Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:46 27/04/2013
MỘNG
Có người nọ, đêm nằm mơ thấy mình đang đi dạo bên bờ biển với Thiên Chúa, sấm chớp bên trời soi rõ từng bước từng bước trong cuộc sống quá khứ của anh ta. Mỗi lần như thế thì anh ta đều chú ý trên cát có hai đôi dấu chân: một đôi của anh ta và một đôi của Thiên Chúa.
Nhưng, có lúc anh ta để ý chỉ thấy có một đôi dấu chân, rồi anh ta nhớ lại có những lúc anh ta sống trong những ngày thương đau nhất, khốn khó nhất, mà không lý giải được, cho nên anh ta báo oán với Thiên Chúa, nói:
- “Lạy Chúa, không phải Ngài nói với con là nếu con quyết tâm theo Ngài, thì Ngài luôn đi với con sao ? Nhưng bây giờ con để ý thấy trong cuộc sống của con, khi những khó khăn đến thì chỉ thấy có một đôi dấu chân, con không hiểu tại sao khi con đau khổ thương tâm nhất thì Ngài lại xa rời con ?”
Thiên Chúa trả lời anh ta:
- “Con thân mến của Ta, từ trước đến nay Ta chưa hề xa con, con chỉ thấy một đôi dấu chân là bởi vì khi con gặp những đau thương khốn khó nhất thì Ta bồng con trên tay mà đi.”
Suy tư:
Đức Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ và cả chúng ta nữa: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” .
Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta, bởi vì chính Ngài đã đón nhận chúng ta làm con cái của Ngài trong Đức Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô cũng khẳng định là không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu thương của Thiên Chúa, dù cho khó khăn gián khổ, bị bắt bớ hay tù đày.v.v... Tuy nhiên, chỉ có một thứ làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa mà thôi, đó chính là tội lỗi của mình.
Tội lỗi làm cho chúng ta mất ơn nghĩa với Thiên Chúa, nó là cho cái áo trắng tinh tuyền ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội hoen ố xấu xí; tội lỗi làm cho khuôn mặt tâm hồn của chúng ta biến thành méo mó xấu xa; tội lỗi làm cho chúng ta trở nên kẻ thù nghịch với ân sủng.
Chúng ta không một mình đi trong cuộc đời nhưng có Chúa đi cùng; chúng ta không cô độc chiến đấu với cám dỗ của ma quỷ, nhưng có Chúa ở bên chúng ta để ban ơn và nâng đỡ.
Đừng sợ, vi có Chúa ở cùng chúng ta.
----------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có người nọ, đêm nằm mơ thấy mình đang đi dạo bên bờ biển với Thiên Chúa, sấm chớp bên trời soi rõ từng bước từng bước trong cuộc sống quá khứ của anh ta. Mỗi lần như thế thì anh ta đều chú ý trên cát có hai đôi dấu chân: một đôi của anh ta và một đôi của Thiên Chúa.
Nhưng, có lúc anh ta để ý chỉ thấy có một đôi dấu chân, rồi anh ta nhớ lại có những lúc anh ta sống trong những ngày thương đau nhất, khốn khó nhất, mà không lý giải được, cho nên anh ta báo oán với Thiên Chúa, nói:
- “Lạy Chúa, không phải Ngài nói với con là nếu con quyết tâm theo Ngài, thì Ngài luôn đi với con sao ? Nhưng bây giờ con để ý thấy trong cuộc sống của con, khi những khó khăn đến thì chỉ thấy có một đôi dấu chân, con không hiểu tại sao khi con đau khổ thương tâm nhất thì Ngài lại xa rời con ?”
Thiên Chúa trả lời anh ta:
- “Con thân mến của Ta, từ trước đến nay Ta chưa hề xa con, con chỉ thấy một đôi dấu chân là bởi vì khi con gặp những đau thương khốn khó nhất thì Ta bồng con trên tay mà đi.”
Suy tư:
Đức Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ và cả chúng ta nữa: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha” .
Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta, bởi vì chính Ngài đã đón nhận chúng ta làm con cái của Ngài trong Đức Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô cũng khẳng định là không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu thương của Thiên Chúa, dù cho khó khăn gián khổ, bị bắt bớ hay tù đày.v.v... Tuy nhiên, chỉ có một thứ làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa mà thôi, đó chính là tội lỗi của mình.
Tội lỗi làm cho chúng ta mất ơn nghĩa với Thiên Chúa, nó là cho cái áo trắng tinh tuyền ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội hoen ố xấu xí; tội lỗi làm cho khuôn mặt tâm hồn của chúng ta biến thành méo mó xấu xa; tội lỗi làm cho chúng ta trở nên kẻ thù nghịch với ân sủng.
Chúng ta không một mình đi trong cuộc đời nhưng có Chúa đi cùng; chúng ta không cô độc chiến đấu với cám dỗ của ma quỷ, nhưng có Chúa ở bên chúng ta để ban ơn và nâng đỡ.
Đừng sợ, vi có Chúa ở cùng chúng ta.
----------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:49 27/04/2013
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH
Tin mừng : Ga 13, 31-33a ; 34-35
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”.
Bạn thân mến,
Mệnh lệnh mới mà Đức Chúa Giê-su truyền cho chúng ta là: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Đây là mệnh lệnh mới trong xã hội sống và làm việc theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng đối với chúng ta thì mệnh lệnh này không mới, bởi vì chúng ta đã thuộc nằm lòng mệnh lệnh này, nhưng nó rất mới cho cách suy nghĩ của chúng ta trong khi thi hành mệnh lệnh yêu thương này của Đức Chúa Giê-su.
Anh em hãy yêu thương nhau là một lệnh truyền của Đức Chúa Giê-su, bởi vì Ngài chính là tình yêu và chính Ngài biết rõ tình yêu sẽ mang lại gì cho chúng ta, nó mang lại sự bình an tâm hồn, phục vụ tha nhân và hòa bình thế giới.
“Anh em hãy yêu thương nhau”, mà tình yêu của Đức Chúa Giê-su chính là tình yêu chết cho người mình yêu, nghĩa là đặt người mình yêu lên trên tất cả cái tôi của mình để sống chết cho người mình yêu, Đức Chúa Giê-su đã yêu thương Chúa Cha và Ngài đã sống đã chết vì ý Cha trên trời; Ngài cũng đã hi sinh đã chết và đã sống lại vì yêu thương chúng ta. Tình yêu này mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy tiếp nối để cho tha nhân được nhìn thấy Đức Chúa Ki-tô trong con người của chúng ta.
Có người yêu mà không hy sinh cho người mình yêu, có người hy sinh nhưng không yêu cho nên gia đình chưa có hạnh phúc, thế gian vẫn còn những cảnh bất công xảy ra, vẫn còn chiến tranh hận thù, và con người ta thì chỉ biết yêu mình chứ không đành lòng chia sẻ với người khác.
Yêu thương nhau không có nghĩa là cùng nhau nhìn về một hướng, nhưng hãy nhìn về đối tượng của mình coi họ cần cái gì, họ thiếu cái gì để giúp đỡ khi có thể được, họ đang đau khổ hãy ủi an, họ đang thất vọng hãy đem lại cho họ hy vọng, họ đang chán sống hãy làm cho họ thấy đời thật vui tươi...
Bạn thân mến,
Lệnh truyền “Hãy yêu thương nhau” mà Đức Chúa Giê-su ban cho chúng ta không phải là lệnh truyền của ảo tưởng nhưng là của hiện thực, không phải là lệnh truyền được ban ra trong lúc ngẫu hứng, nhưng là trong bầu khí yêu thương tình cảm thầy trò tâm sự, cho nên lệnh truyền này có một sức mạnh đổi mới con người và thế giới.
