SUY NIỆM LỄ KÍNH THÁNH GIA
(Mt 2, 13-15. 19.23)
Hôm nay, trong bầu khí hồng ân của mùa Giáng Sinh, Hội Thánh long trọng mừng kính Lễ Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse. Đây không chỉ là ngày lễ tôn vinh một gia đình đạo đức trong lịch sử cứu độ, nhưng còn là dịp để mỗi gia đình chúng ta nhìn lại chính mình, soi gương Thánh Gia để canh tân đời sống, hầu trở nên gia đình theo ý định của Thiên Chúa, một Hội Thánh tại gia.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống”, cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng”, nhất là được trường thọ: “Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài.” (Sir 3,3-6.12). Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó”. Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: “ Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”. Bài đọc I, trích sách Huấn Ca, nhấn mạnh bổn phận căn bản của người làm con: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già của cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống… Ai thảo kính cha mình thì được sống lâu dài.” (Sir 3,3-6.12). Trong một xã hội đề cao quyền lợi cá nhân, lời Chúa mời gọi chúng ta trở về với cội nguồn của đạo làm người. Thảo kính cha mẹ không chỉ là vâng lời khi còn nhỏ, mà còn là yêu thương, biết ơn, chăm sóc cha mẹ khi về già, tôn trọng các ngài cả trong lời nói lẫn thái độ sống.
Con cái sống có trách nhiệm với cha mẹ cũng chính là sống có trách nhiệm với gia đình, với giáo xứ, với xã hội và với Hội Thánh. Một người biết yêu thương và tôn kính cha mẹ sẽ biết sống nhân ái, biết vâng phục lẽ phải và biết xây dựng cộng đoàn.
Vợ chồng yêu thương nhau
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi các gia đình sống mối tương quan vợ chồng trong tình yêu và trách nhiệm: “Hỡi những người làm vợ, hãy tôn trọng chồng trong Chúa… Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình.” (Col 3, 18-20).
Tình yêu vợ chồng Kitô giáo không phải là sự thống trị hay ích kỷ, nhưng là tình yêu hiến dâng, tôn trọng và nâng đỡ nhau. Vợ chồng yêu thương, chung thủy và tha thứ cho nhau chính là nền tảng vững chắc để con cái lớn lên trong bình an và đức tin.
Gia đình hạnh phúc không phải là gia đình không có mâu thuẫn, mà là gia đình biết giải quyết mâu thuẫn bằng đối thoại, cầu nguyện và yêu thương. Khi vợ chồng biết quỳ gối cầu nguyện chung, gia đình ấy đã đặt Chúa làm trung tâm.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái”. (Col 3, 21).
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm Thánh Giuse, người cha thầm lặng nhưng đầy trách nhiệm. Ngài luôn lắng nghe và thi hành ý Chúa, bảo vệ Đức Maria và Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Chúa Giêsu, dù là Con Thiên Chúa, vẫn vâng phục cha mẹ trần thế, sống ẩn dật suốt ba mươi năm trong gia đình.
Tin Mừng cho thấy: vâng phục không làm con người nhỏ bé đi, nhưng giúp con người lớn lên trong ân sủng. Khi cha mẹ sống đạo đức, con cái sẽ dễ dàng đón nhận và noi theo. Chính đời sống gương mẫu của cha mẹ là bài giáo lý sống động và hiệu quả nhất cho con cái.
Noi gương Thánh Gia
Lễ Thánh Gia mời gọi mỗi gia đình Kitô hữu hôm nay:
Cha mẹ sống gương mẫu trong đức tin, yêu thương và kiên nhẫn, dành thời gian cho con cái, dạy con cầu nguyện, sống trung thực và có trách nhiệm.
Con cái hãy biết vâng lời, thảo kính cha mẹ, siêng năng học tập, sống đạo đức, đóng góp tích cực cho gia đình, giáo xứ và xã hội.
Cả gia đình: cùng nhau cầu nguyện, tham dự Thánh lễ Chúa nhật, sống bác ái và tha thứ, biến gia đình thành nơi của yêu thương và hiệp thông.
Khi mỗi gia đình sống theo tinh thần Thánh Gia, gia đình ấy sẽ thực sự trở thành “Gia đình Thánh tại gia”, nơi Chúa hiện diện, nơi đức tin được nuôi dưỡng, và nơi tình yêu được lan tỏa.
Chúng ta hãy phó thác gia đình mình cho Thánh Gia Nagiarét. Xin Thánh Giuse dạy các người cha biết sống trách nhiệm; xin Đức Maria dạy các người mẹ biết yêu thương và hy sinh; xin Chúa Giêsu dạy con cái biết vâng phục và trưởng thành trong ân sủng.
Ước gì mỗi gia đình chúng ta trở nên một Tin Mừng sống động giữa đời, góp phần xây dựng Giáo Hội và xã hội trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Hannah Brockhaus, trong bản tin của CNA gửi đi từ Thành phố Vatican, ngày 24 tháng 12 năm 2025, tường trình rằng: Đức Giáo Hoàng Leo XIV, trong Thánh Lễ nửa đêm Giáng Sinh, nói rằng sự giáng sinh của Chúa Kitô mang ánh sáng vào bóng tối của thế giới — và nơi nào con người được chào đón, thì Thiên Chúa cũng được chào đón.
Đức Giáo Hoàng nói trong bài giảng tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 24 tháng 12: “Để soi sáng sự mù quáng của chúng ta, Chúa đã chọn mặc khải chính mình làm người cho người, hình ảnh chân thật của Người, theo một kế hoạch tình yêu bắt đầu từ khi tạo dựng thế giới”.
“Chừng nào màn đêm của sự lầm lạc còn che khuất chân lý quan phòng này, thì ‘cũng chẳng còn chỗ cho người khác, cho trẻ em, cho người nghèo, cho người lạ,’” ngài nói thêm, trích dẫn bài giảng của Đức Giáo Hoàng Benedict XIV trong Thánh lễ Giáng sinh ngày 24 tháng 12 năm 2012.
Đức Giáo Hoàng nói: “Những lời này của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI vẫn là lời nhắc nhở kịp thời rằng trên trái đất, chẳng còn chỗ cho Chúa nếu chẳng còn chỗ cho con người”.
Đức Giáo Hoàng Leo đã cử hành Thánh lễ Giáng sinh, còn được gọi là Thánh lễ Nửa đêm, cho một nhà thờ lớn chật kín người ở Vatican lúc 10 giờ tối. Vatican cho biết ước tính có khoảng 6,000 người ở bên trong nhà thờ để tham dự Thánh lễ, trong khi 5,000 người khác theo dõi Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng qua màn hình lớn ở Quảng trường Thánh Phêrô. Trước Thánh lễ, Đức Giáo Hoàng bất ngờ bước ra ngoài Vương cung thánh đường Thánh Phêrô để chào hỏi những người buộc phải ở lại quảng trường dưới trời mưa vì không còn chỗ bên trong.
“Vương cung thánh đường Thánh Phêrô rất rộng lớn, nhưng tiếc là không đủ chỗ cho tất cả mọi người,” Đức Giáo Hoàng Leo nói, cảm ơn mọi người đã hiện diện, chúc họ một mùa Giáng sinh vui vẻ và ban phước lành tông đồ.
