“Không có Thầy, các con không thể làm gì được!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Để diễn tả mối tương quan giữa Ngài với các môn đệ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thân nho và cành nho, một hình ảnh trìu mến và không ít lãng mạn. Thế nhưng, thoạt nghe, “Không có Thầy, các con không thể làm gì được!”, thì dường như có một điều gì đó gây tổn thương; một sự tổn thương ở lòng tự ái của chúng ta và tổn thương này lại dẫn đến những phản ứng tiêu cực với lời nhắc nhở. Chúng ta không làm gì được nếu không có Chúa, có phải là một sự thật không? Nói như thế, có quá lắm không? Rõ ràng, câu trả lời cho điều này là “Có”; vì Chúa Giêsu không bao giờ nói dối, và Ngài cũng không khoác lác. Chúng ta không thể làm gì được nếu không có Chúa! Để minh hoạ, Ngài đưa ra một ví dụ tượng hình dễ hiểu, “Cũng như cành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy”.
Trên thực tế, nếu Thiên Chúa lãng quên chúng ta trong một khoảnh khắc, nào ai sẽ có thể tồn tại. Ngay cả sự tồn tại cũng phụ thuộc vào Thiên Chúa; khi Ngài tiếp tục trong ý chí của Ngài rằng, chúng ta tồn tại; vì thế, chúng ta tồn tại. Đó là chưa nói đến việc làm điều lành, tạo nên một sự khác biệt, sống một cuộc sống hữu ích… chúng ta lại càng không thể đạt được, nếu không có ân sủng của Ngài. Vì thế, dẫu “Không có Thầy, các con không thể làm gì được!” có thể khó nghe, nhưng nếu ngẫm nghĩ thường xuyên một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ xác tín và nắm bắt sự thật này. Và hậu quả sẽ là hai tâm tình tốt lành xảy ra bên trong chúng ta, đó là ‘khiêm hạ và tạ ơn’.
Trước tiên, chúng ta sẽ trưởng thành trong sự khiêm hạ. Khiêm hạ hay khiêm nhường là “Mẹ của các nhân đức”; bởi lẽ, từ nhân đức này, các nhân đức khác sẽ trào tuôn. Khiêm hạ giúp chúng ta nhận ra rằng, Thiên Chúa là tất cả và chúng ta cần Ngài với 100% nhu cầu. Khiêm nhường cho phép chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi sự và mời Ngài đi sâu vào mọi ngõ ngách đời mình.
Tâm tình thứ hai sẽ xảy đến khi chúng ta nhận ra rằng, chúng ta không thể làm gì nếu không có Chúa, đó là chúng ta sẽ lớn lên trong lòng biết ơn. Khi biết Thiên Chúa là tất cả ‘và lúc ấy’, chúng ta bắt đầu cảm nhận, chính Ngài đang tuôn đổ liên lỉ ân sủng này đến ân sủng khác trong cuộc sống của chúng ta; bấy giờ, tâm tình thích hợp duy nhất của chúng ta sẽ là “Tạ ơn”. Chúng ta sẽ biết ơn Chúa về mọi điều vì chúng ta nhận ra rằng, mọi sự tốt đẹp đều là quà tặng đến từ Ngài.
Bài đọc Công Vụ Tông Đồ và thư thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy điều đó. Hội Thánh sơ khai sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’ khi nhận ra ân huệ Thánh Thần và bình an của Chúa Phục Sinh đang ở với họ. Trong niềm kính sợ Chúa, các Kitô hữu đón nhận nhau trong yêu thương; các tông đồ đón nhận Phaolô nhờ sự giới thiệu của Barnaba... Và Hội Thánh bình an hoan hỷ như Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ, “Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội”.
Trong những ngày hôm nay, bao nhiêu anh em Ấn Độ đang chao đảo vì dịch bệnh. Họ đang đứng bên bờ vực tử thần; có người bi quan nói, “Không ai trong chúng tôi mà không dương tính với Corona”. Ranh giới giữa sống và chết của họ thật mong manh. Biết bao nhiêu người đang chạy khắp các thành phố để tìm mua bình Oxy; lý do, một số bệnh viện chỉ đón bệnh nhân khi người nhà mang theo Oxy. Vậy Oxy chúng ta đang hít thở từng giây đến từ đâu nếu không phải từ Thiên Chúa! Khí trời nuôi dưỡng thể xác cần đến thế, phương chi là Thần Khí nuôi dưỡng tâm linh!
Anh chị em,
Cành nho chỉ tồn tại và sinh trái khi được gắn liền với thân nho. Mỗi người chúng ta cũng chỉ tồn tại khi biết gắn liền với Chúa Kitô; nói cách khác, sự sống của Chúa chính là sự sống của chúng ta. Chúng ta là người phàm nhưng đang sống cùng, sống cho, sống với và sống nhờ sự sống thần linh của Ngài. Sống bởi sự sống của Ngài, chúng ta sinh hoa kết trái, đó là các tố chất thuộc phẩm tính thần linh. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi chúng ta sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con nhận thức được sự bất lực của con. Xin cho con luôn sống trong tâm tình ‘khiêm hạ và tạ ơn’ và đừng bao giờ để mình bị bứt ra khỏi Chúa, bởi Chúa là nguồn sống của đời con”, Amen.
(Tgp. Huế)
PHÚC ÂM: Ga 14, 6-14
“Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”.
Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?’ Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho”.
Đó là lời Chúa.
“Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Câu chuyện dễ thương trên đây đưa chúng ta về một câu chuyện cũng khá dễ thương khác trong Tin Mừng hôm nay, nhân ngày kính hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ; đó là cuộc đối thoại giữa Philipphê và Chúa Giêsu. Dẫu cuộc đối thoại này được xem như một lời quở trách của Ngài dành cho Philipphê, nhưng đó là một trách cứ khá thực lòng. Chúa Giêsu nói, “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà ‘con chưa biết Thầy ư?’ Philipphê!”. Quả thế, Chúa Giêsu đã dành nhiều thời gian cho các môn đệ; Ngài ở với họ, ăn với họ, cùng đi đây đi đó và dành cho họ nhiều buổi trò chuyện. Vì thế, nhận xét của Chúa Giêsu là một nhận xét phát xuất từ một tương quan cá vị thực sự và sống động cách riêng với Philipphê, ‘Con chưa biết Thầy ư?’.
Chúng ta hãy khởi sự với phần đầu, “Thầy ở với các con bấy lâu rồi”. Hãy tưởng tượng Chúa Giêsu cũng đang nói điều này với mỗi người chúng ta. Có thể đây là điều mà Ngài muốn nói với chúng ta. Chúa ở với chúng ta trước khi chúng ta hình thành trong dạ mẹ, rồi từng ngày lớn lên qua bàn tay đùm bọc của Ngài; và còn hơn thế, Chúa gìn giữ chúng ta như con ngươi mắt Ngài. Vì vậy, đây là lúc chúng ta tự hỏi, có đúng là chúng ta đã đáp lại Ngài khi đã dành nhiều thời gian cho Ngài? Chúng ta có dành thời giờ để đọc Phúc Âm; nói chuyện với Ngài từ sâu thẳm lòng mình, trò chuyện, cầu nguyện với Ngài và lắng nghe giọng nói dịu dàng của Ngài không? Và Chúa Giêsu tiếp tục, “Thế mà con chưa biết Thầy ư?”; ‘Thầy ở trong Bí tích Thánh Thể, trong tâm hồn con, trong gia đình con, trong các biến cố buồn vui của con đó!’. Đây là một sự thật khiêm tốn mà điều quan trọng là chúng ta phải thừa nhận. Sự thật là, ngay cả những người có một đời sống cầu nguyện rất sâu sắc, đã được biến đổi, cũng không biết Chúa một cách đủ sâu. Sẽ không có một giới hạn đối với sự biến đổi vốn có thể xảy ra trong cuộc sống của chúng ta một khi chúng ta biết Chúa Giêsu một cách cá vị! Vì thế, thật cần thiết khi chúng ta được nghe lại nhận xét của Ngài, ‘Con chưa biết Thầy ư?’.
Chúa Giêsu lại tiếp tục, “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”. Vì vậy, câu hỏi tiếp theo dành cho chúng ta sẽ là, ‘Chúng ta có biết Chúa Cha không?’; ‘Chúng ta có biết tình yêu của Chúa Cha, sự chăm sóc và ý muốn hoàn hảo của Ngài dành cho chúng ta không?’. Mặc dù Chúa Cha và Chúa Con được hợp nhất trong một Thiên Chúa nhưng Chúa Cha và Chúa Con vẫn là những Ngôi Vị riêng biệt; và do đó, chúng ta phải nỗ lực thiết lập cho mình một mối quan hệ yêu thương với mỗi Ngôi Vị.
Anh Chị em,
Những lời mạc khải của Chúa Giêsu hôm nay mở rộng con tim và sự hiểu biết của chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa đang sống, đang hoạt động, đang ở giữa và ở trong chúng ta. Chúng ta là phàm nhân, chân bám đất, nhưng lại được gắn chặt vào sự sống thần linh của Đấng ngự trên trời. Chính vì chúng ta không thể hiểu nổi nên Con Thiên Chúa đã làm người hầu mặc khải cho chúng ta thấy, đụng chạm và hiểu biết Ngài. Còn hơn thế, Ngài đã biến thành bánh để nuôi dưỡng sự sống thần linh ấy trong mỗi người. Chúng ta thật giá trị trước mặt Thiên Chúa. Vậy mà xem ra câu hỏi dành cho Philipphê, cũng dành cho chúng ta thật xác đáng, ‘Con chưa biết Thầy ư?’ Hãy để những lời của Chúa Giêsu khích lệ chúng ta tìm hiểu sâu hơn về Ngài. Hãy cầu nguyện cho mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa trở nên cá vị hầu được biến đổi hơn. Và khi chúng ta hiểu biết về Chúa Giêsu một cách thân mật hơn, hãy biết, đó cũng là Cha trên trời mà chúng ta đang muốn học biết.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Chúa ở rất gần con; Chúa ở bên con, trong con. Xin cho con cảm nhận được Chúa đang hiện diện trong từng khoảnh khắc đời con; ngõ hầu con luôn xác tín trong mọi biến cố như lời Thánh Vịnh, “Lạy Chúa, bàn tay Ngài đang đặt trên con” và một ngày nào đó, Chúa sẽ không cần hỏi con ‘Con chưa biết Thầy ư?’ nữa”, Amen.
(Tgp. Huế)
Thư gởi các Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục
Về một số lời cầu mới trong Kinh Cầu Thánh Giuse
Thành phố Vatican, ngày 1 tháng 5 năm 2021, Lễ Thánh Giuse
Thưa Quý Đức Hồng YThưa Quý Đức Giám Mục,
Vào dịp kỷ niệm 150 năm ngày tuyên bố Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ Giáo hội Hoàn vũ, Đức Thánh Cha Phanxicô, đã công bố Tông thư Patris corde – Trái Tim Người Cha, với mục đích “tăng cường tình yêu của chúng ta đối với vị thánh vĩ đại này, để khuyến khích chúng ta cầu khẩn xin Ngài cầu bầu, cũng như noi gương các nhân đức và lòng nhiệt thành của Ngài”.
Dưới ánh sáng này, đây có lẽ là cơ hội thích hợp để cập nhật Kinh cầu tôn vinh Thánh Giuse, đã được Tòa thánh phê chuẩn vào năm 1909 (xem Công Báo Tòa Thánh 1 [1909] 290-292), bằng cách thêm vào bảy lời khẩn cầu mới rút ra từ diễn từ của các Đức Giáo Hoàng, khi các ngài trình bày các khía cạnh của nhân vật bảo trợ Giáo hội Hoàn vũ. Những lời này là: “Custos Redemptoris” Đấng Gìn Giữ Đấng Cứu Thế (xem Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Redemptoris Custos - Đấng Gìn Giữ Đấng Cứu Thế; “Serve Christi” Đấng Phụng Sự Chúa Kitô (xem Thánh Phaolô VI, Bài giảng ngày 19.3.1966, được tham chiếu trong Redemptoris custos n. 8 và Patris corde n. 1); “Minister salutis” Thừa Tác Viên Ơn Cứu Độ (Thánh Gioan Kim Khẩu, được tham chiếu trong Redemptoris custos, n. 8); “Fulcimen in difficultatibus” Đấng Hướng Dẫn Trong Thời Gian Truân (xem Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông Thư Patris corde, Lời Dẫn Nhập); và “Patrone exsulum, afflictorum, pauperum” Đấng Bảo Trợ Kẻ Lưu Đày, Người Đau Khổ, Kẻ Nghèo Khó (Patris corde, n. 5).