Giáo xứ chúng ta được mọi người trong giáo phận biết đến bởi vì anh chị em làm việc với nhau có tình đoàn kết, mỗi người biết phát huy tinh thần và khả năng của mình để phục vụ Chúa trong giáo xứ. Những công việc làm của các anh chị em hội Legio đã khiến cho nhiều người thờ ơ với Giáo Hội nay trở về hợp nhất với chúng ta; việc làm của các thầy cô giáo lý viên đã khiến cho con em chúng ta có tinh thần mới trong việc học giáo lý; các thành viên trong ban đại diện rất đoàn kết và làm việc có phương pháp đem lại hiệu quả tốt đẹp cho giáo xứ...
Tất cả những thành quả trên đều bắt nguồn từ lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, mà mỗi người trong chúng ta đang thực hành trong cuộc sống của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
----------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin mừng : Ga 13, 31-33a ; 34-35
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”.
Bạn thân mến,
Mệnh lệnh mới mà Đức Chúa Giê-su truyền cho chúng ta là: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Đây là mệnh lệnh mới trong xã hội sống và làm việc theo luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng đối với chúng ta thì mệnh lệnh này không mới, bởi vì chúng ta đã thuộc nằm lòng mệnh lệnh này, nhưng nó rất mới cho cách suy nghĩ của chúng ta trong khi thi hành mệnh lệnh yêu thương này của Đức Chúa Giê-su.
Anh em hãy yêu thương nhau là một lệnh truyền của Đức Chúa Giê-su, bởi vì Ngài chính là tình yêu và chính Ngài biết rõ tình yêu sẽ mang lại gì cho chúng ta, nó mang lại sự bình an tâm hồn, phục vụ tha nhân và hòa bình thế giới.
“Anh em hãy yêu thương nhau”, mà tình yêu của Đức Chúa Giê-su chính là tình yêu chết cho người mình yêu, nghĩa là đặt người mình yêu lên trên tất cả cái tôi của mình để sống chết cho người mình yêu, Đức Chúa Giê-su đã yêu thương Chúa Cha và Ngài đã sống đã chết vì ý Cha trên trời; Ngài cũng đã hi sinh đã chết và đã sống lại vì yêu thương chúng ta. Tình yêu này mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy tiếp nối để cho tha nhân được nhìn thấy Đức Chúa Ki-tô trong con người của chúng ta.
Có người yêu mà không hy sinh cho người mình yêu, có người hy sinh nhưng không yêu cho nên gia đình chưa có hạnh phúc, thế gian vẫn còn những cảnh bất công xảy ra, vẫn còn chiến tranh hận thù, và con người ta thì chỉ biết yêu mình chứ không đành lòng chia sẻ với người khác.
Yêu thương nhau không có nghĩa là cùng nhau nhìn về một hướng, nhưng hãy nhìn về đối tượng của mình coi họ cần cái gì, họ thiếu cái gì để giúp đỡ khi có thể được, họ đang đau khổ hãy ủi an, họ đang thất vọng hãy đem lại cho họ hy vọng, họ đang chán sống hãy làm cho họ thấy đời thật vui tươi...
Bạn thân mến,
Lệnh truyền “Hãy yêu thương nhau” mà Đức Chúa Giê-su ban cho chúng ta không phải là lệnh truyền của ảo tưởng nhưng là của hiện thực, không phải là lệnh truyền được ban ra trong lúc ngẫu hứng, nhưng là trong bầu khí yêu thương tình cảm thầy trò tâm sự, cho nên lệnh truyền này có một sức mạnh đổi mới con người và thế giới.
Giáo xứ chúng ta được mọi người trong giáo phận biết đến bởi vì anh chị em làm việc với nhau có tình đoàn kết, mỗi người biết phát huy tinh thần và khả năng của mình để phục vụ Chúa trong giáo xứ. Những công việc làm của các anh chị em hội Legio đã khiến cho nhiều người thờ ơ với Giáo Hội nay trở về hợp nhất với chúng ta; việc làm của các thầy cô giáo lý viên đã khiến cho con em chúng ta có tinh thần mới trong việc học giáo lý; các thành viên trong ban đại diện rất đoàn kết và làm việc có phương pháp đem lại hiệu quả tốt đẹp cho giáo xứ...
Tất cả những thành quả trên đều bắt nguồn từ lệnh truyền “hãy yêu thương nhau” của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, mà mỗi người trong chúng ta đang thực hành trong cuộc sống của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
----------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:51 27/04/2013
N2T |
43. Tư dục rất gian giảo, thường lấy mình làm hướng chung kết, khiến cho người ta sập vào lưới của nó.
(sách Gương Chúa Giê-su)--------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:53 27/04/2013
NHẪN NẠI
Cha sở đang làm lễ, cộng đoàn đang hát bài vừa không phù hợp với thánh lễ vừa lộn xộn, ngài rất bực mình lo ra, muốn nạt nộ vài tiếng cho cộng đoàn biết, nhưng ngài chợt nhớ lời của thánh nữ Terese of Avila nói: ”nhẫn nại có thể giành được tất cả”, nên ngài cầm lòng cầm trí tiếp tục dâng thánh lễ...
Lễ xong ngài nghe giáo dân nói với nhau: hôm nay cha làm lễ rất sốt sắng, không chia trí...
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Cha sở đang làm lễ, cộng đoàn đang hát bài vừa không phù hợp với thánh lễ vừa lộn xộn, ngài rất bực mình lo ra, muốn nạt nộ vài tiếng cho cộng đoàn biết, nhưng ngài chợt nhớ lời của thánh nữ Terese of Avila nói: ”nhẫn nại có thể giành được tất cả”, nên ngài cầm lòng cầm trí tiếp tục dâng thánh lễ...
Lễ xong ngài nghe giáo dân nói với nhau: hôm nay cha làm lễ rất sốt sắng, không chia trí...
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần một khuôn mặt truyền giáo
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:56 27/04/2013
VẼ VANG GIÁO HỘI VIỆT NAM
34. Linh mục Mát-thêu Lê Minh Trí, SDB.
- Viện trưởng và là người sắp xếp, giúp đỡ người lao động ngoại quốc ở giáo phận Đài Nam (Tainan), Đài Loan.
Linh mục Mát-thêu Lê Minh Trí sinh ngày 18.02. 1970 là linh mục dòng Bosco (Salesians of Don Bosco), thuộc tỉnh dòng Trung Hoa - Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Khấn lần đầu ngày 15.08.1992.
Sau đó thầy tiếp tục học tiết học và thần học tại học viện của dòng và tình nguyện đi truyền giáo tại Đài Loan.
Ngày 03.07.2004 thầy được đức giám mục Joseph Trần Nhật Quân, SDB thuộc giáo phận Hongkong đặt tay truyền chức linh mục tại giáo phận Đài Nam.
Năm 2003 sau khi được thụ phong linh mục thì cha Minh Trí làm mục vụ tại trường trung học, giúp các giáo xứ, và đặc biệt là chăm sóc mục vụ cho các công nhân ngoại quốc trong đó có công nhân và cô dâu Việt Nam đang sống và làm việc tại thành phố Đài Nam-Đài Loan.
Ngài được đức cha giáo phận Đài Nam cử làm viện trưởng và là người sắp xếp, giúp đỡ người lao động ngoại quốc tại giáo phận Đài Nam cho đến nay.
Đây là sự vẽ vang cho Giáo Hội Việt Nam cách chung và cách riêng cho các linh mục tu sĩ nam nữ đang truyền giáo tại đảo quốc Đài Loan.
Xin mọi người cầu nguyện cho các nhà truyền giáo Việt Nam trên khắp thế giới.
--------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
34. Linh mục Mát-thêu Lê Minh Trí, SDB.
- Viện trưởng và là người sắp xếp, giúp đỡ người lao động ngoại quốc ở giáo phận Đài Nam (Tainan), Đài Loan.
Linh mục Mát-thêu Lê Minh Trí sinh ngày 18.02. 1970 là linh mục dòng Bosco (Salesians of Don Bosco), thuộc tỉnh dòng Trung Hoa - Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Khấn lần đầu ngày 15.08.1992.