Các bài đọc chuẩn bị và bài Công Bố về sự giáng sinh của Chúa Kitô – còn được gọi là Bài Công Bố Kalenda – đã diễn ra trước Thánh lễ. Sau khi Bài công bố Kalenda, Đức Giáo Hoàng vén tấm vải để lộ bức tượng gỗ Chúa Hài đồng, được đặt trước bàn thờ chính của vương cung thánh đường. Một nhóm 10 trẻ em mặc trang phục truyền thống từ các vùng khác nhau trên thế giới đã mang hoa đến cho tượng Chúa Hài đồng.
Trong bài giảng, Đức Giáo Hoàng nhắc lại rằng, “trong hàng thiên niên kỷ, trên khắp trái đất, các dân tộc đã ngước nhìn lên bầu trời” để cố gắng đọc tương lai trong các vì sao. Tuy nhiên, họ vẫn lạc lối và trong bóng tối, ngài nói. “Nhưng đêm nay, ‘dân đi trong bóng tối đã thấy ánh sáng lớn’ (I-sai-a 9:2).”
“Đấng cứu chuộc chúng ta khỏi bóng đêm được sinh ra trong đêm tối,” Đức Giáo Hoàng Leo nói. “Dấu hiệu của ngày mới không còn phải tìm kiếm ở những nơi xa xôi của vũ trụ nữa, mà bằng cách cúi xuống, trong chuồng gia súc gần đó’.
Đức Giáo Hoàng Leo mời gọi các Kitô hữu chiêm niệm sự khôn ngoan của lễ Giáng Sinh, qua đó “Thiên Chúa ban cho thế giới một sự sống mới: sự sống của chính Người, được hiến dâng cho tất cả mọi người.”
“Người không ban cho chúng ta một giải pháp thông minh cho mọi vấn đề, mà là một câu chuyện tình yêu thu hút chúng ta. Đáp lại kỳ vọng của các dân tộc, Người gửi một hài nhi đến để làm lời hy vọng. Trước sự đau khổ của người nghèo, Ngườii gửi một người không có khả năng tự vệ đến để làm sức mạnh giúp họ đứng dậy.”
Đức Leo nói: “Trước bạo lực và áp bức, Ngài thắp lên một ngọn lửa dịu dàng soi sáng bằng ơn cứu rỗi cho tất cả trẻ em trên thế giới này”.
Đức Giáo Hoàng trích dẫn một bài giảng của Thánh Augustinô, người đã nói, “sự kiêu ngạo của con người đè nặng lên các ngươi đến nỗi chỉ có sự khiêm nhường thiêng liêng mới có thể nâng các ngươi lên một lần nữa.”
Đức Giáo Hoàng Leo nói: “Trong khi một nền kinh tế méo mó khiến chúng ta đối xử với con người như những món hàng đơn thuần, thì Thiên Chúa trở nên giống như chúng ta, tiết lộ phẩm giá vô hạn của mỗi người.Trong khi nhân loại tìm cách trở thành ‘thần’ để thống trị người khác, thì Thiên Chúa chọn trở thành người để giải phóng chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ. Liệu tình yêu này có đủ để thay đổi lịch sử của chúng ta không?”
Lúc 12g trưa ngày Lễ Giáng Sinh 25/12, dưới trời mưa lâm râm, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông mới, miễn là họ giữ các qui tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.
Từ bao lơn chính giữa đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đọc sứ điệp Urbi et Orbi, gởi dân thành Rôma và Thế giới.
Mở đầu sứ điệp Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
“Chúng ta hãy cùng hân hoan trong Chúa, vì Đấng Cứu Thế của chúng ta đã giáng sinh xuống thế gian. Hôm nay, hòa bình đích thực đã từ trời xuống thế cho chúng ta” (Bài ca nhập lễ, Thánh lễ Giáng sinh ban đêm). Phụng vụ đêm Giáng sinh vang lên như thế, và lời loan báo từ Bêlem vang vọng trong Giáo hội: Hài nhi hạ sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria là Chúa Kitô, được Chúa Cha phái đến để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Thật vậy, Ngài là bình an của chúng ta; Ngài đã chiến thắng hận thù và thù địch nhờ tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Vì lý do này, “biến cố giáng sinh của Chúa là sự ra đời của hòa bình” (Thánh Leo Cả, Bài giảng 26).
Chúa Giêsu sinh ra trong một chuồng gia súc vì không có chỗ cho Ngài trong quán trọ. Ngay khi Ngài chào đời, mẹ Ngài là bà Maria “đã quấn Ngài trong tã lót và đặt Ngài trong máng cỏ” (xem Lc 2:7). Con Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng muôn vật, đã không được chào đón, và một máng cỏ nghèo nàn dành cho động vật đã trở thành nôi của Ngài.
Ngôi Lời vĩnh hằng của Chúa Cha, Đấng mà cả trời đất cũng không thể chứa đựng, đã chọn đến thế gian theo cách này. Vì tình yêu thương, Ngài muốn được sinh ra bởi một người phụ nữ để chia sẻ nhân tính của chúng ta; cũng vì tình yêu thương, Ngài chấp nhận sự nghèo khó và bị ruồng bỏ, đồng cảm với những người bị bỏ rơi và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Ngay từ khi Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta đã thấy được quyết định cơ bản sẽ hướng dẫn toàn bộ cuộc đời của Con Thiên Chúa, cho đến khi Ngài chết trên thập tự giá: đó là quyết định không để chúng ta gánh chịu gánh nặng tội lỗi, mà tự mình gánh lấy nó cho chúng ta. Chỉ mình Ngài mới có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, đồng thời, Ngài cũng chỉ cho chúng ta thấy điều mà chỉ riêng chúng ta mới có thể làm được, đó là gánh vác phần trách nhiệm của mình. Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng chúng ta mà không cần đến chúng ta, sẽ không cứu rỗi chúng ta nếu không có chúng ta (xem Thánh Augustinô, Bài giảng 169, 11, 13), nghĩa là không có ý chí tự do yêu thương của chúng ta. Những ai không yêu thương thì không được cứu rỗi; họ sẽ bị hư mất. Và những ai không yêu thương anh chị em mình mà họ nhìn thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng mà họ không nhìn thấy (xem 1 Ga 4:20).
Thưa anh chị em, trách nhiệm là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình. Nếu tất cả chúng ta, ở mọi cấp độ, ngừng đổ lỗi cho người khác và thay vào đó thừa nhận lỗi lầm của chính mình, cầu xin Chúa tha thứ, và nếu chúng ta thực sự chia sẻ nỗi đau khổ của người khác và đứng về phía những người yếu thế và bị áp bức, thì thế giới sẽ thay đổi.
Chúa Giêsu Kitô trước hết là sự bình an của chúng ta bởi vì Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và cũng bởi vì Ngài chỉ cho chúng ta con đường để vượt qua mọi xung đột — tất cả mọi thứ xung đột, dù là giữa cá nhân hay quốc tế. Nếu không có một trái tim được giải thoát khỏi tội lỗi, một trái tim đã được tha thứ, chúng ta không thể là những người yêu chuộng hòa bình hay những người xây dựng hòa bình. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu sinh ra ở Bê-lem và chết trên thập tự giá: để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhờ ân sủng của Ngài, mỗi người chúng ta có thể và phải làm phần việc của mình để bác bỏ hận thù, bạo lực và sự chống đối, và thực hành đối thoại, hòa bình và hòa giải.