Những lời kêu cầu mới đã được trình lên Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã chấp thuận việc đưa thêm vào Kinh Cầu Thánh Giuse, như trong văn bản đính kèm với bức thư này.
Các Hội đồng Giám mục sẽ có trách nhiệm xem xét việc dịch và công bố Kinh Cầu bằng các ngôn ngữ trong khả năng của các ngài; những bản dịch này không cần sự phê chuẩn của Tòa Thánh. Theo sự phán xét thận trọng của các ngài, các Hội đồng Giám mục cũng có thể đưa ra những lời kêu cầu khác mà Thánh Giuse được tôn vinh tại các quốc gia của các vị. Những bổ sung như vậy cần được thực hiện ở vị trí thích hợp và bảo tồn thể loại văn học của Kinh Cầu.
Trong khi vui mừng thông báo cho quý chư huynh về điều khoản này để quý chư huynh tường tận và thực hiện, xin cho phép tôi nhân cơ hội này để bảo đảm với các chư huynh những lời chúc tốt nhất của tôi.
Trân trọng trong Chúa,
+ X Arthur Roche
Tổng giám mục thư ký Bộ
Cha Corrado Maggioni, SMM
Phụ tá thư ký Bộ
Nội dung Kinh Cầu Thánh Giuse Mới Cập Nhật
Xin Chúa thương xót chúng con.
- Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
- Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
- Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa Kitô nghe cho chúng con.
Chúa Kitô nhậm lời chúng con.
Đức Chúa Cha ngự trên trời là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con.
(Câu nào cũng thưa như vậy)
Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật.
Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời thật.
Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
Rất Thánh Đức Bà Maria.
Thưa: Cầu cho chúng con.
(Câu nào cũng thưa như vậy)
Thánh Giuse.
Thánh Giuse là Đấng sang trọng bởi dòng Đavít.
Thánh Giuse là sự sáng láng các Thánh Tổ Tông.
Thánh Giuse là bạn Đức Mẹ Chúa Trời.
Thánh Giuse là Đấng Gìn Giữ Đấng Cứu Thế.
Thánh Giuse là Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh.
Thánh Giuse là Đấng dưỡng nuôi Con Đức Chúa Trời.
Thánh Giuse là Đấng ân cần gìn giữ Chúa Kitô.
Thánh Giuse là Đấng Phụng Sự Chúa Kitô.
Thánh Giuse là Thừa Tác Viên Ơn Cứu Độ.
Thánh Giuse là Đấng cai quản Thánh Gia Thất xưa.
Thánh Giuse gồm no mọi nhân đức.
Thánh Giuse cực thanh cực tịnh.
Thánh Giuse cực khôn cực ngoan.
Thánh Giuse là Đấng vững vàng mạnh mẽ.
Thánh Giuse chịu lụy mọi đàng.
Thánh Giuse rất ngay chính thật thà.
Thánh Giuse là gương nhân đức nhịn nhục.
Thánh Giuse yêu chuộng sự khó khăn.
Thánh Giuse là kiểu thức thợ thuyền noi theo.
Thánh Giuse là Đấng làm cho sáng danh gia đạo.
Thánh Giuse che chở kẻ giữ mình đồng trinh.
Thánh Giuse là Đấng nâng đỡ gia thất chúng con.
Thánh Giuse là Đấng Hướng Dẫn Trong Thời Gian Truân.
Thánh Giuse là Đấng an ủi kẻ mắc gian nan.
Thánh Giuse là nơi cậy cho kẻ liệt lào.
Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ Kẻ Lưu Đày.
Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ Người Đau Khổ
Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ Kẻ Nghèo Khó
Thánh Giuse là bổn mạng kẻ mong sinh thì.
Thánh Giuse làm cho quỷ thần kinh khiếp.
Thánh Giuse là quan thầy bàu chữa Hội Thánh.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Chúa Giêsu tha tội chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Chúa Giêsu thương xót chúng con.
Chúa đã đặt Thánh Giuse làm chủ nhà Chúa.
Đáp: Cùng quản cai gia nghiệp Chúa.
Lời nguyện
Lạy Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng con, Chúa đã khấng toan liệu cách khôn ngoan, lưỡi khen chẳng xiết, mà chọn Thánh Giuse làm bạn thanh sạch Đức Mẹ thân sanh Chúa. Xin Chúa hãy khấng ban cho chúng con như đã cung kính Thánh Giuse làm quan thầy bàu chữa dưới đất, thì cũng được nhờ Người cầu thay nguyện giúp trên trời, vì Chúa là Đấng hằng sống hằng trị đời đời. Amen.
Hôm thứ Bẩy 1 tháng Năm, ngay từ ban sáng, nhà thờ chính tòa Napoli, tiếng Anh gọi là Naples, đã có đông đảo các tín hữu và khách hành hương tham dự các thánh lễ và các cử hành khác.
Cho đến chiều Máu Thánh Gennariô vẫn khô đặc. Đức Tổng Giám Mục Domenico Battaglia, 58 tuổi, được biết đến như một “linh mục đường phố”, một người rất gần gũi với người nghèo, đã cử hành thánh lễ ban chiều.
Đây là lần đầu tiên, ngài cầm lọ Máu Thánh Gennariô trên tay trong tư cách là Tổng Giám Mục Napoli. Ngài tỏ ra bối rối khi thấy lọ máu vẫn khô đặc, không có bất cứ dấu chỉ hóa lỏng nào, một giọt cũng không có. Tưởng cũng nên nhắc lại, hôm thứ Tư 16 tháng 12, năm ngoái, Máu Thánh Gennariô đã không hóa lỏng.
Đức Tổng Giám Mục Domenico Battaglia không bỏ cuộc, ngài yêu cầu cộng đoàn cùng đọc Kinh Cầu Các Thánh với ngài. Thật lạ lùng, trong lúc cộng đoàn vẫn đang tiếp tục Kinh Cầu Các Thánh, Máu Thánh Gennariô đã bất ngờ hóa lỏng. Đến 5 giờ 18 phút Máu Thánh Gennariô đã hóa lỏng hoàn toàn.
Thị trưởng thành phố Napoli là ông Luigi De Magistris reo mừng nói với các ký giả “Thánh Gennariô vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta”.
Cha Vincenzo de Gregorio, phụ trách nhà nguyện Thánh Gennariô ở nhà thờ chính tòa Napoli cho rằng “Những gì xảy ra ngày hôm nay là một lời cảnh tỉnh chúng ta phải hoán cải, phải siêng năng cầu nguyện, đặc biệt là trong tháng 5, là tháng hoa kính Đức Mẹ.”
Thánh Gennariô là giám mục thành Benevento, nước Ý. Ngài được chọn làm quan thầy của thành Naples nước này. Thánh nhân chịu tử đạo trong cuộc bách hại dưới triều hoàng đế La Mã Diôclêtiô vào ngày 19 tháng 9 năm 305.
Ngài bị chặt đầu cùng với các phó tế Festus, Sosius và Proculus; thầy đọc sách Desiderius và hai giáo dân Eutyches và Acutius. Tất cả đều bị bắt khi đến thăm Sosius, là phó tế và đang bị tù ở Pozzuoli. Sau khi bị bắt, họ bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.
Một lọ máu khô của ngài được lưu trữ trong nhà thờ chánh tòa Naples. Một hiện tượng kỳ lạ không giải thích được là máu khô của ngài hóa lỏng mỗi năm ba lần: vào ngày 19 tháng 9, ngày lễ kính thánh nhân; ngày thứ Bẩy hay Chúa Nhật đầu tiên của tháng Năm, kỷ niệm di tích của ngài được rước vào nhà thờ chánh tòa Naples; và vào ngày 16 tháng 12, kỷ niệm vụ phun trào núi lửa Vesuvius. Giáo Hội chưa từng chính thức tuyên bố đây là phép lạ, mặc dù Đức Tổng Giám Mục Naples thường xuyên chủ sự các buổi lễ tại đó và hộp đựng máu khô được đặt trên bàn thờ và phép lạ được công bố khi máu của ngài hóa lỏng.
Ngày 16 tháng 12 năm 2016, bửu huyết của Thánh Gennariô đã không hóa lỏng như dự kiến. Chỉ một tuần sau đó, các nhà khoa học cho biết một hỏa diệm sơn ngoài khơi bờ biển đảo Sicily, gần Naples, đã rục rịch hoạt động trở lại.
Hỏa diệm sơn Campi Flegrei là núi lửa lớn hơn rất nhiều so với ngọn núi lửa Vesuvius, từng phun trào phún xuất thạch phá hủy toàn bộ thành phố cổ Pompeii. Núi lửa Campi Flegrei, một khi bùng nổ có thể gây nguy hiểm cho nhiều nước châu Âu.
Nhiều cư dân của Naples tin rằng việc máu của thánh nhân không hóa lỏng là một dấu chỉ cho thấy các bi kịch sẽ xảy đến cho thành phố. Gần đây nhất, khi máu của thánh nhân không hóa lỏng vào năm 1980, một trận động đất đã xảy ra ít ngày sau ở phía nam thành phố Naples làm hơn 2,500 người thiệt mạng. Một trường hợp tương tự vào năm 1939, khi một bệnh dịch tả tấn công thành phố ngay trước khi bùng nổ Thế chiến thứ hai; và vào năm 1943, khi quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng Ý. Trong quá khứ xa xôi nhất, sự vắng mặt của các phép lạ thường được kết hợp với các tổn thất quân sự, các vụ phun trào núi lửa, và sự bùng phát của các dịch bệnh.
Ngày 16 tháng 12 năm ngoái máu của thánh nhân không hóa lỏng. Vài ngày trước đó, một cây cầu đột nhiên gẫy làm đôi trong đêm. Một chiếc xe chở khách đã lao xuống dòng sông. Hơn ba tuần sau đó, hôm thứ Sáu 8 tháng Giêng, trong bãi đậu xe của bệnh viện Ospedale del Mare, nghĩa là bệnh viện Biển, ở Napoli, một khoảng đất rộng 2,000 mét vuông đã bất ngờ sụp xuống, tạo thành một hố sâu, nuốt chửng cả 3 chiếc xe hơi đang đậu trong bãi đậu xe.
Source:TGCOM 24
Trong những ngày cuối tuần từ 17 đến 18 tháng 4, ba bức tượng đã bị phá hoại bên ngoài Nhà thờ Công Giáo Rất Thánh Mân Côi ở Woodland, California. Trong các bức ảnh do giáo dân Duke Sancho gửi cho Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, những bức tượng dường như là của Đức Mẹ Maria, Thánh Gioan và Thánh Maria Mađalêna tại đồi Calvariô nơi Chúa chịu đóng đinh. Cả ba bức tượng đều bị biến dạng với lớp sơn phun màu đen che mất một phần khuôn mặt.
Anh Sancho nói với CNA rằng một hội huynh đệ các nam giới trong giáo xứ và Cha Sở Jonathan Molina đã tổ chức một dự án làm sạch các bức tượng.
Tại giáo xứ Thánh Gioan Vianney ở Rancho Cordova cũng cùng giáo phận Sacramento, một bức tượng của Đức Mẹ Maria cũng bị biến dạng với lớp sơn phun màu đen che mất một phần khuôn mặt.
Trong một dòng tweet ngày 25 tháng 4, một giáo dân đã đăng một bức ảnh chụp tượng Đức Mẹ với lớp sơn đen phủ khắp mặt, tay và chân. Một cây thánh giá màu đen đã được buộc ngang trên thân chính của bức tượng.
Vị giáo dân cho biết thêm rằng những vết sơn xịt lên bức tượng đã được gỡ bỏ nhưng vẫn có một chút ảnh hưởng lâu dài đối với bức tượng.