Sau đó thầy tiếp tục học tiết học và thần học tại học viện của dòng và tình nguyện đi truyền giáo tại Đài Loan.
Ngày 03.07.2004 thầy được đức giám mục Joseph Trần Nhật Quân, SDB thuộc giáo phận Hongkong đặt tay truyền chức linh mục tại giáo phận Đài Nam.
Năm 2003 sau khi được thụ phong linh mục thì cha Minh Trí làm mục vụ tại trường trung học, giúp các giáo xứ, và đặc biệt là chăm sóc mục vụ cho các công nhân ngoại quốc trong đó có công nhân và cô dâu Việt Nam đang sống và làm việc tại thành phố Đài Nam-Đài Loan.
Ngài được đức cha giáo phận Đài Nam cử làm viện trưởng và là người sắp xếp, giúp đỡ người lao động ngoại quốc tại giáo phận Đài Nam cho đến nay.
Đây là sự vẽ vang cho Giáo Hội Việt Nam cách chung và cách riêng cho các linh mục tu sĩ nam nữ đang truyền giáo tại đảo quốc Đài Loan.
Xin mọi người cầu nguyện cho các nhà truyền giáo Việt Nam trên khắp thế giới.
--------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Hãy vui lòng dạy con tình yêu
LM. Giuse Trương Đình Hiền
13:26 27/04/2013
Hãy vui lòng dạy con tình yêu
(CHÚA NHẬT V PHỤC SINH C)
Ngày 16.4 năm ngoái (2012), cả thế giới bàng hoàng vì cái tin một sinh viên Nam Hàn xách súng vào đại học Kỷ thuật Virginia bắn chết 32 sinh viên và sau đó tự sát. Năm nay, cũng đúng vào ngày 16 4, cả nước Mỹ lại bàng hoàng vì sự kiện đặt bom khủng bố ngay tại cuộc đua Marathon tại thành phố Boston. Thế nhưng, trên toàn thế giới, đâu phải chỉ có mỗi một câu chuyện thương tâm đó xảy ra trong ngày 16.4, mà hằng ngày, hằng giờ trên hành tinh nầy có hàng trăm hàng ngàn sự kiện, biến cố đau thương mà con người đã đem đến cho nhau, vì hận thù ghen ghét, tranh chấp, đố kỵ…
Quả thật, tấn tuồng Cain giết Aben không bao giờ ngừng lại trong lịch sử con người ; và như thế sống yêu thương, sống hòa giải, sống phục vụ, sống vị tha vẫn là con đường dài nhiêu khê còn ở phía trước mà mỗi người chúng ta, mà toàn nhân loại phải “bắt đầu và lại bắt đầu” liên tục trong cuộc sống.
Vã lại, trong cuộc đời Ki-tô hữu, sống bác ái yêu thương lại con đường và cách thể hiện niềm tin trọn hảo nhất. Bởi vì, "Yêu Thương là điều răn mới" được Đức Ki-tô nhấn mạnh cách đặc biệt : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau…” (Ga 13, 34-35 ; 15, 12-13) ; và "Đức Mến" là nhân đức cao trọng trên tất cả (1 Cr 13, 1-13).
Hôm nay, chúng ta thử dừng lại để suy niệm “qui luật tối thượng” nầy.
I. Đức Ki-tô đã yêu thương và dạy chúng ta yêu.
Trong "nghệ thuật yêu thương" của Đức Ki-tô, chúng ta cảm nhận được điều nầy : Đó là một tình yêu "trọn vẹn cho Thiên Chúa" và "hết tình cho con người". Phải chăng đó là sự thể hiện trọn vẹn và cụ thể hai điều răn căn bản: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Đnl 6, 5; Mt 22, 37); và "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Lv 19, 18; Mt 22, 38).
Không cần phải nhắc lại việc Chúa Giêsu yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cùng nhau xem xét cách Ngài yêu thương chúng ta và dạy chúng ta yêu thương nhau làm sao.
Đức cố Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận đã cho thấy "nghệ thuật yêu thương con người" của Chúa Giê-su mang các chiều kích sau :
* Yêu thương trước : "Người đã yêu chúng ta trước" (1Ga 4, 19; Rm 5, 8).
* Yêu thương tất cả mọi người : "Các con hãy là con của Thiên Chúa Cha trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành và kẻ dữ…" (Mt 5, 45).
* Yêu thương kẻ thù : "Nếu các con yêu những người yêu các con…nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi…ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?…Nhưng Thầy bảo các con : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con" (Mt 5, 46-47.44).
*Yêu thương bằng cách phục vụ : "thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau" (Ga 13, 14).
(x. Chứng nhân hy vọng, sđd, trang 116-121).
*Yêu thương bằng cách hiến chính mạng sống mình : "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu nầy là : hiến chính mạng sống cho các bạn hữu mình" (Ga 15, 13).
Nếu mọi người Ki-tô hữu, nếu toàn nhân loại đều sống và thực thi được một phần theo cách thế yêu thương như Chúa Giê-su đã sống và đã thực hiện, thì chắc chắn thế giới đã trở nên “địa đàng” và ước mơ của sứ ngôn Isaia ngày nào “kiếm với cung sẽ thành cuốc thành cày…, sói sống chung với chiên, beo nằm bên dê nhỏ” đã sớm hiện thực rồi.
Và vì thế, trách nhiệm của chúng ta, những người mang danh Ki-tô, thật là lớn lao, thật là cần thiết. Bởi vì, chính chúng ta được Đức Ki-tô truyền lệnh phải thực thi giới răn yêu thương trước hết và làm chứng cho thế giới rằng : tình yêu chính là tiếng nối cuối cùng và là chìa khóa để mở mọi cánh cửa nhân sinh.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên : Đức Ái chính là công trình của Chúa Thánh Thần.
II. Đức Ái, công trình của Chúa Thánh Thần :
Làm sao với trái tim nhân loại, với con người mỏng dòn, yếu đuối luôn nghiêng chiều về xác thịt, ích kỷ, đam mê… lại có thể yêu trọn vẹn, yêu cao cả, yêu thánh thiện như thế được ? Vì quả thật, tự sức chúng ta, chúng ta không có khả năng để yêu thương với kích thước và đòi hỏi của Đức Ki-tô. Biến cố tội Nguyên Tổ đã làm cho “trái tim của ta ra méo mó”, và cái chất “Ca-in” ghen ghét, tỵ hiềm, oán thù… vẫn bám chặt bản tính con người, để khi có cơ hội và được sự xúc xiểm của Sa-tan, sẽ dễ dàng tiếp tục gây nên những tội ác “giết hại A-bel” mà lịch sử muôn thuở muôn nơi vẫn còn minh chứng.
Nhưng đừng thất vọng. Điều con người bất lực thì Thiên Chúa sẽ ra tay. Đức Ái là một trong 3 nhân đức “Đối Thần”, và yêu thương chính là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng được mệnh danh là "Tình yêu của Thiên Chúa", như lời khẳng định của Thánh Phao-lô Tông đồ :
"Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5, 5).
Mà nếu Đức Chúa Thánh Thần đã ra tay tác tạo, thì hoa trái của Ngài sẽ là: "Bác ái, hoan lạc, bình an nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23).
Giá cao luôn được dành cho của quí. Tình yêu lớn đòi phải hy sinh nhiều. Như câu chuyện ngụ ngôn của Oscar Wide "Con chim hoạ mi và cây hoa hồng" : “Để làm nên quà tặng tình yêu, chim hoạ mi chấp nhận ép tim vào gai nhọn của hoa hồng để cây hoa hút máu tạo nên một cánh hoa hồng đẹp, làm quà tặng tình yêu". Muốn sống tình yêu đó, muốn có trái tim đó, chúng ta phải khiêm hạ cầu xin và không ngừng "học yêu" trong mái trường của Chúa Giê-su, mái trường "Tin Mừng", như lời nguyện thâm thuý sau đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta:
Chúa Giê-su rất yêu mến của con
Chúa đã sinh ra với tình yêu
Chúa đã phục vụ bằng tình yêu
Và bước đi, với tình yêu
Chúa đã được tôn kính, với tình yêu
Chúa đã đau khổ và chết trong tình yêu
Và đã ra khỏi mồ với tình yêu
Con cảm tạ Chúa vì tình yêu Chúa đã cho con
Và tình yêu mà Chúa đem đến cho thế giới
Con xin Chúa hôm nay cũng như mỗi ngày,
Hãy vui lòng dạy con Tình yêu
Để con cũng vậy, con biết yêu.