Nhân ngày lễ này, tôi muốn gửi lời chào ấm áp và đầy tình phụ tử đến tất cả các tín hữu Kitô, đặc biệt là những người đang sinh sống tại Trung Đông, những người mà tôi vừa đến thăm trong chuyến tông du đầu tiên của mình. Tôi đã lắng nghe những nỗi sợ hãi của họ và hiểu rõ cảm giác bất lực của họ trước những thế lực đầy quyền lực đang đè nặng lên họ. Hài nhi sinh ra hôm nay tại Bêlem chính là Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Trong Ta, các con sẽ có bình an; trong thế gian, các con sẽ gặp hoạn nạn; nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban công lý, hòa bình và ổn định cho Li-băng, Palestine, Israel và Syria, tin tưởng vào những lời thiêng liêng này: “Hoa trái của sự công chính sẽ là hòa bình, và sự nghiệp của sự công chính sẽ là cảnh thái bình và tin cậy đời đời” (Is 32:17).
Chúng ta hãy phó thác toàn bộ lục địa Âu Châu cho Hoàng tử Hòa bình, cầu xin Ngài tiếp tục truyền cảm hứng cho tinh thần cộng đồng và hợp tác, trung thành với cội nguồn và lịch sử Kitô giáo, và trong tình đoàn kết – và chấp nhận – những người đang cần giúp đỡ. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho người dân Ukraine đang bị giày vò: xin cho tiếng súng và bom đạn chấm dứt, và xin cho các bên liên quan, với sự hỗ trợ và cam kết của cộng đồng quốc tế, tìm được can đảm để tham gia vào cuộc đối thoại chân thành, trực tiếp và tôn trọng.
Hướng đến hài nhi Bêlem, chúng ta hãy cầu xin hòa bình và sự an ủi cho các nạn nhân của tất cả các cuộc chiến tranh hiện nay trên thế giới, đặc biệt là những người bị lãng quên, và cho những người đang đau khổ vì bất công, bất ổn chính trị, đàn áp tôn giáo và khủng bố. Tôi đặc biệt tưởng nhớ đến anh chị em của chúng ta ở Sudan, Nam Sudan, Mali, Burkina Faso và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Trong những ngày cuối cùng của Đại lễ Hy vọng này, chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa làm người cho dân tộc Haiti yêu dấu, xin cho mọi hình thức bạo lực trong nước chấm dứt và xin cho tiến trình hòa bình và hòa giải được thực hiện.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng soi sáng những người đang nắm giữ trách nhiệm chính trị ở Mỹ Latinh, để khi đối mặt với vô số thách thức, họ có thể dành chỗ cho đối thoại vì lợi ích chung, thay vì những định kiến về ý thức hệ và đảng phái.
Chúng ta hãy cầu xin Hoàng tử Hòa bình soi sáng Miến Điện bằng ánh sáng của một tương lai hòa giải, khôi phục hy vọng cho các thế hệ trẻ, dẫn dắt toàn thể nhân dân trên con đường hòa bình, và đồng hành cùng những người đang sống không nhà cửa, không an ninh và không niềm tin vào tương lai.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa khôi phục lại tình hữu nghị lâu đời giữa Thái Lan và Campuchia, và xin cho các bên liên quan sẽ tiếp tục nỗ lực hướng tới sự hòa giải và hòa bình.
Chúng ta cũng phó thác cho Chúa các dân tộc ở Nam Á và Châu Đại Dương, những người đã phải trải qua những thử thách nặng nề do các thảm họa thiên nhiên tàn khốc gần đây gây ra, ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng. Trước những thử thách như vậy, tôi kêu gọi mọi người hãy tái khẳng định, với lòng tin sâu sắc, cam kết chung của chúng ta trong việc giúp đỡ những người đang đau khổ.
Kính thưa anh chị em, trong bóng đêm chập chùng, “ánh sáng thật, soi sáng mọi người, đã đến thế gian” (Ga 1:9), nhưng “dân riêng của Ngài không tiếp nhận Ngài” (Ga 1:11). Chúng ta đừng để mình bị chế ngự bởi sự thờ ơ đối với những người đau khổ, vì Thiên Chúa không thờ ơ trước nỗi khổ của chúng ta.
Khi trở thành người, Chúa Giêsu đã mang lấy sự yếu đuối của chúng ta, đồng cảm với mỗi người trong chúng ta: với những người không còn gì và đã mất tất cả, như cư dân Gaza; với những người đang phải chịu đựng nạn đói và nghèo khổ, như người dân Yemen; với những người đang chạy trốn khỏi quê hương để tìm kiếm tương lai ở nơi khác, như nhiều người tị nạn và người di cư vượt Địa Trung Hải hoặc đi khắp lục địa Mỹ Châu; với những người đã mất việc và những người đang tìm việc làm, như rất nhiều người trẻ đang chật vật tìm việc; với những người bị bóc lột, như nhiều công nhân bị trả lương thấp; với những người trong tù, những người thường sống trong điều kiện vô nhân đạo.
Lời cầu nguyện hòa bình vang vọng từ mọi miền đất đều chạm đến trái tim Chúa, như một nhà thơ đã viết:
“Không phải là hòa bình của một lệnh ngừng bắn,
Thậm chí cả hình ảnh con sói và con cừu cũng không phải.
nhưng đúng hơn là
như trong tim khi sự phấn khích đã qua đi.
và bạn chỉ có thể nói về sự mệt mỏi tột độ…
Hãy để nó đến
giống như hoa dại,
bất ngờ, bởi vì cánh đồng
phải có nó: hòa bình hoang dã.” [1]
Trong ngày thánh này, chúng ta hãy mở rộng tấm lòng mình đến với anh chị em đang cần giúp đỡ hoặc đang đau khổ. Khi làm như vậy, chúng ta mở rộng tấm lòng mình đến với Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng chào đón chúng ta bằng vòng tay rộng mở và tỏ bày thần tính của Ngài cho chúng ta: “Nhưng đối với tất cả những ai tiếp nhận Ngài… Ngài ban cho quyền trở thành con cái Thiên Chúa” (Ga 1:12).
Chỉ vài ngày nữa thôi, Năm Thánh sẽ kết thúc. Các Cửa Thánh sẽ đóng lại, nhưng Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, vẫn luôn ở cùng chúng ta! Ngài là Cửa luôn rộng mở, dẫn chúng ta vào đời sống thần thánh. Đây là lời loan báo vui mừng của ngày hôm nay: Hài nhi vừa sinh ra là Thiên Chúa nhập thể; Ngài đến không phải để kết án mà để cứu rỗi; sự hiện diện của Ngài không phải là thoáng qua, vì Ngài đến để ở lại và hiến dâng chính mình. Trong Ngài, mọi vết thương đều được chữa lành và mọi trái tim đều tìm thấy sự nghỉ ngơi và bình an. “Sự giáng sinh của Chúa là sự ra đời của hòa bình.”
Tôi xin gửi đến tất cả các bạn những lời chúc tốt đẹp nhất cho một mùa Giáng sinh an lành và hạnh phúc!
______________________________________
[1] Y. Amichai, “Wildpeace”, trong Thơ của Yehuda Amichai, Farrar, Straus và Giroux, 2015.
Source:Dicastery for Communication - Libreria Editrice Vaticana

Elise Ann Allen, trong bản tin ngày 25 tháng 12 năm 2025 của Crux, tường trình rằng:
Vào ngày Giáng sinh, Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã đưa ra lời kêu gọi thay mặt cho những người tị nạn và những người phải di dời, bao gồm cả ở Gaza, nói rằng hòa bình được ban cho thế giới khi Chúa Giêsu giáng sinh được tìm thấy trong việc thể hiện tình liên đới với người khác.