“Cần phải mất một thời gian. Hóa chất đã gây xáo trộn với đá, vì thế nhìn kỹ bạn có thể thấy một số thay đổi đối với bức tượng nơi bị sơn, nhưng nhìn chung bức tượng đã được làm sạch,” vị giáo dân này viết.
“Chúng tôi đã cố gắng để có được một nhóm khoảng một chục người cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi trước thánh lễ ngay tại bức tượng đó như một cử chỉ phạt tạ cho sự xúc phạm này”,
Giáo phận đã trả lời một cuộc điều tra từ CNA bằng một tuyên bố vào thứ Hai rằng “Các bức tượng đã được phục hồi. Chúng tôi cầu nguyện cho bất kỳ ai vì lý do nào đó đã quyết định gây thiệt hại cho bất kỳ biểu tượng đức tin nào.”
Các vụ việc mới diễn ra tại California không phải là mới. Một loạt các hành động phá hoại khác nhắm vào các nhà thờ đã xảy ra.
Vào tháng 4, khuôn mặt trên một bức tượng của Chúa Giêsu đã bị phun sơn đen tại Nhà thờ Đức Maria ở giáo phận Fargo. Vào ngày 13 tháng 3, vỉa hè bên ngoài Giáo xứ Thánh Giuse trên Đồi Capitol ở Washington DC đã bị phá hoại với những gì có vẻ là hình vẽ satan.
Vào đầu tháng Hai, ba bức tượng thiên thần tại Nhà thờ Thánh Piô thứ 10 ở El Paso, Texas, đã bị lật nhào và đập bể.
Vào đầu tháng Giêng, một bức tượng của Thánh Têrêxa thành Lisieux đã bị phá hủy, cây thánh giá gần đó bị lộn ngược, và những kẻ phá hoại đã viết một chữ “satan” rất lớn kèm theo một ngôi sao năm cánh, tại giáo xứ Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu ở Abbeville, Louisiana.
Các nhà thờ Công Giáo và các bức tượng trên khắp Hoa Kỳ đã là mục tiêu đốt phá và giập sập trong suốt năm 2020 trong bối cảnh bạo loạn và biểu tình hàng loạt, chẳng hạn như ở Kenosha, Wisconsin.
Source:Catholic News Agency
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp video về việc phong chân phước vào hôm thứ Sáu 30 Tháng Tư cho José Gregorio Hernández, một bác sĩ người Venezuela, là người đã tận tâm phục vụ người nghèo trong dịch cúm Tây Ban Nha.
“Việc phong chân phước cho Bác sĩ Hernández là một ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa dành cho Venezuela, và mời gọi chúng ta phát triển theo hướng đoàn kết hơn với nhau, cùng nhau tạo ra thiện ích chung cần thiết để đất nước hồi sinh, và tái sinh sau đại dịch với tinh thần hòa giải”, Đức Thánh Cha nói trong thông điệp ngày 29 tháng Tư gửi nhân dân Venezuela.
“Giữa tất cả những khó khăn, tôi yêu cầu tất cả anh chị em, những người yêu mến Bác sĩ José Gregorio rất nhiều, hãy theo gương đáng ngưỡng mộ của ngài trong việc phục vụ vị tha cho người khác”.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi thông điệp vào trước lễ phong chân phước ngày 30 tháng 4 tại thủ đô Caracas của Venezuela.
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Vatican, nguyên là Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela, đã dự định chủ sự thánh lễ phong chân phước nhưng cuối cùng phải hủy chuyến đi đến Venezuela vào ngày 28 tháng 4 do đại dịch coronavirus.
“Việc phong chân phước cho Tiến sĩ José Gregorio diễn ra vào một thời điểm đặc biệt khó khăn đối với anh chị em. Như các giám mục anh em của tôi, tôi biết rõ hoàn cảnh mà anh chị em đang phải trải qua, và tôi biết rằng sự đau khổ và buồn sầu kéo dài của anh chị em đã trở nên trầm trọng hơn do đại dịch COVID-19 khủng khiếp đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết.
Venezuela, quốc gia có gần 29 triệu dân giáp với Colombia, Brazil và Guyana, đang ở giữa một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị kéo dài nhiều năm.
Trong thông điệp video của ngài, Đức Giáo Hoàng nói nhiều lần rằng ngài muốn đến thăm Venezuela, và nhấn mạnh rằng ngài đang cầu nguyện cho “hòa giải và hòa bình” ở đất nước này.
Đức Phanxicô kêu gọi người Venezuela “tìm kiếm con đường thống nhất dân tộc” bằng cách “đặt lợi ích chung lên trước bất kỳ lợi ích nào khác”.
“Và tôi cầu xin Chúa rằng không có sự can thiệp nào từ bên ngoài ngăn cản anh chị em đi theo con đường đoàn kết dân tộc này”.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tôi chân thành tin rằng khoảnh khắc đoàn kết dân tộc này, xung quanh hình ảnh vị bác sĩ của người dân, tạo nên một thời khắc đặc biệt cho Venezuela và tôi xin anh chị em tiến xa hơn nữa, xin anh chị em thực hiện các bước cụ thể để ủng hộ sự thống nhất, mà không để bản thân bị đè bẹp bởi sự chán nản”.
“Theo gương của Bác sĩ José Gregorio, mong anh chị em có thể nhìn nhận nhau như những người bình đẳng, như anh em, như những người con của cùng một quê hương”.
José Gregorio Hernández sinh ngày 26 tháng 10 năm 1864 tại thị trấn Isnotú thuộc bang Trujillo của Venezuela. Ông mất mẹ năm 8 tuổi.
Hernández học y khoa ở Caracas và được chính phủ tài trợ để tiếp tục học ở Paris vào năm 1889 trong hai năm.
Sau khi trở về Venezuela, ông trở thành giáo sư tại Đại học Trung tâm Caracas, nơi ông bắt đầu mỗi bài học bằng dấu thánh giá.
Hernández tham dự thánh lễ hàng ngày, mang thuốc men và chăm sóc cho người nghèo, và là một tu sĩ Dòng Ba Phanxicô.
Cuối cùng, ngài nhận ra ơn gọi tu trì của một tu sĩ và từ bỏ chức vụ giáo sư của mình để vào một tu viện dòng Carthusiô nhặt phép Farneta, Ý, vào năm 1908, với tên là Tu huynh Marcelo.
Sau chín tháng, ngài ngã bệnh, và bề trên đề nghị ngài trở về Venezuela để hồi phục. Tại Caracas, ngài được phép vào Chủng viện Santa Rosa de Lima.
Ngài chuyển đến Rôma trong ba năm để học thần học tại Trường Cao đẳng Piô Mỹ Latinh, nhưng lại bị bệnh và buộc phải trở về Venezuela vào năm 1914.
Hernández kết luận rằng đó là ý Chúa muốn ngài vẫn là một giáo dân. Sau đó, ngài quyết định thúc đẩy sự thánh hóa như một người Công Giáo gương mẫu bằng cách trở thành một bác sĩ và tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phục vụ người bệnh.
Ngài đã cống hiến hết mình cho nghiên cứu học thuật và đào sâu sự cống hiến của mình trong việc phục vụ người nghèo, đặc biệt là trong dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Một ngày nọ, khi vị bác sĩ đi bốc thuốc cho một người phụ nữ lớn tuổi nghèo, ngài bị một chiếc xe hơi đâm phải. Ngài qua đời trong bệnh viện vào ngày 29 tháng 6 năm 1919, sau khi nhận các nghi thức cuối cùng.
Người Công Giáo ở Venezuela đã hoan nghênh việc phong chân phước cho Hernández như một nguồn cảm hứng cho những giáo dân khác.
Hội đồng Giáo dân Quốc gia Venezuela đã gửi một tuyên bố tới Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, bày tỏ sự vui mừng trước việc “giáo dân Venezuela đầu tiên được nâng lên bàn thờ”.
“Trong Năm dành cho Giáo dân Venezuela này, chúng tôi hy vọng rằng trái tim của mỗi người được làm sống động bởi một nhân vật mẫu mực như vậy và chúng tôi sống như những môn đệ đích thực làm chứng hàng ngày cho sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta”.
Hiệp hội Công Giáo giáo dân nhấn mạnh rằng Hernández “đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc đời của mình, bao gồm cả dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, gây ra cái chết của nhiều người Venezuela. Tuy nhiên, ngài không bao giờ mệt mỏi trong lòng háo hức phục vụ Chúa bằng cách hiến thân cho người khác”.
“Xin Chúa giúp chúng con canh tân đức tin của dân tộc được thánh hiến cho Mình Thánh Chúa này và hiểu được phẩm giá của phép rửa tội đã thanh tẩy chúng ta và canh tân những dấn thân của chúng ta cho người lân cận. Xin Chúa truyền cảm hứng cho chúng con để chúng con thường xuyên phó thác mình cho Chúa Thánh Thần, Đấng đã đổi mới chúng con, để chúng con có thể ý thức rằng nhờ bửu huyết của Chúa Kitô mà chúng con được cứu chuộc”
Source:Catholic News Agency
Như chúng tôi đã đưa tin, một vị Giám mục người Ý vừa được bổ nhiệm ở Nam Sudan đã bị mưu sát vào khuya Chúa Nhật rạng sáng thứ Hai 26 Tháng Tư. Giáo Hội địa phương đã di tản ngài về thủ đô Narobi của Kenya nơi có các phương tiện điều trị chuyên biệt.
Vatican News cho biết Cha Christian Carlassare, người Ý, thuộc Dòng Truyền Giáo Comboni của Thánh Tâm Chúa Giêsu, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục Giáo phận Rumbek vào ngày 8 tháng 3, sau một thời gian giáo phận này trống tòa kéo dài gần một thập kỷ.
Khi nghe tin buồn này, Đức Thánh Cha cho biết ngài đang cầu nguyện cho vị tân Giám Mục này.
Trong cuộc họp báo vào một ngày sau đó, cảnh sát cho biết
“Khi hai người đàn ông bắn vị tân giám mục vừa được bổ nhiệm, một trong hai tên đã làm rơi điện thoại của mình và vị giám mục đã ngã lên chiếc điện thoại đó. Chính nhờ chiếc điện thoại này mà cảnh sát đã tìm ra được hai kẻ bắn ngài và những người có liên hệ đến vụ mưu sát”.
Điều đáng quan ngại là trong số những người bị bắt sau vụ mưu sát này có cả ba linh mục và “những giáo dân nổi bật khác trong Giáo phận Rumbek”.
Đức Cha Christian Carlassare đã bị bắn vào cả hai chân sau khi hai người đàn ông có vũ trang bắn nhiều phát đạn vào cửa nhà để xông vào phòng của ngài.
Rõ ràng là các thủ phạm không cố ý giết ngài, nhưng có lẽ chúng muốn ngài tàn phế.
Nam Sudan, có biên giới với Sudan, Ethiopia, Kenya, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Cộng hòa Trung Phi, là một quốc gia ở phía đông trung Phi với 11 triệu dân, đã giành được độc lập từ Sudan vào năm 2011. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội lớn nhất tại quốc gia này.
Lễ tấn phong giám mục cho Đức Cha Carlassare, được lên kế hoạch diễn ra vào Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày 23 tháng Năm.
Ngài đã phục vụ tại Giáo phận Malakal của Nam Sudan kể từ khi ngài đến quốc gia Đông-Trung Phi này vào năm 2005.
Ngài đã đến Giáo phận Rumbek vào ngày 15 tháng 4 vừa qua, sau những ngày tĩnh tâm tại thủ đô Juba của Nam Sudan.
Giáo phận Rumbek rơi vào tình trạng trống tòa từ tháng 7 năm 2011 sau cái chết đột ngột của Đức Cha Caesar Mazzolari. Vị giám mục của Hội Truyền giáo Comboni đã gục ngã khi đang dâng thánh lễ vào sáng ngày 16 tháng 7 năm 2011, một tuần sau khi Nam Sudan độc lập. Ngài được xác nhận đã chết tại Bệnh viện Rumbek vào sáng hôm đó.