Amen.
(Cầu nguyện với Mẹ Têrêxa, trang 23).
(CHÚA NHẬT V PHỤC SINH C)
Ngày 16.4 năm ngoái (2012), cả thế giới bàng hoàng vì cái tin một sinh viên Nam Hàn xách súng vào đại học Kỷ thuật Virginia bắn chết 32 sinh viên và sau đó tự sát. Năm nay, cũng đúng vào ngày 16 4, cả nước Mỹ lại bàng hoàng vì sự kiện đặt bom khủng bố ngay tại cuộc đua Marathon tại thành phố Boston. Thế nhưng, trên toàn thế giới, đâu phải chỉ có mỗi một câu chuyện thương tâm đó xảy ra trong ngày 16.4, mà hằng ngày, hằng giờ trên hành tinh nầy có hàng trăm hàng ngàn sự kiện, biến cố đau thương mà con người đã đem đến cho nhau, vì hận thù ghen ghét, tranh chấp, đố kỵ…
Quả thật, tấn tuồng Cain giết Aben không bao giờ ngừng lại trong lịch sử con người ; và như thế sống yêu thương, sống hòa giải, sống phục vụ, sống vị tha vẫn là con đường dài nhiêu khê còn ở phía trước mà mỗi người chúng ta, mà toàn nhân loại phải “bắt đầu và lại bắt đầu” liên tục trong cuộc sống.
Vã lại, trong cuộc đời Ki-tô hữu, sống bác ái yêu thương lại con đường và cách thể hiện niềm tin trọn hảo nhất. Bởi vì, "Yêu Thương là điều răn mới" được Đức Ki-tô nhấn mạnh cách đặc biệt : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau…” (Ga 13, 34-35 ; 15, 12-13) ; và "Đức Mến" là nhân đức cao trọng trên tất cả (1 Cr 13, 1-13).
Hôm nay, chúng ta thử dừng lại để suy niệm “qui luật tối thượng” nầy.
I. Đức Ki-tô đã yêu thương và dạy chúng ta yêu.
Trong "nghệ thuật yêu thương" của Đức Ki-tô, chúng ta cảm nhận được điều nầy : Đó là một tình yêu "trọn vẹn cho Thiên Chúa" và "hết tình cho con người". Phải chăng đó là sự thể hiện trọn vẹn và cụ thể hai điều răn căn bản: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Đnl 6, 5; Mt 22, 37); và "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Lv 19, 18; Mt 22, 38).
Không cần phải nhắc lại việc Chúa Giêsu yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cùng nhau xem xét cách Ngài yêu thương chúng ta và dạy chúng ta yêu thương nhau làm sao.
Đức cố Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận đã cho thấy "nghệ thuật yêu thương con người" của Chúa Giê-su mang các chiều kích sau :
* Yêu thương trước : "Người đã yêu chúng ta trước" (1Ga 4, 19; Rm 5, 8).
* Yêu thương tất cả mọi người : "Các con hãy là con của Thiên Chúa Cha trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành và kẻ dữ…" (Mt 5, 45).
* Yêu thương kẻ thù : "Nếu các con yêu những người yêu các con…nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi…ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?…Nhưng Thầy bảo các con : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con" (Mt 5, 46-47.44).
*Yêu thương bằng cách phục vụ : "thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau" (Ga 13, 14).
(x. Chứng nhân hy vọng, sđd, trang 116-121).
*Yêu thương bằng cách hiến chính mạng sống mình : "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu nầy là : hiến chính mạng sống cho các bạn hữu mình" (Ga 15, 13).
Nếu mọi người Ki-tô hữu, nếu toàn nhân loại đều sống và thực thi được một phần theo cách thế yêu thương như Chúa Giê-su đã sống và đã thực hiện, thì chắc chắn thế giới đã trở nên “địa đàng” và ước mơ của sứ ngôn Isaia ngày nào “kiếm với cung sẽ thành cuốc thành cày…, sói sống chung với chiên, beo nằm bên dê nhỏ” đã sớm hiện thực rồi.
Và vì thế, trách nhiệm của chúng ta, những người mang danh Ki-tô, thật là lớn lao, thật là cần thiết. Bởi vì, chính chúng ta được Đức Ki-tô truyền lệnh phải thực thi giới răn yêu thương trước hết và làm chứng cho thế giới rằng : tình yêu chính là tiếng nối cuối cùng và là chìa khóa để mở mọi cánh cửa nhân sinh.
Nhưng chúng ta cũng đừng quên : Đức Ái chính là công trình của Chúa Thánh Thần.
II. Đức Ái, công trình của Chúa Thánh Thần :
Làm sao với trái tim nhân loại, với con người mỏng dòn, yếu đuối luôn nghiêng chiều về xác thịt, ích kỷ, đam mê… lại có thể yêu trọn vẹn, yêu cao cả, yêu thánh thiện như thế được ? Vì quả thật, tự sức chúng ta, chúng ta không có khả năng để yêu thương với kích thước và đòi hỏi của Đức Ki-tô. Biến cố tội Nguyên Tổ đã làm cho “trái tim của ta ra méo mó”, và cái chất “Ca-in” ghen ghét, tỵ hiềm, oán thù… vẫn bám chặt bản tính con người, để khi có cơ hội và được sự xúc xiểm của Sa-tan, sẽ dễ dàng tiếp tục gây nên những tội ác “giết hại A-bel” mà lịch sử muôn thuở muôn nơi vẫn còn minh chứng.
Nhưng đừng thất vọng. Điều con người bất lực thì Thiên Chúa sẽ ra tay. Đức Ái là một trong 3 nhân đức “Đối Thần”, và yêu thương chính là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng được mệnh danh là "Tình yêu của Thiên Chúa", như lời khẳng định của Thánh Phao-lô Tông đồ :
"Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5, 5).
Mà nếu Đức Chúa Thánh Thần đã ra tay tác tạo, thì hoa trái của Ngài sẽ là: "Bác ái, hoan lạc, bình an nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23).
Giá cao luôn được dành cho của quí. Tình yêu lớn đòi phải hy sinh nhiều. Như câu chuyện ngụ ngôn của Oscar Wide "Con chim hoạ mi và cây hoa hồng" : “Để làm nên quà tặng tình yêu, chim hoạ mi chấp nhận ép tim vào gai nhọn của hoa hồng để cây hoa hút máu tạo nên một cánh hoa hồng đẹp, làm quà tặng tình yêu". Muốn sống tình yêu đó, muốn có trái tim đó, chúng ta phải khiêm hạ cầu xin và không ngừng "học yêu" trong mái trường của Chúa Giê-su, mái trường "Tin Mừng", như lời nguyện thâm thuý sau đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta:
Chúa Giê-su rất yêu mến của con
Chúa đã sinh ra với tình yêu
Chúa đã phục vụ bằng tình yêu
Và bước đi, với tình yêu
Chúa đã được tôn kính, với tình yêu
Chúa đã đau khổ và chết trong tình yêu
Và đã ra khỏi mồ với tình yêu
Con cảm tạ Chúa vì tình yêu Chúa đã cho con
Và tình yêu mà Chúa đem đến cho thế giới
Con xin Chúa hôm nay cũng như mỗi ngày,
Hãy vui lòng dạy con Tình yêu
Để con cũng vậy, con biết yêu.
Amen.
(Cầu nguyện với Mẹ Têrêxa, trang 23).
