thổi bùng tình yêu nơi người khác: Tình yêu bừng sáng cõi lòng cho tới khi vươn tới người lân cận (“flammescat igne caritas, accendat ardor proximos”) (9) Và nó nhìn thấy rõ ràng phần tiếp theo của con đường trước mặt; nó không nhìn thấy xa lắm, nhưng nó biết rằng khi nó đến chỗ đường chân trời giao nhau, một viễn cảnh mới sẽ được mở ra.

Bây giờ bắt đầu việc làm trong ngày, có lẽ là nghề dạy học— bốn hoặc năm giờ, hết giờ này đến giờ khác. Điều đó có nghĩa ta phải tập trung vào đó. Chúng ta không thể đạt được điều mình muốn trong mỗi giờ, có lẽ không điều nào. Chúng ta phải đối mặt với sự mệt mỏi của chính mình, những gián đoạn không lường trước được, những thiếu sót của bọn trẻ, những sự bực tức, phẫn nộ, lo lắng đủ kiểu. Hoặc có lẽ đó là công việc văn phòng: cho và nhận với những vị giám sát và đồng nghiệp bất đồng, những đòi hỏi không hoàn thành, những lời trách móc vô cớ, sự nhỏ mọn của con người, có lẽ cả nỗi buồn khổ thuộc loại khác biệt nhất.

Bây giờ là giữa trưa. Chúng ta trở về nhà kiệt sức, tả tơi. Những bực tức mới có thể đang chờ đợi ở đó. Bây giờ sự tươi mát buổi sáng của linh hồn ở đâu rồi? Linh hồn lại muốn sôi sục và bão bùng: phẫn nộ, phiền muộn, hối hận. Và vẫn còn rất nhiều việc phải làm cho đến tối. Há chúng ta không nên đi với nó ngay lập tức hay sao? Không, không nên trước khi bình tĩnh trở lại ít nhất là trong chốc lát. Mỗi người phải biết, hoặc cần phải biết mình có thể tìm được bình yên ở đâu và bằng cách nào. Cách tốt nhất, nếu có thể, là trút bỏ mọi lo lắng một lần nữa trong một thời gian ngắn trước Nhà tạm. Bất cứ ai không thể làm điều đó, nhưng cần để cơ thể được nghỉ ngơi, nên có một không gian để hít thở trong phòng riêng của mình. Và khi bất cứ sự nghỉ ngơi bên ngoài nào cũng không thể có được, khi không có nơi nào để rút lui vào đó, nếu nhiệm vụ cấp bách không cho phép một giờ yên tĩnh, thì ít nhất họ cũng phải rút vào tận nội tâm mình chống lại tất cả những điều khác để nương náu trong Chúa. Người thực sự ở đó và có thể cung cấp cho chúng ta những gì chúng ta cần trong giây lát.

Phần còn lại trong ngày sẽ tiếp tục như thế, có lẽ trong sự mệt mỏi và vất vả cao độ, nhưng trong yên bình. Và khi màn đêm buông xuống, và việc nhìn lại cho thấy mọi điều đều là những chắp vá và phần lớn những gì người ta đã lên kế hoạch đều chưa hoàn thành, khi có quá nhiều điều khơi dậy sự xấu hổ và hối tiếc, thì chúng có thế nào hãy coi chúng như thế, đặt chúng trong tay Thiên Chúa và dâng nó lên cho Người. Nhờ cách này, chúng ta sẽ có thể nghỉ ngơi trong Người, thực sự là nghỉ ngơi, và bắt đầu một ngày mới như một cuộc sống mới.

Đó chỉ là một dấu hiệu nhỏ cho thấy ngày sống có thể thành hình ra sao để dành chỗ cho ân sủng của Thiên Chúa. Mỗi cá nhân sẽ biết cách tốt nhất để sử dụng việc này trong các hoàn cảnh đặc thù của mình. Nó cũng có thể cho biết thêm rằng Chúa Nhật phải là một cánh cửa tuyệt vời ra sao để qua đó đời sống thiên đàng có thể bước vào cuộc sống hàng ngày, và là sức mạnh ra sao cho việc làm của cả tuần, và các ngày đại lễ, ngày nghỉ và Mùa Chay, sống tinh thần của Giáo Hội, cho phép linh hồn trưởng thành hơn ra sao từ năm này qua năm nọ để được nghỉ ngơi trong ngày Sabát vĩnh viễn.