Trong bài giảng ngày 25 tháng 12, Đức Giáo Hoàng nói rằng “kể từ khi Ngôi Lời nhập thể, nhân loại giờ đây lên tiếng, kêu gọi với chính khát vọng của Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta. Ngôi Lời đã dựng lều mong manh của Người giữa chúng ta.”
“Vậy thì, làm sao chúng ta không nghĩ đến những túp lều ở Gaza, phơi mình dưới mưa, gió và cái lạnh suốt nhiều tuần; và đến những túp lều của biết bao người tị nạn và người di cư khác trên mọi lục địa; hay những nơi trú ẩn tạm bợ của hàng ngàn người vô gia cư trong chính các thành phố của chúng ta?”
Suy gẫm về sự mong manh của hài nhi Giê-su, ngài nói rằng sự mong manh này cũng được thấy trong “thân xác của những người dân không có khả năng tự vệ, bị thử thách bởi biết bao cuộc chiến tranh, đang diễn ra hoặc đã kết thúc, để lại phía sau những đống đổ nát và những vết thương hở.”
Ngài nói: “Thật mong manh là tâm trí và cuộc sống của những người trẻ tuổi bị buộc phải cầm vũ khí, những người ở tiền tuyến cảm nhận được sự vô nghĩa của những gì được yêu cầu ở họ và những lời dối trá lấp đầy những bài phát biểu khoa trương của những kẻ đẩy họ đến cái chết”.
Đức Leo nói: Khi sự mong manh và dễ bị tổn thương của những người đang đau khổ thấm sâu vào tâm trí và chạm đến trái tim, “khi nỗi đau của họ phá vỡ những niềm tin chắc chắn cứng ngắc của chúng ta, thì hòa bình đã bắt đầu rồi”.
Ngài nói: “Hòa bình của Thiên Chúa được sinh ra từ tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh được chào đón, từ tiếng khóc được lắng nghe. Nó được sinh ra giữa những đổ nát đang kêu gọi những hình thức liên đới mới. Nó được sinh ra từ những giấc mơ và thị kiến, giống như những lời tiên tri, đảo ngược dòng chảy lịch sử”.
Đức Giáo Hoàng Leo đã đưa ra lời kêu gọi này trong Thánh lễ Giáng sinh sáng tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, sau khi cử hành Thánh lễ vọng nửa đêm cho khoảng 6,000 tín hữu vào đêm trước Giáng sinh.
Sau Thánh lễ sáng, ngài cũng sẽ ban phước lành Urbi et Orbi truyền thống vào buổi trưa Giáng sinh.
Trong bài giảng ngày Giáng sinh, Đức Giáo Hoàng Leo XIV nói rằng với sự giáng sinh của Chúa Giêsu vào dịp Giáng sinh, chính thế giới được tái sinh và với tư cách là Kitô hữu, “Chúng ta cũng là một phần của sự khởi đầu mới này, ngay cả khi ít người tin điều đó: hòa bình là có thật, và nó đã ở giữa chúng ta rồi.”
Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể, ngài nói, và “Ngôi Lời” này là “một ngôi lời hành động.”
“Đây là dấu ấn đặc trưng của Lời Chúa: Lời Chúa không bao giờ vô hiệu. Thật vậy, nhiều lời nói của chúng ta cũng có tác động, đôi khi là ngoài ý muốn,” ông nói.
Đức Giáo Hoàng Leo lưu ý rằng, một cách nghịch lý, Chúa Giêsu đến thế gian với tư cách là Lời Chúa, nhưng không thể nói, Người chọn đến “như một hài nhi sơ sinh chỉ biết khóc và bập bẹ.”
Ngài nói: “Mặc dù Người sẽ lớn lên và một ngày nào đó học được ngôn ngữ của dân Người, nhưng hiện tại Người chỉ nói qua sự hiện diện đơn giản, mong manh của mình”.
Đức Giáo Hoàng nói: Thân xác mà Chúa Giêsu đã mang lấy “chính là sự trần trụi triệt để mà, ở Bê-lem cũng như trên đồi Can-va, vẫn còn đó ngay cả khi không có lời nói – giống như rất nhiều anh chị em, bị tước đoạt phẩm giá và bị buộc phải im lặng, ngày nay không có lời nào để nói”.
Ngài cho hay: “Thân xác con người cần được chăm sóc; nó cầu xin sự chào đón và công nhận; nó tìm kiếm những bàn tay có khả năng dịu dàng và những tâm trí sẵn sàng lắng nghe; nó khao khát những lời nói tử tế”.
Là người luôn đề cao phẩm giá con người như một dấu ấn trong suốt thừa tác vụ linh mục, giám mục và thời gian ngắn làm giáo hoàng của mình, Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng Chúa Giêsu đã mang lại hòa bình cho thế giới bằng sự nhập thể của Người, nhưng nhân loại phải đón nhận và chấp nhận điều đó để trở thành con cái đích thực của Thiên Chúa.
Ngài nói: “Món quà của Thiên Chúa mời gọi chúng ta; nó tìm kiếm sự đón nhận và, đến lượt mình, truyền cảm hứng cho sự hiến dâng bản thân của chúng ta. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì Người để cho mình bị từ chối. Người cũng quyến rũ chúng ta bởi vì Người kéo chúng ta ra khỏi sự thờ ơ.”
Về vấn đề này, Đức Giáo Hoàng nói rằng trở thành con cái của Thiên Chúa là “một sức mạnh đích thực” có thể thay đổi thế giới thông qua hành động và tình liên đới.
Tuy nhiên, sức mạnh này “vẫn bị chôn vùi chừng nào chúng ta còn giữ khoảng cách với tiếng khóc của trẻ em và sự yếu đuối của người già, với sự im lặng bất lực của các nạn nhân và nỗi buồn cam chịu của những người làm điều ác mà họ không muốn”.
Đức Giáo Hoàng Leo đã trích dẫn tông huấn đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô năm 2013, Evangelii Gaudium, khi nói về niềm vui của Tin Mừng, được ban vào dịp Giáng Sinh, rằng: “Đôi khi chúng ta bị cám dỗ trở thành kiểu Kitô hữu giữ khoảng cách với những vết thương của Chúa.”
Tuy nhiên, Chúa Giêsu “muốn chúng ta chạm vào nỗi khổ đau của con người, chạm vào thân xác đau đớn của người khác,” ngài nói. “Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ ngừng tìm kiếm những nơi trú ẩn cá nhân hoặc cộng đồng che chở chúng ta khỏi cơn lốc bất hạnh của con người và thay vào đó bước vào thực tại cuộc sống của người khác và biết sức mạnh của sự dịu dàng.”
Hòa bình, Đức Giáo Hoàng Leo nói, do đó hàm ý sự liên đới với những người đang đau khổ và không có khả năng tự vệ, bao gồm cả…những người tị nạn và người di cư, bất chấp những trở ngại và sự kháng cự có thể tồn tại.
Đức Giáo Hoàng nói: “Tin Mừng không che giấu sự kháng cự của bóng tối đối với ánh sáng. Nó mô tả con đường của Lời Chúa như một con đường gập ghềnh, đầy rẫy chướng ngại vật”.
Những ai muốn trở thành sứ giả đích thực của hòa bình Chúa phải đi theo con đường chào đón và liên đới này, ngài nói, cho biết: đây là con đường “cuối cùng chạm đến trái tim – những trái tim bất an thường khao khát chính điều mà chúng chống lại.”