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha điện đàm với Tổng Thống Italia
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
05:45 27/04/2013
VATICAN- Một thông cáo của Tòa Thánh cho hay Đức Thánh Cha Phanxicô đã điện đàm với Tổng Thống Cộng Hòa Italia Giorgio Napolitano, khoảng 18 giờ hôm Thứ Tư ngày 24 tháng Tư 2013, để cám ơn về điện văn mà ông đã gửi cho Đức Thánh Cha nhân dịp lễ Bổn Mạng thánh Georges mừng vào 23 tháng Tư.
Cũng vẫn theo nguồn tin trên, Đức Thánh Cha đề cao mẫu gương của Tổng Thống Giorgio Napolitano đã quyết định đặt sự « hiệp nhất lên trên xung đột ».
Trước đó mấy ngày, Đức Thánh Cha đã viết thư chúc mừng ngay sau khi ông được bầu lại lần thứ hai và mong ước ông tiếp tục hành động và hậu thuẫn cách khôn ngoan cho sự hợp tác trách nhiệm của tất cả mọi người.
Xuất thân từ Đảng Cộng Sản Italia, Tổng Thống tái đắc cử Giorgio Napolitano, 87 tuổi, đã chấp nhận nhiệm kỳ thứ hai, trong bối cảnh sau 5 vòng bỏ phiếu mà Thượng Viện và những cử tri chính không đạt được thỏa thuận để chấp nhận một người nào khác ngoài ông.
Được biết, ngay sau đó ông đã bắt tay vào việc cơ cấu bộ máy chính phủ bằng việc trao trọng trách này cho ông Enrico Letta, 46 tuổi. Điều mà cách đây hai tháng vốn là không có thể đối với các nhà lập pháp.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tính sống còn đối với tình hình Italia chính là liệu pháp hiệp nhất trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị và xã hội biểu hiện qua những tự tự của nhiều người quản lý công ty khi không tìm ra giải pháp xảy ra mỗi tuần. Đối với Tổng Thống Giorgio Napolitano, để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng, ông đã kêu gọi để sang một bên những đấu đá chính trị, mà chú trọng đến ưu tiên về lợi ích chung của những người dân và các gia đình tại Italia.
Cũng vẫn theo nguồn tin trên, Đức Thánh Cha đề cao mẫu gương của Tổng Thống Giorgio Napolitano đã quyết định đặt sự « hiệp nhất lên trên xung đột ».
Trước đó mấy ngày, Đức Thánh Cha đã viết thư chúc mừng ngay sau khi ông được bầu lại lần thứ hai và mong ước ông tiếp tục hành động và hậu thuẫn cách khôn ngoan cho sự hợp tác trách nhiệm của tất cả mọi người.
Xuất thân từ Đảng Cộng Sản Italia, Tổng Thống tái đắc cử Giorgio Napolitano, 87 tuổi, đã chấp nhận nhiệm kỳ thứ hai, trong bối cảnh sau 5 vòng bỏ phiếu mà Thượng Viện và những cử tri chính không đạt được thỏa thuận để chấp nhận một người nào khác ngoài ông.
Được biết, ngay sau đó ông đã bắt tay vào việc cơ cấu bộ máy chính phủ bằng việc trao trọng trách này cho ông Enrico Letta, 46 tuổi. Điều mà cách đây hai tháng vốn là không có thể đối với các nhà lập pháp.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đến tính sống còn đối với tình hình Italia chính là liệu pháp hiệp nhất trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị và xã hội biểu hiện qua những tự tự của nhiều người quản lý công ty khi không tìm ra giải pháp xảy ra mỗi tuần. Đối với Tổng Thống Giorgio Napolitano, để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng, ông đã kêu gọi để sang một bên những đấu đá chính trị, mà chú trọng đến ưu tiên về lợi ích chung của những người dân và các gia đình tại Italia.
Đức Thánh Cha Phanxicô: Hãy chuẩn bị tâm hồn cho Quê Trời
Bùi Hữu Thư
09:51 27/04/2013
Sách mới của Đức Thánh Cha Phanxicô |
Đức Thánh Cha suy niệm về lời Chúa Kitô nói với các môn đệ trong Thánh Lễ sáng nay
VATICAN CITY, 26, tháng 4, 2013 (Zenit.org) – Nhân viên văn phòng Ấn Loát, văn phòng Lao Động, và Cảnh Sát Thánh Đô Vatican đã tham dự Thánh Lễ hàng ngày do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ tế sáng nay tại Domus Sanctae Marthae. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói về Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Xin đừng để cho tâm hồn sao xuyến.”
Đức Thánh Cha Phanxicô suy niệm về sự tuyệt vời của lời Chúa Kitô từ biệt các môn đệ khi Chúa nói “thực sự đến từ con tim.”
Đức Thánh Cha nói: “Chúa biết là các môn đệ buồn rầu, vì họ ý thức rằng mọi sự không êm đẹp, và Người nói: Các con đừng để cho tâm hồn sao xuyến. Và Chúa bắt đầu nói như vậy, như một người bạn, và ngay cả với thái độ của một chủ chăn. Tôi muốn nói: nhạc điệu trong lời Chúa Giêsu là điều một chủ chăn phải có, như một chủ chiên nói với các con chiên, phải không?”
Đức Thánh Cha cũng suy niệm về ý nghĩa của lời hứa của Chúa Giêsu là sẽ chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ trên Thiên Đàng, nơi “quê trời thật”. Để chuẩn bị cho có một chỗ như vậy, Đức Thánh Cha Phanxicô nói “có nghĩa là chuẩn bị khả năng để có thể có được cái may mắn được thấy, được cảm nhận, và được hiểu thấu vẻ huy hoàng của những gì sẽ tới, nơi quê hương chúng ta đang bước tới.”
Con mắt của tâm hồn
Thánh Cha Phanxicô nói rằng Chúa Kitô không chỉ hứa sẽ chuẩn bị cho có một chỗ, mà Người còn yêu cầu chúng ta chuẩn bị con mắt để có thể thấy thế giới chung quanh chúng ta mà ngài mô tả như “con mắt của tâm hồn.”
Ngài nói: “Con mắt chúng ta, con mắt của tâm hồn cần được chuẩn bị để chiêm ngắm gương mặt tuyệt vời của Chúa Giêsu. Tai chúng ta phải được chuẩn bị để nghe những âm thanh tuyệt vời, những lời nói tuyệt vời. Trên hết, tâm hồn chúng ta phải được chuẩn bị cho tình yêu, để yêu mến nhiều hơn.”
Ngài tiếp: để chuẩn bị cho viễn cảnh mới này, Chúa Kitô chuẩn bị tâm hồn chúng ta bằng “những thử thách, an ủi, những khổ tâm, và những gì tốt đẹp.”
Đức Thánh Cha nói: "Tất cả hành trình đời sống là một hành trinh chuẩn bị. Đôi khi Chúa phải làm thật mau lẹ như trong trường hợp của tên trộm lành. Người chỉ có vài phút để chuẩn bị cho hắn, và Người đã làm. Nhưng bình thường mọi sự không diễn tiến như vậy khi chúng ta chuẩn bị tâm hôn, con mắt và cái tai để đến được quê hương này. Vì đó là quê thật của chúng ta.”
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi những người tham dự Thánh Lễ không nên coi việc chuẩn bị cho Thiên Đàng là một việc khó khăn, nhưng là một cơ hội để chuẩn bị tâm hồn cho vẻ đẹp vô cùng tận đang chờ đợi tất cả chúng ta.
"Chuẩn bị cho Nước Trời có nghĩa là bắt đầu chào đón Chúa ngay từ xa. Đây không phải là một điều làm cho chúng ta khó chịu: đây là sự thật, vì giúp Chúa Giêsu chuẩn bị tâm hồn, con mắt chúng ta cho vẻ huy hoàng hết sức tuyệt vời. Đó là lối đi của vẻ đẹp, lối đi về quê hương chúng ta ở trên Trời. "
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh Thánh Cả Giuse qua các thời đại
Lm. Nguyễn Hữu Thy
08:45 27/04/2013
Hình ảnh Thánh Cả Giuse qua các thời đại
Nhân ngày mồng một tháng năm, ngày Quốc Tế Lao Động và cũng là ngày kính Thánh Giuse Thợ, chúng ta thử nhìn lại hình ảnh về Thánh Cả Giuse trải qua các thời đại trong suốt lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Giáo Hội nói riêng, và đặc biệt trong thế giới hội họa.