Source:National Catholic Register
Khi tiếp xúc với các tín hữu trong buổi tiếp kiến trưa Chúa nhật 2/5/2021 ĐTC nhắc nhở cho mọi người rằng chúng ta đã bước vào tháng Năm, tháng của Đức Mẹ và qua sáng kiến “Marathon Cầu nguyện” hàng ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người hãy cầu nguyện cho hòa bình và hòa giải ở đất nước Myanmar.
(Tin Vatican - Linda Bordoni)
Vào giờ đọc kinh “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng” trưa Chủ Nhật, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu hãy dâng một lời nguyện đặc biệt cho đất nước Myanmar đầy xung đột hàng ngày, trong tháng Đức Mẹ, tháng Năm này, trong các tràng chuỗi Mân Côi hàng ngày.
Phát biểu sau khi đọc kinh “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng”, ĐTC nhắc nhớ cho tất cả chiến dịch một “Cuộc đua Marathon cầu nguyện” để cầu nguyện cho cơn đại dịch được chấm dứt, cùng với các Đền thánh Đức Mẹ trên khắp thế giới, qua việc trực tuyến lần chuỗi mân côi hàng ngày, Đức Thánh Cha nói: Trong bối cảnh này, một ý chỉ đặc biệt ăm ắp trong trái tim ngài, đó là cầu nguyện cho hòa bình của đất nước Myanmar.
Lời kêu gọi của ngài được đưa ra khi lực lượng an ninh của chính phủ quân đội đảo chính Myanmar đã ra lệnh nổ súng vào một số các cuộc biểu tình lớn đang phản đối chế độ quân sự trong nhiều ngày qua, khiến cho có ít nhất 5 người thiệt mạng. Quốc gia này đã bị nhậm chìm trong cuộc khủng hoảng kể từ khi cuộc đảo chính quân sự bùng nổ vào ngày 1/2/2021, kể từ đó lực lượng an ninh đã bắn chết ít là 759 người biểu tình và bắt giữ hàng nghìn người khác!
“Mỗi người chúng ta thường hướng về mẹ mình trong những lúc cần thiết và khó khăn,” Đức Thánh Cha nói, “Trong tháng này, chúng ta hãy chạy tới khấn xin Mẹ Thiên Chúa của chúng ta với trái tim khẩn nguyện cho những người có trách nhiệm ở Myanmar để họ can đảm bước vào con đường gặp gỡ, hòa giải và hòa bình. "
Kể từ khi bạo lực bùng phát ở Myanmar sau cuộc đảo chính và quân đội đàn áp những người biểu tình, ĐTC đã nhiều lần kêu gọi các nhà lãnh đạo quốc gia này hãy cùng nhau đối thoại và cầu nguyện cho một cuộc hòa giải dẫn tới hòa bình…
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy. “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy”.
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha nói:Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Năm Phục Sinh (Ga 15,1-8), Chúa tự giới thiệu mình là cây nho đích thực, và đề cập đến chúng ta như những cành không thể sống được nếu không kết hợp với Ngài. Và vì thế, Ngài nói: “Ta là cây nho, các con là cành” (câu 5). Không có cây nho nào mà không có cành, và ngược lại. Các cành nho không tự cung tự cấp mà phụ thuộc hoàn toàn vào cây nho, là nguồn gốc cho sự tồn tại của chúng.
Chúa Giêsu nhấn mạnh vào động từ “ở lại”. Ngài lặp lại điều đó bảy lần trong bài đọc Tin Mừng hôm nay. Trước khi rời thế gian này để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu muốn trấn an các môn đệ rằng các vị vẫn có thể tiếp tục kết hiệp với Ngài. Chúa nói, “Hãy ở lại trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (câu 4). Việc ở lại này không có nghĩa thụ động, không phải là “ngủ yên” trong Chúa, để chính mình bị cuộc đời ru ngủ: không, không phải như thế! Ở lại trong Chúa không phải là như vậy. Việc ở lại trong Ngài, mà Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta là một sự lưu lại tích cực, và cũng có qua có lại. Tại sao? Thưa: Bởi vì những cành không tháp nhập vào cây nho thì không thể sống được, chúng cần nhựa sống để lớn lên và kết trái; nhưng cây nho cũng cần cành, vì quả không mọc trên thân cây. Đó là một nhu cầu có qua có lại, đó là việc lưu lại để sinh hoa kết trái. Chúng ta ở trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Trước hết, chúng ta cần Ngài. Chúa muốn nói với chúng ta rằng trước khi tuân giữ các điều răn của Ngài, trước các mối phúc, trước các công việc của lòng thương xót, chúng ta cần phải kết hợp với Chúa, cần phải ở lại trong Ngài. Chúng ta không thể là Kitô hữu tốt nếu chúng ta không ở lại trong Chúa Giêsu. Thay vào đó, với Ngài, chúng ta có thể làm mọi việc (xem Phi-líp 4:13). Với Ngài, chúng ta có thể làm mọi thứ.
Nhưng Chúa Giêsu cũng cần chúng ta, như cây nho với cành. Điều này có vẻ táo bạo đối với chúng ta, và khiến chúng ta tự hỏi: Chúa Giêsu cần chúng ta theo nghĩa nào? Ngài cần chứng tá của chúng ta. Như những cành nho, hoa trái mà chúng ta trao ra là chứng tá trong đời sống của chúng ta trong tư cách là các tín hữu Kitô. Sau khi Chúa Giêsu lên trời cùng Chúa Cha, nhiệm vụ của các môn đệ - nhiệm vụ của chúng ta - là tiếp tục loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm. Và các môn đệ của Chúa Giêsu, là chúng ta, làm như thế bằng cách làm chứng cho tình yêu của Ngài: hoa trái được sinh ra là tình yêu. Được gắn bó với Chúa Kitô, chúng ta nhận được các ân sủng của Chúa Thánh Thần, và bằng cách này, chúng ta có thể làm điều tốt cho người lân cận, chúng ta có thể làm điều tốt cho xã hội, cho Giáo hội. Cây được biết đến bởi quả của nó. Một đời sống Kitô hữu thực sự làm chứng cho Chúa Kitô.
Và làm thế nào chúng ta có thể thành công trong việc này? Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được” (c.7). Sự chắc chắn rằng những gì chúng ta yêu cầu sẽ được ban cho chúng ta thật là một điều táo bạo. Hoa trái cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào lời cầu nguyện. Chúng ta có thể cầu xin cho biết suy nghĩ như Ngài, hành động giống như Ngài, nhìn thế giới và mọi vật bằng con mắt của Chúa Giêsu. Như thế, chúng ta có thể yêu thương anh chị em của chúng ta, bắt đầu từ những người nghèo nhất và những người đau khổ nhất, giống như Ngài đã làm, và yêu thương họ bằng trái tim của Ngài và mang đến cho thế giới hoa trái tốt lành, hoa quả bác ái, hoa quả bình an.
Chúng ta hãy phó thác vào lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ luôn luôn hoàn toàn hợp nhất với Chúa Giêsu và sinh nhiều hoa trái. Xin Mẹ giúp chúng ta ở trong Chúa Kitô, trong tình yêu của Người, trong lời của Người, để làm chứng cho Chúa Phục Sinh trong thế giới.
Sau khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha nói tiếp:
Anh chị em thân mến,
Thứ Sáu tuần trước tại Caracas, bên Venezuela, José Gregorio Hernández Cisneros, một giáo dân trung tín, đã được tuyên chân phước. Ngài là một bác sĩ giỏi về khoa học và mạnh mẽ trong đức tin: Ngài có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi những người bệnh và, giống như Người Samaritanô nhân hậu, ngài đã giúp đỡ họ với lòng bác ái Phúc âm. Cầu mong tấm gương của vị Chân Phước giúp chúng ta quan tâm đến những người đau khổ về thể xác và tinh thần. Xin anh chị em dành một tràng pháo tay cho vị Chân phước mới.
Tôi gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến các anh chị em của chúng ta thuộc các Giáo hội Chính thống và Giáo Hội Công Giáo Đông phương và Latinh, những người ngày hôm nay, theo lịch Julian, sẽ cử hành trọng thể Lễ Phục sinh. Xin Chúa Phục Sinh đổ tràn đầy ánh sáng và bình an trên họ và an ủi các cộng đồng đang sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Chúc họ lễ Phục sinh vui vẻ!
Chúng ta đã bước vào tháng Năm, trong đó lòng đạo đức bình dân bày tỏ lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria bằng nhiều cách. Năm nay nó sẽ được đánh dấu bằng một cuộc marathon cầu nguyện liên quan đến các đền thờ quan trọng của Đức Mẹ, để cầu xin sự kết thúc của đại dịch. Chiều tối hôm qua là điểm đầu tiên, ở Đền Thờ Thánh Phêrô. Trong bối cảnh này, có một sáng kiến rất gần gũi với trái tim tôi: đó là sáng kiến của Giáo Hội Miến Điện, mời gọi chúng ta cầu nguyện cho hòa bình bằng kinh Kính Mừng cho Miến Điện trong Kinh Mân Côi hàng ngày của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều hướng về Mẹ mình khi hoạn nạn, khó khăn; Trong tháng này, chúng ta cầu xin Mẹ Thiên đàng của chúng ta khơi lên trong tâm hồn của tất cả các nhà lãnh đạo ở Miến Điện để họ có thể tìm thấy can đảm bước đi trên con đường gặp gỡ, hòa giải và hòa bình.
Với nỗi buồn, tôi bày tỏ sự cảm thông với người dân Israel về vụ tai nạn xảy ra vào thứ Sáu tuần trước trên Núi Meron, khiến 45 người thiệt mạng và nhiều người bị thương. Tôi cam đoan với anh chị em sẽ nhớ đến họ trong lời cầu nguyện cho các nạn nhân của thảm kịch này và cho gia đình của họ.
Suy nghĩ của tôi hôm nay cũng hướng đến Hiệp hội Meter, mà tôi khuyến khích tiếp tục nỗ lực hỗ trợ cho các trẻ em là nạn nhân của bạo lực và bóc lột.
Và cuối cùng, tôi gửi lời chào chân thành đến tất cả anh chị em có mặt tại đây, những người Rôma thân yêu và những người hành hương đến từ các quốc gia khác. Đặc biệt, tôi gửi lời chào đến các thành viên của Phong trào chính trị cho sự hiệp nhất do Chiara Lubich thành lập cách đây 25 năm: xin gởi đến các bạn lời chúc tốt đẹp nhất và lời cầu mong các bạn làm được nhiều việc lành để phục vụ chính trị tốt.
Và tôi chúc tất cả anh chị em một ngày Chúa Nhật tốt lành. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc bữa trưa ngon miệng và xin tạm biệt!
Bản tin của Inés San Martín trên CruxNow ngày 1 tháng 5 năm 202, cho hay: Một trong những thách thức ít được lên tài liệu về đại dịch COVID-19 là tác động của việc cấm cửa, các bất trắc và hạn chế đối với sức khỏe tâm thần của hàng triệu người đã từng trải nghiệm virus trực tiếp, hoặc vì mất một người thân yêu, hoặc vì là những người phải đối phó lần đầu tiên hoặc những công nhân mới bị thất nghiệp.
Trong nỗ lực giải quyết vấn đề này, Vatican đã phát hành một văn kiện có tiêu đề “Đồng hành với Những Người bị Đau khổ Tâm lý trong Bối cảnh của Đại dịch COVID-19: Các Chi thể của cùng một Thân thể, được Yêu thương bởi cùng Một Tình yêu”.
Được viết vào tháng 11 năm ngoái, do sự chậm trễ trong việc dịch thuật, nó đã không được xuất bản cho đến đầu năm nay trên trang web của Bộ Phát triển Con người Toàn diện, là Bộ, ngoài nhiều việc khác, có nhiệm vụ điều hợp công việc của ủy ban COVID-19 của Vatican do Đức Giáo Hoàng Phanxicô triệu tập, để cố gắng tưởng nghĩ ra một thế giới hậu đại dịch.