“Bằng cách này, Lễ Giáng Sinh mang lại động lực mới cho một Giáo Hội truyền giáo, thúc giục Giáo Hội bước đi trên những con đường mà Lời Chúa đã vạch ra cho Giáo Hội,” ngài nói, nhấn mạnh rằng Chúa không “thống trị” và mạnh mẽ trong việc áp đặt con đường này, mà đúng hơn là “truyền cảm hứng cho lòng tốt, biết tính hiệu năng của nó và không độc quyền về nó.”
Sứ mệnh cốt lõi của Giáo Hội là “con đường hướng đến người khác,” Đức Giáo Hoàng Leo nói, cho biết, “Trong Chúa, mỗi lời đều là một lời được nói ra; đó là một lời mời gọi trò chuyện, một lời không bao giờ khép kín.”
Đức Giáo Hoàng nói rằng đây là sự đổi mới được thúc đẩy bởi Công đồng Vatican II, và “chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu chúng ta cùng bước đi với toàn thể nhân loại, không bao giờ tách mình khỏi họ.”
Ngược lại với điều này, ngài nói, “là tính thế tục: đặt bản thân làm trung tâm.”
Vì vậy, theo Đức Leo, sự nhập thể của Chúa Giêsu vào dịp Giáng sinh không chỉ là một lời mời gọi, mà còn là lời kêu gọi hoán cải. Ngài nói “sẽ có hòa bình khi những cuộc độc thoại của chúng ta ngưng lại và, được làm giàu bởi sự lắng nghe, chúng ta quỳ gối trước nhân tính của người khác.”
Ngài nói: “Trong điều này, Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Giáo hội, Ngôi sao của việc truyền giáo, Nữ hoàng Hòa bình. Nơi Mẹ, chúng ta hiểu rằng không có gì được sinh ra từ sự phô trương sức mạnh, và mọi thứ được tái sinh từ sức mạnh thầm lặng của sự sống được đón nhận”.
Lan Vy: Để hiểu rõ hơn về đời sống và sứ vụ của các linh mục truyền giáo tại Papua New Guinea, chúng con xin thực hiện buổi phỏng vấn này nhằm lắng nghe những chia sẻ về kinh nghiệm truyền giáo, những niềm vui và thử thách trong công cuộc phục vụ dân Chúa nơi vùng truyền giáo. Qua những chia sẻ này, chúng con hy vọng có thể học hỏi thêm về sứ vụ rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu đã đặt trên đôi vai của Giáo Hội trước khi Ngài về trời.
Điều gì đã truyền cảm hứng cho cha trở thành một linh mục truyền giáo, và đâu là lý do cha được sai đến phục vụ tại Papua New Guinea?
Thời còn đi học dưới mái trường chủng viện, tôi mơ ước được gửi tới Phi Châu sinh hoạt sứ vụ với người dân của vùng đất nắng cháy. Tôi sau cùng được gởi tới sinh hoạt mục vụ thực tập hằng tuần với người dân, ngôn ngữ phổ thông gọi Mỹ da đen ở Nam Chicago rồi Indiapolis, hai khu vực ghetto, đêm đêm án mạng xảy ra, cảnh sát da trắng không dám hoặc ngần ngại bước vào. Tại hai nơi này, Nam Chicago và Indianapolis, tôi dạy học. Sau cùng tôi trôi nổi tới Melbourne dạy học, rồi sa mạc Úc Châu, sinh hoạt với Thổ dân Úc Châu.
Sau cùng năm 2016, Ngôi Lời gửi tôi sang Philippines học Tiến sĩ Thần Học chuyên ngành Truyền Giáo tại: Học Viện Truyền Giáo Ngôi Lời, Divine Word Institute of Mission Studies. Năm 2020, tôi ra trường. Khi đó, tôi có 4 chọn lựa, hoặc về lại Mỹ, hoặc Việt Nam, hoặc ở lại Philippines hoặc Papua New Guinea để dạy học. Tôi suy nghĩ, cầu nguyện, cuối cùng tôi chọn Papua New Guinea. Năm 2022 tôi đặt chân lên đảo quốc Papua New Guinea dạy học tại Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành. 3 năm trôi qua, tôi giờ này vẫn đang miệt mài và rộn ràng với sứ vụ ông giáo tại vùng cao nguyên Mt. Hagen của Papua New Guinea.
Lan Vy: Những kinh nghiệm ý nghĩa nhất và những khó khăn lớn nhất mà cha đã gặp phải trong sứ vụ truyền giáo tại đây là gì?
Lm. Nguyễn Trung Tây: Tôi nhớ ngày mới tới, đặt chân lên phi trường thủ đô Port Moresby, tôi khám phá ra phi trường quốc tế không có free internet như những phi trường quốc tế khác. Tôi lúng túng rất nhiều để liên lạc với nhà dòng Ngôi Lời ở thủ đô. Sau cùng, tôi cũng về tới nhà chính của Ngôi Lời ở thủ đô. Trời thủ đô vùng xích đạo quanh năm nóng cháy da thịt. Tôi mơ ước được tắm mát. Nhưng cha Giám đốc báo tôi biết nước bị cúp, không có nước. Trời nóng, tôi bật quạt nằm nghỉ trưa. Bất ngờ, tôi bị đánh thức dậy bởi người ẩm ướt mồ hôi. Hóa ra điện đã cúp, quạt trần đã ngừng quay. Lần đầu tiên trong đời sứ vụ, tôi nếm mùi của ba chữ không, không internet, không nước, không điện.Nhưng tôi cũng tự an ủi, đời sứ vụ là thế, thử thách là những nhân vật thường xuyên xuất hiện hỏi thăm. Thế là tôi lấy ghế ra ngồi trước cửa phòng hóng những cơn gió mát hiếm hoi của vùng xích đạo. Nhưng thật bất ngờ, quân đoàn muỗi loại sọc đen trắng ở đâu bay tới, tấn công tới tấp...
Tôi đành phải đi ra đường, đi bộ dọc theo hai bên hàng cây xanh ngóng chờ những cơn gió. Vừa đi bộ tôi vừa thầm nghĩ. “Chết rồi, I really make a big mistake”... Quân ta chọn lầm đường sứ vụ rồi. Không internet, không nước, không điện mà trời xích đạo dư thừa những cơn cháy xám da, và muỗi. Sao mà sống?
Đang đắm chìm với dòng tư tưởng bi quan, tôi bất chợt thấy mấy em bé PNG đi bộ trên đường hướng ngược lại. Mấy em nhìn tôi chăm chú, miệng nở nụ cười thật tươi. Thấy tôi, mấy em mở miệng chào trước, “Apinun.” Tôi cũng chào lại trong tiếng Anh, “Good afternoon.” Mấy em bé PNG trưa hôm đó đã dạy tôi tiếng TokPisin đầu tiên trong đời, Apinun, có nghĩa là chào buổi chiều. Nụ cười của mấy em, nét thân thiện, và ngôn ngữ TokPisin bất ngờ là những hạt nước mát vào buổi trưa nắng gắt xích đạo ngày hôm đó.
Ngày đầu tiên trên vùng đất PNG với nhiều bất ngờ vẫn còn ghi đậm trong tôi.
Giờ này, ba năm rồi, vùng đất cao nguyên nơi tôi đang sinh hoạt sứ vụ vẫn thế, vẫn chập chờn internet, vẫn điện cúp thường xuyên, vẫn cúp điện dẫn tới máy bơm nước không hoạt động, thế là không nước. Một vòng tròn sinh hoạt thường nhật với ba chữ không, không điện, không internet, không nước.
Nhưng riết rồi thành quen, ba chữ không đã trở thành một phần sứ vụ của riêng cá nhân của tôi tại PNG.