Hình ảnh về nhân thân Thánh Cả Giuse đã được hình thành qua các thời đại trong suốt hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội rất phong phú và đa dạng. Trong thời cổ đại đã có nhiều tác giả trình bày về Thánh Nhân, đặc biệt nhất là các tác giả: Justin, Hieronymus, Augustinus và Gioan Chrysostomus. Còn trong thời tân đại thì cách riêng có các tác giả: Pierre d´Ailly, Isidor de Isolanis, Vincente Ferrer, Bernardin von Siena, Teresa von Avila, Franz von Sales, Jose Maria Vilaseca, Josefmaria Escriva und Tarcisio Stramare (1). Sự trình bày về nhân thân Thánh Cả Giuse của các tác giả này trước hết được dựa trên các đoạn Phúc Âm đã viết về Thánh Nhân và tiếp đến là dựa theo truyền khẩu của Giáo Hội.
Thánh Giuse đã được trình bày như một người lao công đầy trung tín và nhiệt thành, một người cha tốt lành thánh thiện, một vị hôn phu hoàn toàn đặc biệt, một đấng bảo trợ của Giáo Hội và của những người trong cơn hấp hối. Ngoài ra Thánh Nhân còn được tuyên xưng là đấng bảo trợ trong nhiều lãnh vực khác nữa.
Cuộc tranh cãi về thiên chức làm cha và làm chồng của Thánh Giuse trong cuộc sống Thánh Gia Thất Na-da-rét vào thời cổ đại và thời trung cổ đã gây nên nhiều lo ngại cho nhiều thành phần trong Giáo Hội, vì người ta sợ rằng thiên chức làm cha Đức Giêsu của Thánh Giuse có thể làm cho thiên chức làm cha đích thực của Thiên Chúa sẽ bị lu mờ lãng quên, và thiên chức làm chồng Đức Maria của Thánh Nhân cũng có thể làm tổn hại và hiểu lầm cho sự đồng trinh vẹn sạch của Đức Maria. Cũng vì thế, để tránh sự hiểu lầm đó, trong các hình ảnh về Thánh Gia Thất Na-da-rét, Thánh Giuse thường đã được trình bày như một ông già tóc râu bạc phơ, còn Mẹ Maria thì trẻ đẹp bên Chúa Hài Đồng Giêsu. Một hình ảnh hoàn toàn bất cân xứng trong một gia đình, nếu không muốn nói là một xúc phạm không những đối với Thánh Giuse mà còn đối với cả Đức Trinh Nữ Maria nữa.
Còn thánh Augustinus đã trình bày rõ ràng điều mà chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thời đại chúng ta ngày nay đã khẳng định lại rằng chính gia đình là yếu tố phải được liên kết trong mầu nhiệm „Xuống Thế làm Người“(2). Cơ sở làm điểm tựa cho những suy luận của thánh Augustinus: „Sau cùng, chính Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã biết rất rõ ràng rằng Mẹ đã cưu mang Đức Kitô không do sự kết hợp hôn nhân, gọi Thánh Giuse là cha Đức Kitô“ (Lc 2,48) (3). Dựa trên nền tảng chắc chắn này của Kinh Thánh, ĐGH Gioan Phaolô II đã dạy rằng thiên chức làm cha của Thánh Giuse trong kế hoạch xuống thế làm người của Con Một Thiên Chúa không được quan niệm chỉ là „hình thức bên ngoài“ hay chỉ là „một cách gọi“ mà thôi, nhưng xét về mặt dân sự, thiên chức ấy mang „đầy đủ quyền làm cha một cách hoàn toàn công khai.“ (4)
Đối với các nhà thần học và các họa sĩ Kitô giáo thời đại tân tiến ngày nay thì ý kiến đó là một điều tất yếu. Sự ngần ngại và do dự của một số tác giả trong thời cổ đại và thời trung cổ kể như không còn chỗ đứng nữa. Trong các bức hình trình bày cuộc sống đầy thơ mộng lý tưởng của Thánh Gia Thất Na-da-rét, các danh họa Kitô giáo ngày nay đã bắt đầu trình bày Thánh Giuse như một người đàn ông trẻ, tay cầm cành hoa huệ trắng, biểu tượng cho sự đồng trinh trong trắng, và như một người cha gương mẫu.(5) Qua đó, Thánh Giuse được coi như một người chồng hoàn toàn tinh tuyền vẹn sạch của Đức Trinh Nữ Maria.
Nhưng để nghệ thuật có thể trình bày được một hình ảnh chân chính như thế về Thánh Giuse, người ta đã phải trải qua những giai đoạn chuyển tiếp lâu dài. Trước hết, để nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh vẹn sạch của Mẹ Maria trong đời sống gia đình Na-da-rét, người ta đã từng trình bày Thánh Nhân như một ông già râu tóc bạc phơ, một người mất hết ham muốn và khả năng trong đời sống chăn gối vợ chồng, không thể truyền sinh được nữa. Và trong các bức họa trình bày ngày Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế, Thánh Giuse thường được trình bày như một người hoàn toàn đóng vai phụ ở „hậu trường“ của biến cố trọng đại này. Chẳng hạn Thánh Giuse đứng dựa vào cánh tay trái, vẻ mặt đầy suy tư, có khi đang trao đổi với ngôn sứ Isaia (6). Trong khi đó, có họa sĩ Kitô giáo khác lại trình bày Thánh Giuse cùng đứng chung với một hay hai mục đồng, những người đôi khi được coi như là những người „đổ thêm dầu vào lửa“, những người càng làm cho Thánh Giuse thêm đăm chiêu hơn.(7) Tất cả những điều đó có thể làm cho người xem có cảm tưởng rằng hình như Thánh Cả Giuse đang trong tâm trạng nghi ngờ và do dự về nguồn gốc của Hài Nhi Giêsu!(8)
Phải chăng qua cách trình bày của mình về sự do dự của Thánh Giuse – vốn được dựa theo ý nghĩa thần học – các danh họa Kitô giáo này chỉ muốn nói lên rằng Đức Trinh Nữ Maria đã cưu mang Con Một Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,26-38) và Mẹ đã hoàn toàn phó thác tất cả cho sự an bài của Chúa, chứ chính Mẹ không tự thông báo cho Thánh Giuse biết về quá trình „truyền tin“ và sự mang thai kỳ diệu bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần?
Nhưng nếu vậy, thì quả là một điều phi lý, không lô-gích! Vì, tuy Kinh Thánh không nói rõ, người ta sẽ tự hỏi là sau biến cố „Truyền Tin“, một biến cố không những liên quan trực tiếp đến cuộc đời của Mẹ mà còn liên quan đến cuộc sống gia đình với Thánh Cả Giuse nữa, Đức Trinh Nữ Maria trước tiên đã đi gặp gỡ một ai khác, chứ không phải là Thánh Giuse? Theo tâm lý và lịch trình hợp lý của cuộc sống thì chắc chắn rằng người đầu tiên mà Đức Trinh Nữ Maria đã đi gặp sau biến cố „Thiên Thần truyền tin“ phải là Thánh Giuse, „một người công chính“ (Mt 1,19) và hơn nữa, là hôn phu, là người bạn trăm năm của mình biết rõ điều Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Mẹ. Và tiếp đến, một điều khác cũng chắc chắn là Thánh Giuse đã hoàn toàn tin vào lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, chứ không còn nghi ngờ do dự về hiện tượng Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế nữa. Sự bảo đảm chắc chắn cho lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, trước hết đó là chính Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Thần hiện đến giải thích và động viên Thánh Nhân trong việc đón nhận Đức Trinh Nữ, vì Mẹ đang cưu mang Đấng Cứu Thế, Con Một của Người, do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1,20-24). Hơn nữa, chính con người và cuộc sống thánh thiện vẹn toàn – luôn „đầy ơn phúc thiên đàng“, luôn „ có Thiên Chúa ở cùng“ và „luôn đẹp lòng Thiên Chúa“ của Mẹ (Lc 1,28-30) – cả là một bảo chứng chắc chắn và khả tín nhất.