Văn kiện của Vatican cho biết: “Sự đau khổ về tâm lý gây ra hoặc trở nên tồi tệ hơn do những lo ngại sâu sắc về căn bệnh chưa được biết đến này đã ít được xem xét. Đặc biệt nhất, sự mất kiểm soát đối với sự hiện hữu bản thân của chúng ta và cuộc sống mà chúng ta chia sẻ với những người thân yêu của chúng ta là một nguyên nhân gây ra mối lo ngại lớn. Khi chuyên môn và phương pháp điều trị y tế đột nhiên được chứng minh là không thích đáng, không hữu hiệu hoặc không thành công, nỗi sợ hãi về điều chưa biết đã đặt ra những câu hỏi sau: Tôi sẽ ra sao? Chúng tôi sẽ ra sao?"
Văn kiện đề cập đến các vấn đề như lo lắng, trầm cảm, sự gia tăng ý nghĩ tự tử do đại dịch và cơn cám dỗ tuyệt vọng. Nó cũng đi sâu vào các cách khác nhau để giải quyết một số thách thức này, đặc biệt chú ý đến khía cạnh xã hội của con người nhân bản.
Tạp chí Crux nói chuyện với người được coi là đã phối hợp việc soạn thảo văn kiện, Đức ông người Pháp Bruno Marie Duffé, thư ký của thánh bộ Vatican do Đức Hồng Y Peter Turkson của Ghana đứng đầu.
Ngài nói: “Trước khi có sự phát triển của tâm lý học lâm sàng và liệu pháp tâm lý, các linh mục, một cách nào đó, đã hành nghề bác sĩ tâm lý mà không hề hay biết. Lời mời cầu nguyện, xưng tội và linh hướng, trong nhiều thế kỷ, vốn mang lại sự nâng đỡ cho nhiều người. Người ta có thể nói rằng cuộc đối thoại riêng tư với một linh mục, hôm nay cũng như hôm qua, là một chiều kích chữa lành và giải thoát".
Ngài nói thêm, “Khi chúng ta có thể nói và cảm thấy được lắng nghe thực sự, chúng ta sẽ tốt hơn lên”.
Sau đây là trích đoạn cuộc trò chuyện của tạp chí Crux với Đức Ông Duffé.
Hỏi: Ý tưởng viết về sức khỏe tâm thần đã được hình thành ra sao?
Đáp: Lắng nghe nhiều nhóm giám mục và tác nhân trong thừa tác vụ xã hội từ nhiều quốc gia khác nhau, những người mà chúng tôi đã gặp gỡ qua các cuộc hội nghị video trong năm qua trong các phiên lắng nghe của Ủy ban Covid-19 của Tòa Thánh (#VaticanCovidCommission), chúng tôi hiểu rằng nỗi khổ của nhiều người do đại dịch Covid-19 gây ra có liên hệ trực tiếp với sức khỏe tâm thần.
Trải nghiệm bị tù túng, việc bị gián đoạn các hoạt động xã hội và các mối liên hệ, và trên hết, nỗi thống khổ khi đối mặt với một căn bệnh xa lạ, cùng với cái chết của gia đình và bạn bè, đã khuếch đại tính mong manh về tinh thần của những người đơn độc hoặc trong tình trạng trầm cảm. Trong tình huống này, các câu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của sự sống và, đôi khi, sự lo âu được khuếch đại đến mức muốn chết, khi họ cảm thấy thực sự cô đơn hoặc không có tương lai. Thông tin hàng ngày cho chúng ta biết về đại dịch, người chết và khó khăn trong việc đối đầu với tương lai có lẽ càng làm tăng thêm sự trôi dạt vô vọng này.
Hỏi: Quá trình viết văn kiện ra sao, và ai đã tham gia vào đó?
Đáp: Chúng tôi quyết định viết một bản văn đơn giản nhưng sâu sắc, xem xét các khía cạnh quyết định nhất của hiện tượng đại dịch và sứ mệnh đặc thù của những người được kêu gọi đồng hành với những người bị đau khổ về tâm lý.
Các xem xét liên quan đến xã hội học (xem xét những nhóm mong manh nhất), đến tâm lý học (những người có chiều kích tâm thần, cảm giới, tương quan, tâm linh của họ), đến linh đạo và đến thực hành mục vụ (sứ mệnh của cộng đồng Giáo Hội và của những người đảm nhận việc chào đón hoặc đồng hành với người ta) dường như là điều quan trọng.
Hỏi: Nhiều tín hữu nghĩ tới các linh mục và các tác nhân mục vụ như những nhà tâm lý học. Đức Ông có xem xét khả thể bao gồm hoặc đào tạo sâu hơn không?
Đáp: Trong khoảng một thế kỷ, chúng ta vốn nghĩ rằng các vấn đề tâm lý và tâm linh có thể được giải quyết bằng các sản phẩm hóa học, đặc biệt là với “thuốc giải lo âu” (anxiolytics). Đây là một ảo tưởng, bởi vì những cách “chữa trị” như vậy chỉ khuếch đại sự lệ thuộc và khiến người đó trở nên mong manh hơn. Chia sẻ lời nói, dành giây phút để người đó kể câu chuyện bản thân của họ, nỗi khắc khoải, mong muốn của họ: đó là cách để từ đau khổ bước vào một sức mạnh tinh thần mới, từ cái chết bước vào sự sống. Chúng ta chưa biết đầy đủ về những đặc sủng mà chúng ta có, với các khả năng của chúng ta trong việc gặp gỡ, nhìn, lắng nghe, mỉm cười, nâng đỡ hoặc khuyến khích.
Chìa khóa của vấn đề này gồm hai mặt: chúng ta phải tiếp tục mở rộng không gian và thời gian để gặp gỡ, và chúng ta phải mở lại con đường chiêm niệm hướng đến điều làm chúng ta được hạnh phúc: Sáng Thế của Thiên Chúa và sự âu yếm của Chúa Giêsu, Đấng luôn “gần gũi” mọi người nam nữ, trẻ em và người cao niên.
Chúng tôi đã chia sẻ sáu phiên họp làm việc - đối thoại và suy tư - và trong mỗi phiên họp, mỗi thành viên của nhóm đã viết và làm phong phú từng chương. Đó là một trải nghiệm đối thoại, một “logos” [lời] được xây dựng với nhau, lắng nghe lẫn nhau.
Hỏi: Giáo hội, và kinh nghiệm đức tin nói chung, có thể đóng góp gì cho một người bị rối loạn sức khỏe tâm thần?
Đáp: Trước khi có việc khai triển ra tâm lý học lâm sàng và tâm lý học trị liệu, một cách nào đó, các linh mục vốn là các nhà tâm lý học thực hành mà thường không hề hay biết. Lời mời cầu nguyện, xưng tội và linh hướng tâm linh trong nhiều thế kỷ vốn mang lại sự nâng đỡ cho nhiều người. Người ta có thể nói rằng cuộc đối thoại riêng tư với một linh mục, hôm nay cũng như hôm qua, là một chiều kích chữa lành và giải thoát. Khi chúng ta có thể nói và thấy mình được lắng nghe thực sự, chúng ta sẽ tốt hơn lên. Với việc sa sút của loại hình đồng hành tâm linh này, người ta có thể cảm thấy cô đơn và sức nặng của những vấn đề hiện sinh nhiều hơn: Tôi đến từ đâu? tôi đang đi đâu? tại sao tôi phải đau khổ?
Theo một cách nghịch lý nào đó, việc thế tục hóa đã khuếch đại các chủ đề về thân phận con người, về khởi đầu và kết thúc cuộc sống, về khả thể yêu thương, về việc yêu và được yêu… Chủ đề về Thiên Chúa và về người khác….
Điều xem ra rõ ràng là không thể đảm nhận trách nhiệm của một tác nhân mục vụ nếu không được đào tạo tốt về loại lĩnh vực nhận thức này. Điều kiện đầu tiên là có khả năng lắng nghe, phân tích, đưa ra lời khuyên và đồng hành (không gục ngã trước nỗi đau khổ nội tâm của người khác).
Hỏi: Giáo hội có thể cung cấp điều gì khác biệt?
Đáp: Trước hết, Giáo hội có thể cung cấp một sự hiện diện và một sự hiểu biết. Giáo Hội không có giải pháp cho nỗi thống khổ hoặc cho nỗi đau khổ nội tâm và bí mật. Với ơn thánh của Thiên Chúa-Cha và sự hiểu biết của Chúa Giêsu-Anh, các chi thể của Giáo Hội, với các tài năng của mỗi người, có thể hiện diện, gần gũi với người ta, cung ứng một không gian lắng nghe, ân cần, tôn trọng, yêu thương... Luôn với khoảng cách và sự chú ý cần thiết, giống như Người Samaritanô nhân hậu đã làm trong Tin Mừng và như thông điệp cuối cùng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Fratelli tutti, nhắc nhở chúng ta.
Việc biết rằng có người đang ở gần mình có thể thay đổi cuộc sống của một người cô đơn hoặc trầm cảm. Điều này phải được liên kết với tính bổ sung giữa các y sĩ - nhà trị liệu tâm lý, bác sĩ tâm thần… - và bạn bè, thành viên gia đình hoặc thành viên của một cộng đồng Kitô giáo. Người thầy thuốc có sự hiểu biết phát xuất từ kiến thức và kinh nghiệm của mình: bạn hữu hoặc mục tử có sự cân nhắc truyền cảm hứng cho trái tim. “Psyche” và “Heart” là hai chiều kích của cùng một hữu thể nhân bản, hữu thể nhân bản đang đau khổ nhưng cần sự quan tâm và dịu dàng.
Tình hình phức tạp của đại dịch cho thấy rõ chúng ta là những hữu thể có thân xác mỏng manh, “một trí óc” rất nhạy cảm, một trái tim luôn chờ đợi người khác và “hơi thở” cần sự tín thác. Tín thác có nghĩa là Tin cậy-Với, tức là tin-tưởng-với-bạn.
Trong thâm tâm, tôi biết điều này không ổn, nhưng vì các ngài trích dẫn Thánh Phaolô, nên tôi không dám nói gì, định khi trở lại Sydney, sẽ tìm hiểu vấn đề xem sao. Và tôi đã tìm hiểu thật, mới hay Phép Rửa kiểu này đã có từ thời Giáo Hội Sơ Khai nơi các nhóm lạc giáo, và tất cả đã bị hai công đồng Hippo năm 393 và công đồng Carthage lần thứ 3 trong các năm 393-424 chính thức kết án. Nhưng 14 thế kỷ sau, nó lại tái xuất hiện, với một nghĩa triệt để hơn và với phạm vi áp dụng “rộng rãi” hơn nhiều, trong chủ trương của Đạo Mormons do Joseph Smith sáng lập. Hiện nay, những người theo phái Mormons là gần 400,000 người, phần lớn ở tại Tiểu Bang Utah. Tuy nhiên, con số các “giáo hữu” Mormons thì gần như vô số kể, gồm luôn những người sống trước xa thời ông Smith như Christopher Columbus (1446-1506), người tìm ra Mỹ Châu, thậm chí cả Maimonides (1135-1204), nhà thần học Do Thái Giáo nổi tiếng của Tây Ban Nha.
Tất cả nhờ chủ trương rửa tội thế cho người chết của ông Smith, bất luận người chết ấy, theo tôn giáo nào, tín ngưỡng lúc còn sống ra sao. Chính vì thế mà Đạo Mormons là đạo hết sức “chuyên nghiệp” trong việc sưu tầm gia phả mọi người trên thế gian, đến nỗi đã lập ra cả một Danh Bộ Gia Phả Quốc Tế (International Genealogical Index). Khiến ngày nay, Thư Viện Lịch Sử Gia Đình tại Salt-Lake City có hơn 2 tỉ tên người trên rất nhiều hồ sơ khác nhau, hơn 700,000 hồ sơ vi phiếu, và gần 2 triệu cuộn hồ sơ vi phim gồm từ các gia phả của Triều Tiên đến các hồ sơ của giáo hội Tô Cách Lan cũng như danh bộ tử của Cơ Quan An Sinh Xã Hội Mỹ.