Tôi nhớ hồi mới tới sinh hoạt tại Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành, tôi thấy nhiều Thầy rõ ràng sáng không tắm. Tôi trong lớp nói nửa đùa nửa thật, “Thầy nào mà sáng không tắm, đánh răng, sáng không cho vào lớp...” Một thời gian ngắn thôi, riêng cá nhân tôi, tôi có những buổi sáng rửa mặt và đánh răng tằn tiện chỉ qua một ly nước, và các Thầy chiều chiều sau khi chơi banh dẫn nhau ra suối gần nhà tắm. Tôi thôi không nói gì. Tôi biết, mình thiệt tình là tào lao!
Lan Vy: Cha đã làm thế nào để hội nhập văn hóa và truyền thống địa phương vào mục vụ và công cuộc loan báo Tin Mừng?
Lm. Nguyễn Trung Tây: Thật sự ra tôi cũng không làm điều gì khác hơn ngoài tâm niệm: xin chọn và đi theo mẫu hình sứ vụ của Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.Ngôi Lời hồi đó Ngài từ bỏ thiên tính, hội nhập trần gian trong một nền văn hóa cụ thể, văn hóa Do Thái. Vào thế kỷ thứ nhất CN, văn hóa Do Thái là văn hóa ăn bánh mì, uống rượu đỏ. Bởi thế Đức Giêsu ăn bánh mì và uống rượu đỏ trong các bữa ăn thường nhật. Truyền thống Do Thái vào ngày Sabath, người ta đi tới hội đường cầu nguyện, Đức Giêsu cũng thế, Ngài tới hội đường Do Thái như bao nhiêu người Do Thái khác. Nơi đây, theo như thánh Luca, Ngài đã phát đi bản tuyên ngôn về năm Hồng Ân của Thiên Chúa tới người dân đương thời, tù nhân được giải thoát khỏi xiềng xích, người mù sẽ thấy, người bị đàn áp sẽ được trả tự do.
Bởi lấy mẫu hình Đức Giêsu Sứ Vụ làm chuẩn, khi sinh hoạt mục vụ với người dân cao nguyên của văn hóa ăn khoai lang và rau củ quả, tôi cũng ngồi ăn khoai lang như người dân PNG, cũng ăn rau củ quả và lương thực địa phương như người địa phương PNG, món Marata lá đỏ như son, món Sago, bột nấu tương tự bánh Đúc. Tôi cũng học tiếng địa phương TokPisin, ngôn ngữ của người PNG để chia sẻ với người dân địa phương một bản Tin Mừng trong ngôn ngữ địa phương.
Tôi bởi thế hay tự xưng là ông giáo khoai lang. Một số thân hữu thắc mắc hỏi tôi, ăn khoai lang không ngán hay sao? Tôi thì nghĩ đơn giản, có khoai lang ăn là vui rồi.
Bàn về chủ đề này, tôi nhớ tôi có viết một đoạn về hội nhập văn hóa trong bài Đêm Nghịch Lý, “Hoàng Tử thiên đàng, thời đó, hội nhập văn hóa địa cầu, và ngài kính trọng văn hóa trần gian. Ngài không hề bịt mũi, cất tiếng chê bai nước mắm, nhưng ngài ngồi với người nghèo trong lều tranh chấm cà pháo với mắm tôm”
Làm thế nào để hội nhập văn hóa? Nói ngắn gọn, người dân địa phương sống sao, tôi cũng xin được sống như vậy.
Lan Vy: Cha nhắc tới sứ vụ ở PNG. Sứ vụ ở vùng cao nguyên PNG của cha là sứ vụ gì vậy?
Lm. Nguyễn Trung Tây: Tôi, gần 3 năm rồi, sinh hoạt tại Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành thuộc Tổng Địa Phận Mt. Hagen. Tôi dạy Kinh Thánh, Thần Học, và Nhân Chủng Học. Tôi hiện đang giữ chức vụ Dean of Studies của Đại Chủng Viện.Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành có 5 lớp, Triết Dự Bị, Triết 1, Triết 2, Triết 3, và Triết 4. Năm nay Đại Chủng Viện có 111 Thầy của hơn 19 địa phận. Tất cả đều là người PNG của những vùng miền khác nhau. Họ nói ngôn ngữ địa phương. Tiếng TokPisin là tiếng PNG và tiếng Anh. Trong trường, chúng tôi dạy trong tiếng Anh.
Lan Vy: Việc phục vụ dân Chúa tại Papua New Guinea đã làm sâu sắc thêm hay biến đổi đời sống đức tin và ơn gọi linh mục truyền giáo của cha như thế nào?
Tôi nhớ tới Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng chương 49 của Đức Thánh Cha Phanxicô, “Tôi muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường.” Và Ngài cũng đã từng nhắn nhủ, “chủ chiên phải mang đậm mùi chiên.” Tôi rời bỏ khu vực an toàn, Hoa Kỳ, Úc Châu, Philippines và Việt nam để lên đường trăn trở với thế giới, đồng thời chia sẻ một bản Tin Vui. Hồi đó chiên Thổ dân Úc Châu du mục trong sa mạc Úc Châu. Tôi cũng du mục như họ, lái xe tới từng bản làng trong một khu vực sa mạc rộng mênh mông. Giờ này chiên PNG đậm mùi khoai lang, cho nên tôi cũng đậm mùi khoai lang.Và bởi miệt mài đi theo bước chân của Đức Giêsu Truyền Giáo, tôi ngày càng thêm mê Ngài. Tôi thích Đức Giêsu bởi Ngài dám lên tiếng bênh vực người cô thế, những người bị đẩy gạt sang bên lề đường, những người mà chuẩn mực xã hội lên án, coi thường. Như lời của tuyên ngôn Hồng Ân Ngài đã từng công bố, Đức Giêsu Sứ Vụ luôn luôn bỏ lại sau lưng 99 con chiên công chính để đi tìm chỉ một con chiên lạc.
Đặc biệt tôi thích Đức Giêsu, bởi Ngài biết nếu dẹp nồi cơm ở Đền Thờ của giới lãnh đạo Do Thái, Ngài sẽ gặp hiểm nguy... Biết là thế, nhưng, ngài vẫn làm.
Đặc biệt hơn nữa, càng sống cuộc sống sứ vụ Ngôi Lời, đặc biệt ở những nơi gặp nhiều khó khăn về đời sống vật chất, tôi lại càng thấy rõ thêm ý nghĩa cuộc sống của riêng mình, tôi cảm nghiệm sâu xa hơn nữa về những chặng đường dài tôi đã đi qua.
Tôi nhớ, vào một buổi tối tháng 10 năm 1982, tại Rạch Sỏi của tỉnh Rạch Giá, tôi bước chân xuống thuyền gỗ. Sau 4 ngày vật lộn với sóng biển, hải tặc Thái Lan, những người con gái thanh xuân bị hạ nhục ngay trên khoang thuyền nhỏ, thuyền viễn xứ của tôi dừng chân tại bến Marang của Malaysia. Từ đó tôi trở thành người vô tổ quốc (displaced person), hàng chữ ghi đậm trên tấm thẻ căn cước tỵ nạn của tôi. Sau gần hai năm sống đời tỵ nạn tại Pulau Bidong rồi Bataan, tôi đặt chân lên Thung Lũng Hoa Vàng San Jose. Tôi đi học, tốt nghiệp ra trường tại San Jose State University. Rồi gia nhập ơn gọi, thoạt tiên là địa phận San Diego, sau là Ngôi Lời tại Chicago. Sau cùng tôi thiên di sang Úc Châu dạy học, rồi 4 năm miệt mài sinh hoạt với Thổ Dân Úc Châu, rồi 5 năm đèn sách tại Tagaytay Philippines, và giờ này ơn gọi sứ vụ tại Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành tại Papua New Guinea.