Thật vậy, mặc dù tất cả con cái loài người vốn được cưu mang và sinh ra trong tội lỗi, nhưng một số trong họ, chẳng hạn các vị Thánh Nhân – vì nhờ được ơn thiêng thánh hoá, nhờ có một cuộc sống kết hiệp thần bí mật thiết với Thiên Chúa trong kinh nguyện và nhờ sự nỗ lực trở nên hoàn thiện vượt mực của bản thân – toàn diện con người họ đã tỏa ra một sự thánh thiện cao vời, một nhân cách đáng trân trọng kính nể, đầy thuyết phục và khả tín. Chúng ta có thể trích dẫn trong Kinh Thánh trường hợp thánh tổ phụ Môsê, người tôi tớ trung tín của Thiên Chúa: Sau bốn mươi đêm ngày được diễm phúc tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trên núi Sinai, không những tâm hồn ông đã được thánh hóa nên tinh tuyền thánh thiện trước mặt Thiên Chúa, mà cả con người thể xác của ông cũng đã trở nên sáng láng siêu phàm, đến nỗi con cái Ít-ra-en phải run sợ không dám đến gần ông. Mỗi lần chính Môsê muốn gặp gỡ con cái Ít-ra-en để thông báo cho họ điều này điều kia ông phải lấy khăn che mặt lại (x. Sh 34,29-35).
Nếu một người phàm vốn được sinh ra trong tội lỗi và sự bất toàn như tổ phụ Môsê mà qua sự tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trong bốn mươi đêm ngày đã được ơn thiêng biến đổi một cách lạ lùng như vậy, thì Đức Trinh Nữ Maria, một Nữ Tỳ hoàn toàn tinh tuyền và khả ái của Thiên Chúa, đã được kén chọn từ muôn thủa để làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nên cũng đã được Trời Cao gìn giữ khỏi nguyên tội và mọi tội lỗi riêng ngay từ giây phút đầu tiên khi được dựng thai trong lòng mẹ, luôn được Thiên Chúa ở cùng, luôn tràn đầy ơn thánh, v.v… thì con người Mẹ còn tỏa ra sự thánh thiện và sự tinh tuyền cao vời biết chừng nào! Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ và mỗi việc làm của Mẹ còn khả tín và có sức thuyết phục biết bao!
Một yếu tố quan trọng khác chúng ta cũng không được phép bỏ qua, đó chính là ơn Chúa Thánh Thần chắc chắn đã soi sáng và tác động mạnh mẽ trong tâm hồn Thánh Giuse, để Thánh Nhân hiểu và chấp nhận chương trình an bài của thánh ý Người đang được thể hiện nơi Đức Trinh Nữ.
Tất cả những điều đó muốn khẳng định rằng tại máng cỏ Bê-lem trong ngày Đấng Cứu Thế ra đời, Thánh Giuse đã hoàn toàn xác tín và không còn chút hồ nghi rằng người bạn đời của ngài là Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa kén chọn để làm Mẹ Đấng Thiên Sai và Trẻ Hài Nhi đang nằm trong máng cỏ kia chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế.
Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng các họa sĩ Kitô giáo đã trình bày nét mặt hoài nghi và do dự của Thánh Giuse khi chính ngài mắt thấy tai nghe những sự kỳ diệu vượt sức hiểu biết của phàm nhân đang xảy ra tại hang đá Bê-lem – Hài Nhi Giêsu tuy được sinh ra trong cảnh cơ hàn cùng khổ, nhưng chiếu tỏa một ánh sáng siêu phàm khôn tả, Đức Trinh Nữ quỳ chấp hai tay chìm sâu trong sự tôn thờ và yêu mến Con Thiên Chúa mà Mẹ vừa sinh ra giữa muôn khúc nhạc réo rắt huyền diệu của ca đoàn các Thiên Thần Chúa từ Trời xuống, v.v… – không phải Thánh Nhân hoài nghi nguồn gốc của Hài Nhi Giêsu, nhưng chỉ muốn nói lên rằng khi cảm nhận được một cách thực tiễn Hài Nhi Giêsu thực sự là Con Một của Đấng Tối Cao như Thiên Sứ từng báo cho ngài biết và Đức Trinh Nữ Maria thực sự là một vị Thánh Nhân vượt lên trên mọi Thánh Nhân khác, được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng mà không chỉ con cái Ít-ra-en mong đợi từ hàng ngàn năm qua, nhưng còn là Đấng Cứu Thế mà toàn thể nhân loại luôn trông ngóng đợi chờ, Thánh Giuse cảm thấy phận mình quá hèn mọn bất xứng trước sứ mệnh quá cao cả mà Thiên Chúa muốn ngài đảm nhận, đó là làm bạn trăm năm của Đức Thánh Trinh Nữ Maria và qua đó làm dưỡng phụ, là cha nuôi Đức Giêsu, Con Một của Người: „Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, chớ ngại nhận bà Maria làm vợ“(Mt 1,20). Vì thế, người ta có thể cắt nghĩa nét ngần ngại và do dự biểu lộ trên khuôn mặt Thánh Giuse có lẽ chỉ muốn nói rằng Thánh Nhân đang tự hỏi: Với thân phận phàm nhân yếu đuối và bất xứng của mình thế này, làm sao mình xứng đáng phục vụ Con Thiên Chúa và Mẹ Thánh của Người, và rồi đây làm thế nào mình có thể chu toàn được sứ mệnh cao trọng dường ấy được?
Bây giờ chúng ta cùng quan sát một trình bày hoàn toàn đặc biệt khác về Thánh Giuse trong thế giới nghệ thuật hội họa. Trong bức họa thời danh „Martyrologium“ tại Tu Viện Weltenburg/Đức quốc, xuất phát từ thế kỷ XI, Thánh Giuse được trình bày như một người hấp hối giữa muôn thần thánh đang nghiêng mình tôn kính Thánh Nhân. Chủ đề này đặc biệt được giới nghệ thuật thánh vào thế kỷ XIX quan tâm nhiều, nhưng dĩ nhiên dưới một hình thức trình bày mới mẻ: Người ta trình bày Thánh Giuse đang trên giường hấp hối, có Chúa Giêsu và Mẹ Maria luôn túc trực bên cạnh để an ủi và tiễn đưa người tôi trung của Thiên Chúa về Thiên Đàng. Bởi vậy, Thánh Giuse không chỉ được chọn làm Đấng Bảo Trợ các gia trưởng và các gia đình của họ, mà còn là Đấng Bảo Trợ quyền thế của các người hấp hối.
Từ thế kỷ XVI trở đi, được khởi đầu bởi các danh họa và điêu khắc gia người Tây Ban Nha Alonso Cano và Josê Murillo, những trình bày về Thánh Giuse luôn được lồng vào khuôn khổ sự trình bày về Thánh Gia Thất Na-da-rét: Trong sự trình bày Thánh Gia Thất Na-da-rét thì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse được coi như „Ba Ngôi ở trần gian“. Đây là sự gợi ý của nhà thần học người Pháp Johannes Gerson (1363-1429) và được rao truyền bởi nhà thần bí học người Ý thuộc Dòng Phanxicô, thánh Bernardin von Siena OFMConv.