Phải nói ngay rằng theo Giáo Lý Công Giáo, sau khi chết, mỗi người chúng ta (kể cả những người ngoài Thiên Chúa Giáo) đều được phán xét riêng: ai có ơn nghĩa với Chúa thì được lên thiên đàng, ai không có ơn nghĩa với Chúa, thì xuống hoả ngục, ai tuy có ơn nghĩa với Chúa, nhưng còn vướng mắc đôi chút thì được thanh luyện trong luyện ngục, trước khi được về với Chúa trên thiên đàng. Ngoài ba tình trạng ấy ra, may lắm còn “ngục tổ tông”, nhưng ngục này đã không còn khi Chúa Kitô xuống đó giải thoát hết các thánh của Cựu Ước, trước khi Người sống lại; và “lâm bô”, nơi trước đây, người ta bảo để giam các linh hồn trẻ thơ chết lúc chưa được chịu phép rửa tội, nhưng nay Giáo Hội đã nhận ra cái vô lý của nó nên đã không còn nhắc đến.
Vậy thì các người chết nhập vào người sống trên đây ở đâu sau khi chết? Ở thiên đàng thì đâu cần rửa tội. Ở hỏa ngục lại càng không cần hơn. Còn ở luyện ngục, rửa tội không thêm gì, vì họ đã được ơn nghĩa của Chúa rồi, chỉ vướng mắc một hai điều phải đền trả nữa thôi, hết thời thanh luyện sẽ được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Rửa tội bao giờ cũng bao hàm ơn tái sinh, từ chết (không ơn nghĩa) tới sống thiêng liêng (có ơn nghĩa).
Còn lời Kinh Thánh thì sao? Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Côrintô, chương 15 câu 29, viết, “Chẳng vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết thì được gì? Nếu tuyệt nhiên kẻ chết không chỗi dậy, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết”. Câu này được Ông Smith trưng dẫn trong thư gửi cho một phái bộ Mormons ở Anh năm 1840.
Câu trên không dễ giải thích nên đã có tới 200 lối giải thích khác nhau. Tựu trung, việc rửa tội thế cho người chết không phải là chủ trương của thánh Phaolô hay của cộng đồng Kitô giáo ban đầu mà là chủ trương của các lạc giáo, vì trong mạch văn khi nói tới tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô luôn dùng hạn từ “anh em”, và nói về ngài dùng hạn từ “chúng tôi”, nhưng đến câu này, ngài dùng hạn từ “họ”, người ngoài: Ngài dùng ngay thực hành của họ để chứng minh sự phục sinh.
Các điều tìm thấy được tôi trình bầy trong một bài viết tựa là “Truyện Vùng Sâu vùng xa”, tính sẽ đăng trên nguyệt san dân Chúa Úc Châu là tờ báo thỉnh thoảng tôi có đóng góp bài vở. Nhưng nghĩ ở Việt Nam làm gì có dân Chúa Úc Châu để đọc, nên tôi nghĩ tới Vietcahtolic.
Cha Nghị cho đăng bài trên ngày 24 tháng 4 năm 2007. Từ đó, tôi có duyên với VietCatholic. Sau một vài bài nữa, Cha Nghị đề nghị tôi cộng tác thường xuyên với trang mạng, cấp thẻ “ký giả”, đúng hơn phương tiện để tôi tự do trực tiếp đăng tải bài lên trang mạng bất cứ lúc nào, không cần gửi bài qua ngài nữa.
Chỉ có thế, Cha Nghị và tôi không hề quen biết trước đó. Tôi chỉ được diện kiến ngài lần đầu năm 2015 khi ngài ghé Sydney vừa để phát động chiến dịch làm video cho Vietcatholic vừa để lên tầu chu du vùng nam Thái Bình Dương trong tư cách tuyên úy của tầu. Lần thứ hai, 1 năm sau đó, tại Garden Grove, nơi ngài gọi là Trụ Sở Vietcatholic, nhưng nay được nhận diện là tư gia của ngài.
Dịp gặp nhau tại Sydney để lại trong tôi ấn tượng hết sức sâu sắc về Cha, nhất là lúc này, khi nhìn lại. Cha Phaolô Chu Văn Chi, tôi và một số anh em dự trù tham gia chương trình làm video của Cha hẹn gặp Cha tại Nhà Hàng Mỹ Cảnh ở Bankstown, một thị trấn tây nam Sydney. Chúng tôi ra đón Cha tận Carpark của thành phố, điều đập vào mắt tôi là nụ cười hiền hòa của Cha Nghị, rất tự nhiên, cởi mở, chân tình, thân thiện, ngay lần đầu gặp nhau.
Nhưng không phải chỉ có thế. Suốt từ ngày Cha chưa qua đời và nhất là từ ngày ngài qua đời đến nay, tôi xem mọi videos, đọc mọi thông báo, tiều sử, lời phát biểu, tâm sự, diễn văn, điếu văn đăng tải trên Vietcatholic.net, không sót một nét, không bỏ một chữ. Nhờ thế mà biết rất nhiều về Cha Nghị, sự vĩ đại đầy ngạc nhiên, đảm nhiệm thành công bất cứ nhiệm vụ nào do mình khởi sướng (không ít) hay do cấp trên chỉ định (rất nhiều). Đúng như Cha Châu nói trong bài giảng Thánh Lễ An Táng Cha Nghị: khó có thể kể hết ở đây mọi công trình của Cha Gioan!
Nhưng, suốt trong buổi gặp Cha lần đầu ở nhà hàng Mỹ Cảnh, không nghe cha nói lời nào về các thành tựu của mình, không lời nào cả, kể cả thành tựu Vietcatholic. Có chăng Cha cho hay: buổi đầu, mình chỉ muốn có phương tiện để đăng tải Kinh Thánh. May quá, nhờ Đặng Minh An, mà mình chưa hề quen biết, Vietcatholic dần dà có bề thế. Và điều bất ngờ, ngài quay qua tôi và bô bô nói: và nhờ anh, nhờ anh nhiều lắm.
Tôi vẫn nghĩ điều Cha Nghị nói về Đặng Minh An thì đúng, điều ngài nói về tôi là một cách xã giao. Vì những gì tôi viết, đúng hơn cung cấp, qua phần lớn các bản dịch không có giá trị đến tạo nên uy tín cho Vietcatholic. Nhưng dù đúng hay sai, các nhận định ấy nói lên đức khiêm nhường triệt để nơi Cha Trần Công Nghị: chỉ biết ca ngợi các cộng sự viên, nhìn nhận phần đóng góp của họ, không bao giờ nói về mình.
Chính đức khiêm nhường trên, theo tôi, đã tạo nơi Cha Nghị một đức tính qúy giá khác là sự điềm tĩnh trong những lúc gặp gian nan thử thách, một điều, hình như ít ai nhắc đến. Làm truyền thông là đi vào con đường cạnh tranh, đôi lúc rất bẩn thỉu, từ phía địch đã đành mà còn từ phía bạn nữa. Người ta sẵn sàng dùng đòn hiểm để đánh gục mình khi thấy mình trồi lên lấn át họ. Như qúy độc giả đã biết bước sang đầu thiên niên kỷ thứ ba, Giáo Hội Công Giáo trở thành tiêu điểm để người ta tố cáo việc giáo sĩ lạm dụng tình dục. Không cần biết đúng sai và động cơ của người tố cáo là gì, hễ có lời tố cáo là người ta tin người tố cáo, không thèm nghe biện bạch của người bị tố cáo.
Giữa bầu khí nhiễm độc ấy, năm 2002, cùng năm với việc Đức Hồng Y Bernard Law của Boston phải từ chức vì bị tố cáo che đậy các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục, Cha Nghị đã bị một phụ nữ Việt Nam, người từng chịu ơn cha, đưa ra tòa vì tội danh hiếp dâm. Người tố cáo cha tuyên bố mình chắc chắn sẽ thắng kiện, cha sẽ bị kết án, dù họ biết lời tố cáo ấy chỉ là để giáng họa cho một người bị họ coi là không vừa ý.
Trước lời tố cáo rùng rợn chết người ấy, cha Nghị vẫn điềm tĩnh, suốt trong 3 năm trời, không hề dùng phương tiện truyền thông của mình để biện minh chi cả. Cha âm thầm nhờ chính công lý Hoa Kỳ biện minh. Và rất may cho Cha, nền công lý ấy đã minh oan cho cha và bắt người tố cáo bồi thường danh dự cho cha bằng khoản tiền lên tới hơn 100,000 dollars. Khoản tiền này, cha không bao giờ nhận được, vì người tố cáo 3 lần tuyên bố phá sản, tiền đâu để đưa cho Cha.
Điều đáng nói ở đây là một số cơ quan truyền thông tiếng Việt sẵn sàng tin lời tố cáo, vào hùa với nhau để hạ nhục thêm Cha Nghị. Và dù Cha được công lý biện minh, họ vẫn duy trì luận điệu cũ, không hề đưa tin Cha trắng án hay lên tiếng xin lỗi, thanh minh. Có điều, sau lần họp báo duy nhất để tường trình vụ việc, Cha Nghị không bao giờ dùng phương tiện của mình chống lại họ. Phải có một tinh thần đại lượng to lớn mới có thể có được sự điềm tĩnh ấy.
Tôi biết Cha Nghị còn nhiều người khác không có thiện cảm với cha, ra mặt chống đối Cha. Nhưng thái độ của cha vẫn là thái độ điềm tĩnh, không bao giờ lạm dụng phương tiện của mình để chống đối ai, tôn trọng nguyên tắc của Trang Mạng là không đả kích cá nhân.
Trong bữa ăn thân mật hôm ấy ở Nhà Hàng Mỹ Cảnh, Cha Nghị ít nói về hiện tại cũng như quá khứ, mà nói nhiều về tương lai: chương trình truyền hình cho VietCatholic và các chuyến viễn du đại dương trong tư cách tuyên úy cho các chuyến viễn du này. Chương trình truyền hình dĩ nhiên là cần thiết cho việc truyền giảng Tin Mừng. Còn viễn du? Tôi không nắm chắc tính chính đáng của nó. Nhưng cả hai nói lên con người thực của Cha Nghị: không bằng lòng với hiện tại, luôn dự kiến tương lai. Đó chính là nguyên lý tạo nên sự nghiệp hết sức đồ sộ của Cha Gioan Trần Công Nghị. Một sự đồ sộ mà tiếng kèn của người học trò cũ của Cha trong lễ hạ huyệt không quên nhắc nhở nguyên nhân: “You raise me up to more than I can be”. Nhưng vẫn không sánh bằng hạnh phúc triền miên Cha đang được hưởng trong sự hữu muôn đời của Thiên Chúa.
Cha Nguyễn Văn Toàn, linh hướng của Liên huynh đoàn giáo dân Đa Minh, Victoria |
Xem hình
Trước thánh lễ, đại diện liên huynh đã lên đọc tiểu sử của Thánh Nữ Catarina, vị thánh có tài thuyết giảng, cũng như thuyết phục để giảng hòa cả về phần đạo lẫn phần đời.
Sau đó, đoàn Thánh Giá nến cao đã rước đoàn đồng tế lên bàn thờ để dâng lễ. Thánh lễ đồng tế do Linh mục Nguyễn Văn Toàn OP Chánh xứ Nhà thờ Thánh Đa Minh và cũng là linh hướng của Liên huynh Victoria chủ tế và Linh mục Duy OP đồng tế. Với tiếng đàn do Soeur Kim phụ trách cùng Ca đoàn Đa Minh trẻ phụng vụ thánh ca
Sau khi làm dấu và chào mừng quý đoàn viên liên huynh, quý cha đã cùng với Liên Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh Victoria đọc kinh thần vụ.
Thánh lễ đã được Cha chủ tế và liên huynh đồng hiệp dâng sau đó. Trong bài chia sẻ tin mừng. Linh mục Duy, một linh mục trẻ của dòng đã chia sẻ về cuộc đời Mẹ Thánh. Xin tóm tắt: Linh mục chủ tế đã kể lại cuộc đời Thánh Nữ. Linh mục xoay quanh mấy điểm cần ghi nhớ và học hỏi, Mẹ Thánh là một tiền nhân, một vị tiền bối với những tố chất khiêm nhường, dù không được học hành. Nhưng Ngài lại có đời sống hết mực khiêm nhường, Ngài đã sống và học được từ nơi Chúa Giêsu.