Tôi thấy tôi đã đi một chặng đường dài dưới đôi tay nâng đỡ của Đức Giêsu Truyền Giáo và Chúa Thánh Linh. Tôi thấy dù là ông giáo bán mắm ở Melbourne hay là ông giáo khoai lang ở Papua New Guinea, tôi vẫn thế, vẫn rộn ràng và hăm hở đi tới, lần theo vết chân của Ngài, Đấng đã đến, để trần gian sống tràn đầy và sống sung mãn. Đấng đã lấm lem để trần thế bớt đi những dấu lấm lem vừa tinh thần vừa vật chất.
Lan Vy: Cha muốn nhắn gửi điều gì đến những người đang tìm hiểu về ơn gọi truyền giáo hôm nay hay không?
Lm. Nguyễn Trung Tây: Vâng, tôi xin được kính gửi tới tất cả những người Việt Nam, những tín hữu Kitô và đặc biệt, những bạn trẻ đang đi tìm một lối đi cho riêng mình. Xin chọn Đức Giêsu làm hình mẫu, một chuẩn mực, một idol, một celebrity của riêng mình. Xin nhìn nhân gian trong đôi mắt của Đức Giêsu, lắng nghe qua đôi tai của Ngài, nói những lời như Ngài, để trần thế bớt đi những hạt nước mắt tủi hờn và những vết thương tâm hồn chưa bao giờ xuất hiện da non.Bởi thế, kính mời cộng đoàn dân Chúa, chúng ta cùng rời bỏ khu vực an toàn, lên đường để lắng nghe và trăn trở với tha nhân trên những nẻo đường trong giáo xứ, trong thành phố, như Ngôi Lời đã từng rời bỏ thiên đàng, từ bỏ thiên tính, để trở nên “một người... cho muôn người”.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cám ơn tới tất cả những người yêu mến ông giáo Nguyễn Trung Tây từ bao lâu nay. Tôi trân trọng và quý mến những thân hữu thường xuyên ghé vào quán nước đầu làng Facebook Michael Quang Nguyễn-Nguyễn Trung Tây gửi riêng tới tôi những lời động viên. Xin Đức Giêsu, Đấng đã chết đi nhưng sống lại, đổ đầy hồng ân và sức khỏe tới quý vị.
Lan Vy: Chúng con chân thành cảm ơn cha đã dành thời gian quý báu để chia sẻ những kinh nghiệm sống động và sâu sắc về hành trình truyền giáo tại Papua New Guinea. Những lời chia sẻ của cha không chỉ giúp chúng con hiểu rõ hơn về thực tế sứ vụ nơi vùng truyền giáo, mà còn là nguồn cảm hứng cho chúng con trong việc nuôi dưỡng đức tin, lòng can đảm và tinh thần phục vụ vô vị lợi. Nguyện xin Thiên Chúa tiếp tục ban muôn ơn lành để cha luôn trung thành và nhiệt thành trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình.
Lúc 12g trưa ngày Lễ Giáng Sinh 25/12, dưới trời mưa lâm râm, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ban phép lành kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông mới, miễn là họ giữ các qui tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.
Từ bao lơn chính giữa đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đọc sứ điệp Urbi et Orbi, gởi dân thành Rôma và Thế giới.
Mở đầu sứ điệp Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến,
“Chúng ta hãy cùng hân hoan trong Chúa, vì Đấng Cứu Thế của chúng ta đã giáng sinh xuống thế gian. Hôm nay, hòa bình đích thực đã từ trời xuống thế cho chúng ta” (Bài ca nhập lễ, Thánh lễ Giáng sinh ban đêm). Phụng vụ đêm Giáng sinh vang lên như thế, và lời loan báo từ Bêlem vang vọng trong Giáo hội: Hài nhi hạ sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria là Chúa Kitô, được Chúa Cha phái đến để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Thật vậy, Ngài là bình an của chúng ta; Ngài đã chiến thắng hận thù và thù địch nhờ tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Vì lý do này, “biến cố giáng sinh của Chúa là sự ra đời của hòa bình” (Thánh Leo Cả, Bài giảng 26).
Chúa Giêsu sinh ra trong một chuồng gia súc vì không có chỗ cho Ngài trong quán trọ. Ngay khi Ngài chào đời, mẹ Ngài là bà Maria “đã quấn Ngài trong tã lót và đặt Ngài trong máng cỏ” (xem Lc 2:7). Con Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng muôn vật, đã không được chào đón, và một máng cỏ nghèo nàn dành cho động vật đã trở thành nôi của Ngài.
Ngôi Lời vĩnh hằng của Chúa Cha, Đấng mà cả trời đất cũng không thể chứa đựng, đã chọn đến thế gian theo cách này. Vì tình yêu thương, Ngài muốn được sinh ra bởi một người phụ nữ để chia sẻ nhân tính của chúng ta; cũng vì tình yêu thương, Ngài chấp nhận sự nghèo khó và bị ruồng bỏ, đồng cảm với những người bị bỏ rơi và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Ngay từ khi Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta đã thấy được quyết định cơ bản sẽ hướng dẫn toàn bộ cuộc đời của Con Thiên Chúa, cho đến khi Ngài chết trên thập tự giá: đó là quyết định không để chúng ta gánh chịu gánh nặng tội lỗi, mà tự mình gánh lấy nó cho chúng ta. Chỉ mình Ngài mới có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, đồng thời, Ngài cũng chỉ cho chúng ta thấy điều mà chỉ riêng chúng ta mới có thể làm được, đó là gánh vác phần trách nhiệm của mình. Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng chúng ta mà không cần đến chúng ta, sẽ không cứu rỗi chúng ta nếu không có chúng ta (xem Thánh Augustinô, Bài giảng 169, 11, 13), nghĩa là không có ý chí tự do yêu thương của chúng ta. Những ai không yêu thương thì không được cứu rỗi; họ sẽ bị hư mất. Và những ai không yêu thương anh chị em mình mà họ nhìn thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng mà họ không nhìn thấy (xem 1 Ga 4:20).
Thưa anh chị em, trách nhiệm là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình. Nếu tất cả chúng ta, ở mọi cấp độ, ngừng đổ lỗi cho người khác và thay vào đó thừa nhận lỗi lầm của chính mình, cầu xin Chúa tha thứ, và nếu chúng ta thực sự chia sẻ nỗi đau khổ của người khác và đứng về phía những người yếu thế và bị áp bức, thì thế giới sẽ thay đổi.
Chúa Giêsu Kitô trước hết là sự bình an của chúng ta bởi vì Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và cũng bởi vì Ngài chỉ cho chúng ta con đường để vượt qua mọi xung đột — tất cả mọi thứ xung đột, dù là giữa cá nhân hay quốc tế. Nếu không có một trái tim được giải thoát khỏi tội lỗi, một trái tim đã được tha thứ, chúng ta không thể là những người yêu chuộng hòa bình hay những người xây dựng hòa bình. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu sinh ra ở Bê-lem và chết trên thập tự giá: để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhờ ân sủng của Ngài, mỗi người chúng ta có thể và phải làm phần việc của mình để bác bỏ hận thù, bạo lực và sự chống đối, và thực hành đối thoại, hòa bình và hòa giải.