Bổn phận thiết yếu của mỗi cá nhân là xem xét cách mình phải định hình kế hoạch cho cuộc sống hàng ngày và hàng năm, theo xu hướng của mình và theo hoàn cảnh sống liên hệ của mình, để dọn đường cho Chúa. Việc phân công bên ngoài hẳn khác nhau đối với mỗi người, và nó cũng phải điều chỉnh một cách mềm dẻo với việc thay đổi của hoàn cảnh theo thời gian. Nhưng hoàn cảnh tâm hồn thay đổi với các cá nhân và từng cá nhân thuộc những thời đại khác nhau. Còn về những phương tiện thích hợp để mang lại sự kết hợp với Đấng vĩnh cửu, giữ cho nó sống động hoặc làm cho nó sống động trở lại — chẳng hạn như chiêm niệm, đọc sách thiêng liêng, tham gia phụng vụ, các buổi lễ bình dân, v.v. — những điều này không sinh hoa kết trái đối với mỗi người và mọi thời. Thí dụ, sự chiêm niệm không thể được thực hành bởi tất cả và luôn luôn theo cùng một cách.

Điều quan trọng đối với mỗi trường hợp là tìm ra cách hiệu quả nhất và làm cho nó có ích cho bản thân. Điều rất tốt là qúy bạn lắng nghe lời khuyên của chuyên gia để biết mình thiếu điều gì, và điều này càng đặc biệt trước khi người ta thực hiện các biến thể của một sắp xếp đã được thử nghiệm.

GHI CHÚ

(1) Đề tài này đầu tiên được trình bày trong một diễn văn trước Ủy Ban Giáo Dục Thường Trực của Liên Đoàn Phụ Nữ Công Giáo Đức, tại Berndorf am Rhein ngày 8 tháng 11 năm 1930. (Chú thích của các hiệu đính viên)

(2) Các ý niệm tiếp theo được đề cập một cách phần nào toàn diện hơn trong một giảng thuyết về ý niệm giáo dục. Bản văn của loạt giảng thuyết này được lồng trong Ganzheitliches Leben, cuốn số XII của Edith Steins Werke. (Chú thích của các hiệu đính viên)

(3) Hạn từ “Gestalt” khi được dùng như một hạn từ tâm lý học có nhiều nghĩa; ở đây, có thể dịch là “hình thức” (form) hay “đặc tính” (character) (Chú thích của dịch giả bản tiếng Anh).

(4) Bài diễn văn ở Salzburg của tôi “Các Nguyên tắc của Các Chuyên nghề của Phụ nữ” có chứa các suy nghĩ bổ xung. Xin xem cuốn này các trang 43-57.

(5) Một lý thuyết về giá trị từng được minh xác và một giải thích liên hệ về việc tri nhận các giá trị là điều kiện tiên quyết chủ yếu đối với một lý thuyết giáo dục được biện minh và có tính triết học; điều này giải thích lý trí và linh hồn có vai trò gì trong việc tri nhận các giá trị và giải thích sự hợp tác của chúng.

(6) “Höheren Töchterschule” là các trung học dành cho các thiếu nữ (Chú thích của dịch giả bản tiếng Anh)

(7) Nghĩa đen, “Selbsttätigkeit” là việc tự sinh hoạt (self-activity) của người học, nhưng nó thuộc việc tự do chọn chương trình học hỏi và việc tự cai quản của sinh viên (Chú thích của dịch giả bản tiếng Anh).

(8) Nhờ khảo sát các di cảo văn chương, các tờ viết tay đã được khám phá, có chứa các suy nghĩ bổ xung cho bài thuyết giảng trên đây (Chú thích của các hiệu đính viên)

(9) Đây là câu trích từ bài thánh ca bằng tiếng Latinh kính Chúa Thánh Thần “Nunc Sancte Nobis Spiritus” được gán cho Thánh Ambrôsiô và dùng cho giờ kinh Terce (9:00 giờ sáng) quanh năm trong Sách nguyện Rôma. Dịch từng chữ: Hãy để đức ái bùng cháy thành lửa và lòng sốt mến nồng cháy người lân cận của chúng con (Chú thích của dịch giả bản tiếng Anh).