Đời sống khiêm nhường và đơn sơ, Ngài đã nhận ra và chia sẻ những khổ đau của con người. Ngài cũng đã có công lớn trong việc thuyết phục để hàn gắn sự chia rẽ mà giáo hội đã kéo dài trong suốt 70 năm, và thuyết phục Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XI lúc đó quay trở về Giáo đô Rôma. Qua đời dâng hiến, Thánh Nữ đã sớm nhận ra ơn gọi của Chúa để dâng hiến đời mình. Chúng ta học hỏi nơi mẹ Thánh để sống đời sống của người giáo dân trong huynh đoàn Đa Minh.
Sau lễ, đại diện Ban phục vụ Liên Huynh Victoria đã lên cám ơn quý cha, ông Nguyễn Hoa Kỳ đại diện của Ban Phục vụ Liên Huynh Việt Nam Úc Châu, cùng toàn thể đoàn viên đã về dâng lễ mừng kính Thánh Catarina. Và giới thiệu tân ban phục vụ nhiệm kỳ mới, các thành viên đã được mời trình diện trước các đoàn viên liên huynh. Do quý ông bà Lê Quang Thụy, Nguyễn Thị Hương, Cường Lê, Chị Nữ. ông Công phục vụ trong nhiệm kỳ mới.
Trong một buổi sáng trời đẹp, các đoàn viên từ 6 huynh đoàn trong Tiểu bang Victoria, phần đông là cao tuổi. Được con cháu chở đến hay dùng phương tiện công cộng mà thường là xe Tram, các vị cho biết, đi từ miền Tây qua đây phải thay đổi mấy lần xe và đi qua hơn 50 trạm. Nhưng nhờ ơn Chúa, còn sức đi được, thì còn đi dâng lễ cùng liên huynh đoàn mỗi năm. Năm nay, do dịch bệnh, nên Liên huynh Victoria tổ chức mừng lễ đơn giản hơn các năm trước.
Đây là một thánh lễ mừng bổn mạng của Liên Huynh hàng năm, được tiếp nối sau hơn một năm phải ngưng hoạt động, để ngăn chặn dịch bệnh Covid, theo lệnh của chính quyền và giáo quyền kể từ Tháng Ba Năm 2020.
Được biết, Liên Huynh Đoàn Giáo Dân Đa Minh mỗi năm về nhà thờ Thánh Đa Minh hai lần để mừng kính Thánh Nữ Catarina 29/4. Thánh Đa Minh vào ngày 3/8.
16g30, các đoàn hoa các giáo họ, đại diện các đoàn thể cùng với Lm chủ tế cung nghinh tượng Đức Mẹ chung quanh nhà thờ cùng với lời kinh tiếng hát và lời kinh mân côi để cùng tôn vinh ca tung Mẹ Maria.
Xem Hình
Trong bài giảng, Lm chủ tế chia sẻ: Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa tuyên xưng Ta là cây nho thật, các con là cành nho, cành nào kết hợp với cây sẽ trổ xinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đang mặc khải Thiên tính của Ngài cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa đã xuống thế làm người để mời gọi chúng ta gắn kết với Chúa như là cành nho gắn liền với cây nho.
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Giuse, là mẫu gương tuyệt hảo của việc gắn kết với Chúa. Cành nho Giuse đã gắn kết với cây nho Giêsu để rồi khi đến trân gian này Chúa đã thánh hóa công việc của Thánh Giuse kể cả những việc rất bình dị cũng được chu toàn.
Thánh lễ kết thúc lúc 18g30, mọi người ra về trong niềm vui của ngày khai mạc tháng hoa dâng kính Mẹ Maria. Xin Mẹ luôn đồng hành và cầu bầu cùng Chúa cho từng người trong cộng đoàn giáo xứ trong hành trình lữ hành trần thế này.
Vinh sơn Trần văn Đẩu
Xem Hình
Đúng 7 giờ 30, cha xứ chủ sự xướng Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hát bài Cầu Xin Chúa Thánh Thần, đọc Kinh Cầu Đức Bà, kinh Lạy Nữ Vương và Kinh Hãy Nhớ. Tiếp theo là màn vũ điệu dâng hoa của các em do các sơ Dòng Mến Thánh Giá Kẻ Sải hướng dẫn. Điệu múa phát xuất từ tâm hồn đơn sơ của các em nhỏ bé, kết hợp với lời ca, tạo nên một màn vũ điệu tựa thể các thiên thần.
Sau màn dâng hoa, cộng đoàn cung nghinh Thánh tượng Mẹ Fatima chung quanh nhà thờ và Thánh lễ kính Mẹ Fatima là đỉnh cao để khấn xin Mẹ trợ giúp đoàn con nơi dương thế.
BTTGx. Tụy Hiền
1. Tin vui: Máu Thánh Gennariô bất ngờ hóa lỏng sau khi cộng đoàn đọc Kinh Cầu Các Thánh
Hôm thứ Bẩy 1 tháng Năm, ngay từ ban sáng, nhà thờ chính tòa Napoli, tiếng Anh gọi là Naples, đã có đông đảo các tín hữu và khách hành hương tham dự các thánh lễ và các cử hành khác.
Cho đến chiều Máu Thánh Gennariô vẫn khô đặc. Đức Tổng Giám Mục Domenico Battaglia, 58 tuổi, được biết đến như một “linh mục đường phố”, một người rất gần gũi với người nghèo, đã cử hành thánh lễ ban chiều.
Đây là lần đầu tiên, ngài cầm lọ Máu Thánh Gennariô trên tay trong tư cách là Tổng Giám Mục Napoli. Ngài tỏ ra bối rối khi thấy lọ máu vẫn khô đặc, không có bất cứ dấu chỉ hóa lỏng nào, một giọt cũng không có. Tưởng cũng nên nhắc lại, hôm thứ Tư 16 tháng 12, năm ngoái, Máu Thánh Gennariô đã không hóa lỏng.
Đức Tổng Giám Mục Domenico Battaglia không bỏ cuộc, ngài yêu cầu cộng đoàn cùng đọc Kinh Cầu Các Thánh với ngài. Thật lạ lùng, trong lúc cộng đoàn vẫn đang tiếp tục Kinh Cầu Các Thánh, Máu Thánh Gennariô đã bất ngờ hóa lỏng. Đến 5 giờ 18 phút Máu Thánh Gennariô đã hóa lỏng hoàn toàn.
Thị trưởng thành phố Napoli là ông Luigi De Magistris reo mừng nói với các ký giả “Thánh Gennariô vẫn luôn ở bên cạnh chúng ta”.
Cha Vincenzo de Gregorio, phụ trách nhà nguyện Thánh Gennariô ở nhà thờ chính tòa Napoli cho rằng “Những gì xảy ra ngày hôm nay là một lời cảnh tỉnh chúng ta phải hoán cải, phải siêng năng cầu nguyện, đặc biệt là trong tháng 5, là tháng hoa kính Đức Mẹ.”
Thánh Gennariô là giám mục thành Benevento, nước Ý. Ngài được chọn làm quan thầy của thành Naples nước này. Thánh nhân chịu tử đạo trong cuộc bách hại dưới triều hoàng đế La Mã Diôclêtiô vào ngày 19 tháng 9 năm 305.
Ngài bị chặt đầu cùng với các phó tế Festus, Sosius và Proculus; thầy đọc sách Desiderius và hai giáo dân Eutyches và Acutius. Tất cả đều bị bắt khi đến thăm Sosius, là phó tế và đang bị tù ở Pozzuoli. Sau khi bị bắt, họ bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.
Một lọ máu khô của ngài được lưu trữ trong nhà thờ chánh tòa Naples. Một hiện tượng kỳ lạ không giải thích được là máu khô của ngài hóa lỏng mỗi năm ba lần: vào ngày 19 tháng 9, ngày lễ kính thánh nhân; ngày thứ Bẩy hay Chúa Nhật đầu tiên của tháng Năm, kỷ niệm di tích của ngài được rước vào nhà thờ chánh tòa Naples; và vào ngày 16 tháng 12, kỷ niệm vụ phun trào núi lửa Vesuvius. Giáo Hội chưa từng chính thức tuyên bố đây là phép lạ, mặc dù Đức Tổng Giám Mục Naples thường xuyên chủ sự các buổi lễ tại đó và hộp đựng máu khô được đặt trên bàn thờ và phép lạ được công bố khi máu của ngài hóa lỏng.
Ngày 16 tháng 12 năm 2016, bửu huyết của Thánh Gennariô đã không hóa lỏng như dự kiến. Chỉ một tuần sau đó, các nhà khoa học cho biết một hỏa diệm sơn ngoài khơi bờ biển đảo Sicily, gần Naples, đã rục rịch hoạt động trở lại.
Hỏa diệm sơn Campi Flegrei là núi lửa lớn hơn rất nhiều so với ngọn núi lửa Vesuvius, từng phun trào phún xuất thạch phá hủy toàn bộ thành phố cổ Pompeii. Núi lửa Campi Flegrei, một khi bùng nổ có thể gây nguy hiểm cho nhiều nước châu Âu.
Nhiều cư dân của Naples tin rằng việc máu của thánh nhân không hóa lỏng là một dấu chỉ cho thấy các bi kịch sẽ xảy đến cho thành phố. Gần đây nhất, khi máu của thánh nhân không hóa lỏng vào năm 1980, một trận động đất đã xảy ra ít ngày sau ở phía nam thành phố Naples làm hơn 2,500 người thiệt mạng. Một trường hợp tương tự vào năm 1939, khi một bệnh dịch tả tấn công thành phố ngay trước khi bùng nổ Thế chiến thứ hai; và vào năm 1943, khi quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng Ý. Trong quá khứ xa xôi nhất, sự vắng mặt của các phép lạ thường được kết hợp với các tổn thất quân sự, các vụ phun trào núi lửa, và sự bùng phát của các dịch bệnh.
Ngày 16 tháng 12 năm ngoái máu của thánh nhân không hóa lỏng. Vài ngày trước đó, một cây cầu đột nhiên gẫy làm đôi trong đêm. Một chiếc xe chở khách đã lao xuống dòng sông. Hơn ba tuần sau đó, hôm thứ Sáu 8 tháng Giêng, trong bãi đậu xe của bệnh viện Ospedale del Mare, nghĩa là bệnh viện Biển, ở Napoli, một khoảng đất rộng 2,000 mét vuông đã bất ngờ sụp xuống, tạo thành một hố sâu, nuốt chửng cả 3 chiếc xe hơi đang đậu trong bãi đậu xe.
Source:TGCOM 24
2. Hai giáo xứ ở Giáo phận Sacramento phải chịu những hành động phá hoại tương tự trong hai tuần qua.
Trong những ngày cuối tuần từ 17 đến 18 tháng 4, ba bức tượng đã bị phá hoại bên ngoài Nhà thờ Công Giáo Rất Thánh Mân Côi ở Woodland, California. Trong các bức ảnh do giáo dân Duke Sancho gửi cho Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, những bức tượng dường như là của Đức Mẹ Maria, Thánh Gioan và Thánh Maria Mađalêna tại đồi Calvariô nơi Chúa chịu đóng đinh. Cả ba bức tượng đều bị biến dạng với lớp sơn phun màu đen che mất một phần khuôn mặt.
Anh Sancho nói với CNA rằng một hội huynh đệ các nam giới trong giáo xứ và Cha Sở Jonathan Molina đã tổ chức một dự án làm sạch các bức tượng.
Tại giáo xứ Thánh Gioan Vianney ở Rancho Cordova cũng cùng giáo phận Sacramento, một bức tượng của Đức Mẹ Maria cũng bị biến dạng với lớp sơn phun màu đen che mất một phần khuôn mặt.
Trong một dòng tweet ngày 25 tháng 4, một giáo dân đã đăng một bức ảnh chụp tượng Đức Mẹ với lớp sơn đen phủ khắp mặt, tay và chân. Một cây thánh giá màu đen đã được buộc ngang trên thân chính của bức tượng.
Vị giáo dân cho biết thêm rằng những vết sơn xịt lên bức tượng đã được gỡ bỏ nhưng vẫn có một chút ảnh hưởng lâu dài đối với bức tượng.