Nhân ngày lễ này, tôi muốn gửi lời chào ấm áp và đầy tình phụ tử đến tất cả các tín hữu Kitô, đặc biệt là những người đang sinh sống tại Trung Đông, những người mà tôi vừa đến thăm trong chuyến tông du đầu tiên của mình. Tôi đã lắng nghe những nỗi sợ hãi của họ và hiểu rõ cảm giác bất lực của họ trước những thế lực đầy quyền lực đang đè nặng lên họ. Hài nhi sinh ra hôm nay tại Bêlem chính là Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Trong Ta, các con sẽ có bình an; trong thế gian, các con sẽ gặp hoạn nạn; nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian!” (Ga 16:33).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban công lý, hòa bình và ổn định cho Li-băng, Palestine, Israel và Syria, tin tưởng vào những lời thiêng liêng này: “Hoa trái của sự công chính sẽ là hòa bình, và sự nghiệp của sự công chính sẽ là cảnh thái bình và tin cậy đời đời” (Is 32:17).
Chúng ta hãy phó thác toàn bộ lục địa Âu Châu cho Hoàng tử Hòa bình, cầu xin Ngài tiếp tục truyền cảm hứng cho tinh thần cộng đồng và hợp tác, trung thành với cội nguồn và lịch sử Kitô giáo, và trong tình đoàn kết – và chấp nhận – những người đang cần giúp đỡ. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho người dân Ukraine đang bị giày vò: xin cho tiếng súng và bom đạn chấm dứt, và xin cho các bên liên quan, với sự hỗ trợ và cam kết của cộng đồng quốc tế, tìm được can đảm để tham gia vào cuộc đối thoại chân thành, trực tiếp và tôn trọng.
Hướng đến hài nhi Bêlem, chúng ta hãy cầu xin hòa bình và sự an ủi cho các nạn nhân của tất cả các cuộc chiến tranh hiện nay trên thế giới, đặc biệt là những người bị lãng quên, và cho những người đang đau khổ vì bất công, bất ổn chính trị, đàn áp tôn giáo và khủng bố. Tôi đặc biệt tưởng nhớ đến anh chị em của chúng ta ở Sudan, Nam Sudan, Mali, Burkina Faso và Cộng hòa Dân chủ Congo.
Trong những ngày cuối cùng của Đại lễ Hy vọng này, chúng ta hãy cầu nguyện với Thiên Chúa làm người cho dân tộc Haiti yêu dấu, xin cho mọi hình thức bạo lực trong nước chấm dứt và xin cho tiến trình hòa bình và hòa giải được thực hiện.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng soi sáng những người đang nắm giữ trách nhiệm chính trị ở Mỹ Latinh, để khi đối mặt với vô số thách thức, họ có thể dành chỗ cho đối thoại vì lợi ích chung, thay vì những định kiến về ý thức hệ và đảng phái.
Chúng ta hãy cầu xin Hoàng tử Hòa bình soi sáng Miến Điện bằng ánh sáng của một tương lai hòa giải, khôi phục hy vọng cho các thế hệ trẻ, dẫn dắt toàn thể nhân dân trên con đường hòa bình, và đồng hành cùng những người đang sống không nhà cửa, không an ninh và không niềm tin vào tương lai.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa khôi phục lại tình hữu nghị lâu đời giữa Thái Lan và Campuchia, và xin cho các bên liên quan sẽ tiếp tục nỗ lực hướng tới sự hòa giải và hòa bình.
Chúng ta cũng phó thác cho Chúa các dân tộc ở Nam Á và Châu Đại Dương, những người đã phải trải qua những thử thách nặng nề do các thảm họa thiên nhiên tàn khốc gần đây gây ra, ảnh hưởng đến toàn bộ cộng đồng. Trước những thử thách như vậy, tôi kêu gọi mọi người hãy tái khẳng định, với lòng tin sâu sắc, cam kết chung của chúng ta trong việc giúp đỡ những người đang đau khổ.
Kính thưa anh chị em, trong bóng đêm chập chùng, “ánh sáng thật, soi sáng mọi người, đã đến thế gian” (Ga 1:9), nhưng “dân riêng của Ngài không tiếp nhận Ngài” (Ga 1:11). Chúng ta đừng để mình bị chế ngự bởi sự thờ ơ đối với những người đau khổ, vì Thiên Chúa không thờ ơ trước nỗi khổ của chúng ta.
Khi trở thành người, Chúa Giêsu đã mang lấy sự yếu đuối của chúng ta, đồng cảm với mỗi người trong chúng ta: với những người không còn gì và đã mất tất cả, như cư dân Gaza; với những người đang phải chịu đựng nạn đói và nghèo khổ, như người dân Yemen; với những người đang chạy trốn khỏi quê hương để tìm kiếm tương lai ở nơi khác, như nhiều người tị nạn và người di cư vượt Địa Trung Hải hoặc đi khắp lục địa Mỹ Châu; với những người đã mất việc và những người đang tìm việc làm, như rất nhiều người trẻ đang chật vật tìm việc; với những người bị bóc lột, như nhiều công nhân bị trả lương thấp; với những người trong tù, những người thường sống trong điều kiện vô nhân đạo.
Lời cầu nguyện hòa bình vang vọng từ mọi miền đất đều chạm đến trái tim Chúa, như một nhà thơ đã viết:
“Không phải là hòa bình của một lệnh ngừng bắn,
Thậm chí cả hình ảnh con sói và con cừu cũng không phải.
nhưng đúng hơn là
như trong tim khi sự phấn khích đã qua đi.
và bạn chỉ có thể nói về sự mệt mỏi tột độ…
Hãy để nó đến
giống như hoa dại,
bất ngờ, bởi vì cánh đồng
phải có nó: hòa bình hoang dã.” [1]
Trong ngày thánh này, chúng ta hãy mở rộng tấm lòng mình đến với anh chị em đang cần giúp đỡ hoặc đang đau khổ. Khi làm như vậy, chúng ta mở rộng tấm lòng mình đến với Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng chào đón chúng ta bằng vòng tay rộng mở và tỏ bày thần tính của Ngài cho chúng ta: “Nhưng đối với tất cả những ai tiếp nhận Ngài… Ngài ban cho quyền trở thành con cái Thiên Chúa” (Ga 1:12).
Chỉ vài ngày nữa thôi, Năm Thánh sẽ kết thúc. Các Cửa Thánh sẽ đóng lại, nhưng Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, vẫn luôn ở cùng chúng ta! Ngài là Cửa luôn rộng mở, dẫn chúng ta vào đời sống thần thánh. Đây là lời loan báo vui mừng của ngày hôm nay: Hài nhi vừa sinh ra là Thiên Chúa nhập thể; Ngài đến không phải để kết án mà để cứu rỗi; sự hiện diện của Ngài không phải là thoáng qua, vì Ngài đến để ở lại và hiến dâng chính mình. Trong Ngài, mọi vết thương đều được chữa lành và mọi trái tim đều tìm thấy sự nghỉ ngơi và bình an. “Sự giáng sinh của Chúa là sự ra đời của hòa bình.”
Tôi xin gửi đến tất cả các bạn những lời chúc tốt đẹp nhất cho một mùa Giáng sinh an lành và hạnh phúc!
______________________________________
[1] Y. Amichai, “Wildpeace”, trong Thơ của Yehuda Amichai, Farrar, Straus và Giroux, 2015.
Source:Dicastery for Communication - Libreria Editrice Vaticana