“Cần phải mất một thời gian. Hóa chất đã gây xáo trộn với đá, vì thế nhìn kỹ bạn có thể thấy một số thay đổi đối với bức tượng nơi bị sơn, nhưng nhìn chung bức tượng đã được làm sạch,” vị giáo dân này viết.
“Chúng tôi đã cố gắng để có được một nhóm khoảng một chục người cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi trước thánh lễ ngay tại bức tượng đó như một cử chỉ phạt tạ cho sự xúc phạm này”,
Giáo phận đã trả lời một cuộc điều tra từ CNA bằng một tuyên bố vào thứ Hai rằng “Các bức tượng đã được phục hồi. Chúng tôi cầu nguyện cho bất kỳ ai vì lý do nào đó đã quyết định gây thiệt hại cho bất kỳ biểu tượng đức tin nào.”
Các vụ việc mới diễn ra tại California không phải là mới. Một loạt các hành động phá hoại khác nhắm vào các nhà thờ đã xảy ra.
Vào tháng 4, khuôn mặt trên một bức tượng của Chúa Giêsu đã bị phun sơn đen tại Nhà thờ Đức Maria ở giáo phận Fargo. Vào ngày 13 tháng 3, vỉa hè bên ngoài Giáo xứ Thánh Giuse trên Đồi Capitol ở Washington DC đã bị phá hoại với những gì có vẻ là hình vẽ satan.
Vào đầu tháng Hai, ba bức tượng thiên thần tại Nhà thờ Thánh Piô thứ 10 ở El Paso, Texas, đã bị lật nhào và đập bể.
Vào đầu tháng Giêng, một bức tượng của Thánh Têrêxa thành Lisieux đã bị phá hủy, cây thánh giá gần đó bị lộn ngược, và những kẻ phá hoại đã viết một chữ “satan” rất lớn kèm theo một ngôi sao năm cánh, tại giáo xứ Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu ở Abbeville, Louisiana.
Các nhà thờ Công Giáo và các bức tượng trên khắp Hoa Kỳ đã là mục tiêu đốt phá và giập sập trong suốt năm 2020 trong bối cảnh bạo loạn và biểu tình hàng loạt, chẳng hạn như ở Kenosha, Wisconsin.
Source:Catholic News Agency
3. Đức Thánh Cha Phanxicô ca ngợi 'bác sĩ của người nghèo' ở Venezuela trước khi phong chân phước
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp video về việc phong chân phước vào hôm thứ Sáu 30 Tháng Tư cho José Gregorio Hernández, một bác sĩ người Venezuela, là người đã tận tâm phục vụ người nghèo trong dịch cúm Tây Ban Nha.
“Việc phong chân phước cho Bác sĩ Hernández là một ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa dành cho Venezuela, và mời gọi chúng ta phát triển theo hướng đoàn kết hơn với nhau, cùng nhau tạo ra thiện ích chung cần thiết để đất nước hồi sinh, và tái sinh sau đại dịch với tinh thần hòa giải”, Đức Thánh Cha nói trong thông điệp ngày 29 tháng Tư gửi nhân dân Venezuela.
“Giữa tất cả những khó khăn, tôi yêu cầu tất cả anh chị em, những người yêu mến Bác sĩ José Gregorio rất nhiều, hãy theo gương đáng ngưỡng mộ của ngài trong việc phục vụ vị tha cho người khác”.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi thông điệp vào trước lễ phong chân phước ngày 30 tháng 4 tại thủ đô Caracas của Venezuela.
Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Vatican, nguyên là Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuela, đã dự định chủ sự thánh lễ phong chân phước nhưng cuối cùng phải hủy chuyến đi đến Venezuela vào ngày 28 tháng 4 do đại dịch coronavirus.
“Việc phong chân phước cho Tiến sĩ José Gregorio diễn ra vào một thời điểm đặc biệt khó khăn đối với anh chị em. Như các giám mục anh em của tôi, tôi biết rõ hoàn cảnh mà anh chị em đang phải trải qua, và tôi biết rằng sự đau khổ và buồn sầu kéo dài của anh chị em đã trở nên trầm trọng hơn do đại dịch COVID-19 khủng khiếp đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết.
Venezuela, quốc gia có gần 29 triệu dân giáp với Colombia, Brazil và Guyana, đang ở giữa một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị kéo dài nhiều năm.
Trong thông điệp video của ngài, Đức Giáo Hoàng nói nhiều lần rằng ngài muốn đến thăm Venezuela, và nhấn mạnh rằng ngài đang cầu nguyện cho “hòa giải và hòa bình” ở đất nước này.
Đức Phanxicô kêu gọi người Venezuela “tìm kiếm con đường thống nhất dân tộc” bằng cách “đặt lợi ích chung lên trước bất kỳ lợi ích nào khác”.
“Và tôi cầu xin Chúa rằng không có sự can thiệp nào từ bên ngoài ngăn cản anh chị em đi theo con đường đoàn kết dân tộc này”.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tôi chân thành tin rằng khoảnh khắc đoàn kết dân tộc này, xung quanh hình ảnh vị bác sĩ của người dân, tạo nên một thời khắc đặc biệt cho Venezuela và tôi xin anh chị em tiến xa hơn nữa, xin anh chị em thực hiện các bước cụ thể để ủng hộ sự thống nhất, mà không để bản thân bị đè bẹp bởi sự chán nản”.
“Theo gương của Bác sĩ José Gregorio, mong anh chị em có thể nhìn nhận nhau như những người bình đẳng, như anh em, như những người con của cùng một quê hương”.
José Gregorio Hernández sinh ngày 26 tháng 10 năm 1864 tại thị trấn Isnotú thuộc bang Trujillo của Venezuela. Ông mất mẹ năm 8 tuổi.
Hernández học y khoa ở Caracas và được chính phủ tài trợ để tiếp tục học ở Paris vào năm 1889 trong hai năm.
Sau khi trở về Venezuela, ông trở thành giáo sư tại Đại học Trung tâm Caracas, nơi ông bắt đầu mỗi bài học bằng dấu thánh giá.
Hernández tham dự thánh lễ hàng ngày, mang thuốc men và chăm sóc cho người nghèo, và là một tu sĩ Dòng Ba Phanxicô.
Cuối cùng, ngài nhận ra ơn gọi tu trì của một tu sĩ và từ bỏ chức vụ giáo sư của mình để vào một tu viện dòng Carthusiô nhặt phép Farneta, Ý, vào năm 1908, với tên là Tu huynh Marcelo.
Sau chín tháng, ngài ngã bệnh, và bề trên đề nghị ngài trở về Venezuela để hồi phục. Tại Caracas, ngài được phép vào Chủng viện Santa Rosa de Lima.
Ngài chuyển đến Rôma trong ba năm để học thần học tại Trường Cao đẳng Piô Mỹ Latinh, nhưng lại bị bệnh và buộc phải trở về Venezuela vào năm 1914.
Hernández kết luận rằng đó là ý Chúa muốn ngài vẫn là một giáo dân. Sau đó, ngài quyết định thúc đẩy sự thánh hóa như một người Công Giáo gương mẫu bằng cách trở thành một bác sĩ và tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phục vụ người bệnh.
Ngài đã cống hiến hết mình cho nghiên cứu học thuật và đào sâu sự cống hiến của mình trong việc phục vụ người nghèo, đặc biệt là trong dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918.
Một ngày nọ, khi vị bác sĩ đi bốc thuốc cho một người phụ nữ lớn tuổi nghèo, ngài bị một chiếc xe hơi đâm phải. Ngài qua đời trong bệnh viện vào ngày 29 tháng 6 năm 1919, sau khi nhận các nghi thức cuối cùng.
Người Công Giáo ở Venezuela đã hoan nghênh việc phong chân phước cho Hernández như một nguồn cảm hứng cho những giáo dân khác.
Hội đồng Giáo dân Quốc gia Venezuela đã gửi một tuyên bố tới Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, bày tỏ sự vui mừng trước việc “giáo dân Venezuela đầu tiên được nâng lên bàn thờ”.
“Trong Năm dành cho Giáo dân Venezuela này, chúng tôi hy vọng rằng trái tim của mỗi người được làm sống động bởi một nhân vật mẫu mực như vậy và chúng tôi sống như những môn đệ đích thực làm chứng hàng ngày cho sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta”.
Hiệp hội Công Giáo giáo dân nhấn mạnh rằng Hernández “đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc đời của mình, bao gồm cả dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, gây ra cái chết của nhiều người Venezuela. Tuy nhiên, ngài không bao giờ mệt mỏi trong lòng háo hức phục vụ Chúa bằng cách hiến thân cho người khác”.
“Xin Chúa giúp chúng con canh tân đức tin của dân tộc được thánh hiến cho Mình Thánh Chúa này và hiểu được phẩm giá của phép rửa tội đã thanh tẩy chúng ta và canh tân những dấn thân của chúng ta cho người lân cận. Xin Chúa truyền cảm hứng cho chúng con để chúng con thường xuyên phó thác mình cho Chúa Thánh Thần, Đấng đã đổi mới chúng con, để chúng con có thể ý thức rằng nhờ bửu huyết của Chúa Kitô mà chúng con được cứu chuộc”
Source:Catholic News Agency
4. 12 người bị bắt trong vụ mưu sát tân Giám Mục
Như chúng tôi đã đưa tin, một vị Giám mục người Ý vừa được bổ nhiệm ở Nam Sudan đã bị mưu sát vào khuya Chúa Nhật rạng sáng thứ Hai 26 Tháng Tư. Giáo Hội địa phương đã di tản ngài về thủ đô Narobi của Kenya nơi có các phương tiện điều trị chuyên biệt.
Vatican News cho biết Cha Christian Carlassare, người Ý, thuộc Dòng Truyền Giáo Comboni của Thánh Tâm Chúa Giêsu, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục Giáo phận Rumbek vào ngày 8 tháng 3, sau một thời gian giáo phận này trống tòa kéo dài gần một thập kỷ.
Khi nghe tin buồn này, Đức Thánh Cha cho biết ngài đang cầu nguyện cho vị tân Giám Mục này.
Trong cuộc họp báo vào một ngày sau đó, cảnh sát cho biết
“Khi hai người đàn ông bắn vị tân giám mục vừa được bổ nhiệm, một trong hai tên đã làm rơi điện thoại của mình và vị giám mục đã ngã lên chiếc điện thoại đó. Chính nhờ chiếc điện thoại này mà cảnh sát đã tìm ra được hai kẻ bắn ngài và những người có liên hệ đến vụ mưu sát”.
Điều đáng quan ngại là trong số những người bị bắt sau vụ mưu sát này có cả ba linh mục và “những giáo dân nổi bật khác trong Giáo phận Rumbek”.
Đức Cha Christian Carlassare đã bị bắn vào cả hai chân sau khi hai người đàn ông có vũ trang bắn nhiều phát đạn vào cửa nhà để xông vào phòng của ngài.
Rõ ràng là các thủ phạm không cố ý giết ngài, nhưng có lẽ chúng muốn ngài tàn phế.
Nam Sudan, có biên giới với Sudan, Ethiopia, Kenya, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Cộng hòa Trung Phi, là một quốc gia ở phía đông trung Phi với 11 triệu dân, đã giành được độc lập từ Sudan vào năm 2011. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội lớn nhất tại quốc gia này.
Lễ tấn phong giám mục cho Đức Cha Carlassare, được lên kế hoạch diễn ra vào Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày 23 tháng Năm.
Ngài đã phục vụ tại Giáo phận Malakal của Nam Sudan kể từ khi ngài đến quốc gia Đông-Trung Phi này vào năm 2005.
Ngài đã đến Giáo phận Rumbek vào ngày 15 tháng 4 vừa qua, sau những ngày tĩnh tâm tại thủ đô Juba của Nam Sudan.
Giáo phận Rumbek rơi vào tình trạng trống tòa từ tháng 7 năm 2011 sau cái chết đột ngột của Đức Cha Caesar Mazzolari. Vị giám mục của Hội Truyền giáo Comboni đã gục ngã khi đang dâng thánh lễ vào sáng ngày 16 tháng 7 năm 2011, một tuần sau khi Nam Sudan độc lập. Ngài được xác nhận đã chết tại Bệnh viện Rumbek vào sáng hôm đó.
Source:National Catholic Register