Đặc biệt trong nghệ thuật điêu khắc, Thánh Giuse thường được trình bày đang bồng Chúa Hài Nhi Giêsu trên tay hay đang cầm dụng cụ của một người thợ mộc, nhất là khi Thánh Nhân được chọn làm Đấng Bảo Trợ của lao động và của các thợ thuyền. Trong Sách Giáo Lý GH Công Giáo đã khẳng định rõ ràng: „Lao động là công trình trực tiếp của những con người đã được sáng tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và được mời gọi cùng nhau tiếp nối công trình sáng tạo khi làm chủ trái đất.“(9) Khi sinh thời chính Chúa Giêsu cũng đã phải làm việc cật lực để sinh sống và qua đó Người đã thánh hóa lao động, công việc sinh nhai kiếm sống của nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhiều năm lao động ở xưởng thợ Na-da-rét bên cạnh người dưỡng phụ mẫn cán và thánh thiện tuyệt vời. Năm 1989, trong Thông điệp Redemptoris custos (Đấng Bảo Trợ Chúa Cứu Thế) về con người và sứ mệnh Thánh Giuse trong đời sống Chúa Giêsu và đời sống Giáo Hội, ĐTC Gioan Phaolô II đã viết: „Nhờ quyền năng của thần tính Người, các việc làm theo nhân tính của Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta ơn thánh hóa, bởi vì khi chính những việc làm ấy do có công trạng trước mặt Thiên Chúa hay do đã tạo nên được thành quả rõ ràng nhất định, thì chúng đã mang lại ơn thánh trong ta.“ (10)
Vào năm 1870 khi Đức Giáo Hoàng Piô IX tôn phong Thánh Giuse làm Đấng Bảo Trợ Giáo Hội, Thánh Nhân đã đặc biệt được các tín hữu tin tưởng khẩn cầu và phó thác công cuộc truyền giáo của Giáo Hội dưới sự cầu thay nguyện giúp của Thánh Nhân. Nếu thế, trong Năm Đức Tin này (2012-2013) chúng ta càng cần phải phó thác công trình tân Phúc Âm hóa và cả chính Giáo Hội cho sự bầu cử đắc lực của Thánh Cả Giuse trước tòa Đức Kitô, hầu Giáo Hội có thể chu toàn được sứ mệnh của mình và để các tín hữu có thể tuyên xưng đức tin Kitô giáo của mình „một cách đầy đủ trọn vẹn và với sự xác tín mới, với sự tin tưởng phó thác và với niềm hy vọng“ (11). Đó chính là sự xác tín sâu xa và cách thức sống đức tin chân chính của Thánh Cả Giuse, một người công chính, trước bao thử thách vô cùng khó khăn, nguy hiểm khi ngài phải tìm mọi cách để che chở bảo vệ tuyệt đối cho sự sống còn của Hài Nhi Giêsu và của Mẹ Người khỏi mọi đe dọa từ mọi phía và cả chính trong cuộc sống cực kỳ nghèo khổ và vất vả của Thánh Gia Thất tại Na-da-rét.
Theo thiển ý, tôi xác tín rằng, với một đức tin mạnh mẽ và một lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối như thế vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse còn xứng đáng được tôn xưng với tước hiệu „Cha của những người tin“ hơn cả tổ phụ Áp-ra-ham nữa (x. Rm 4,11b). Bởi vì, Thánh Nhân đã luôn mau mắn tuân phục và thực thi mọi lời Thiên Thần Chúa phán bảo cùng ngài, chứ không một chút trù trừ do dự (x. Mt 1,24; 2,13-14; 19-21). Trong Thông điệp „Redemptoris hominis“ của ngài, chính ĐTC Gioan Phaolô II cũng đã viết: „Rập đúng theo khuôn đức vâng phục nguyên thủy và cơ bản của đức tin, Thánh Cả Giuse đã luôn mau mắn và vui vẻ chu toàn thánh ý Thiên Chúa, mà nhiều lần Thiên Thần đã loan báo cho ngài.“(12)
Vào năm 1963, khi triệu tập Công Đồng chung Vatican II, ĐTC Gioan XXIII đã tôn phong Thánh Cả Giuse làm Đấng Bảo Trợ Công Đồng và phó thác mọi công việc của Công Đồng cho sự bầu cử chở che của Thánh Nhân, ĐTC viết: „Chúng ta luôn luôn cần đến sự dìu dắt của Thánh Cả Giuse (…); Thánh Nhân là Đấng đã được Thiên Chúa đặt làm người dìu dắt và che chở Thánh Gia Thất Na-da-rét“(13). Thánh Giuse, một đàng, là vị Quan Thầy và là người dẫn đường của Giao Ước mới và, một đàng khác, là Đấng hằng cứu giúp tất cả những ai kêu cầu đến ngài. Đó chính là lý do mà Đức Giáo Hoàng Piô IX, vị Giáo Hoàng của các tín điều „Vô Nhiễm Thai“, của „Quyền Tối Thượng và Bất Khả Ngộ của Đức Giáo Hoàng“, vào ngày 8.12.1870, ngày đại lễ Vô Nhiễm Thai của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã khẳng định rằng các Giám Mục và tất cả các tín hữu trong toàn Giáo Hội cần phải được phó thác cho sự che chở bảo trợ thần thế của Thánh Cả Giuse(14).
Tiếp đến, Đức Giáo Hoàng Leô XIII, Đấng kế vị Đức Piô IX, cũng là một vị Giáo Chủ của Giáo Hội rất có lòng sùng kính Thánh Cả Giuse, đã kêu gọi tất cả mọi tín hữu trong toàn Giáo Hội hãy luôn tin tưởng khẩn cầu cùng Thánh Cả Giuse, vì Thánh Nhân là Đấng đã được Trời Cao kén chọn để chăm sóc gìn giữ Con Một Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thánh của Người với một tình yêu bao la và một sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cũng vậy, chớ gì Thánh Cả Giuse cũng che chở và dìu dắt toàn thể Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng.(15)
Trong Tự Sắc „Porta fidei“ (Cánh Cửa Đức Tin), được công bố ngày 11.10.2011, ĐTC Bênêđíctô XVI đã viết: „Trông cậy vào Thánh Cả Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã mang Chúa Hài Đồng Giêsu lánh nạn sang Ai-cập, hầu để cứu Hài Đồng thoát khỏi sự ruồng bố của bạo vương Hê-rô-đê“(16) chúng ta hãy bước đi trên con đường Thiên Chúa đã tiền định cho mình một cách tin tưởng vững vàng. Vâng, chúng ta hãy bước đi vững vàng trong sự trông cậy tuyệt đối vào Thiên Chúa và trong niềm hy vọng vào sự che chở của „Ba Ngôi ở trần gianQuốc Tế. “
Giêsu, Maria và Giuse, xin cứu giúp chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen
_______________
1. Einen Überblick über die Verehrer des hl. Josef finden wir u.a. bei: H.Rondet, „Joseph von Nazareth“, Freiburg 1956, trong: „St Josef – Zeugnisse der Kirche über ihren Schutzpatron“, Verlag St. Josef, Kleinhain 2004 và nơi tác giả C.Carrillo Ojeda, „El patronato de San José sobre México“, Centro de investigación y estudio sobre de San José, Mexico 2004.
2. Gioan Phaolô II, Thông điệp „Redemptoris custos“, công bố ngày 15.8.1989, số 21.
3. Augustinus, Sermon 51, 10,16; PL 38, 342; xem tiếp “De nuptiis et concupiscentiae I”, 11,12; PL 44, 42; “De consensu evangelistarum II”, 1,2; PL 34,107 và “contra Faustum III”,2; PL 42,214.
4. Thông điệp “Redemptoris custos”, số 21.
5. Xem G. Kaster trong: “Lexikon der christlichen Ikonographie”, Band 7: Josef von Nazareth, Col. 210-215, Freiburg 1994.
6. P. Miklia de Dotega, „Ikonen und Mysterium – Die geistliche Botschaft der Bilder“, St. Pantaleon – Köln 1996, trang 70.
7. Xem Miklia de Dotega, o.z.: „Handbuch der Ikonenkunst“, Slavisches Institut München, trang 200 và 203, München 1966; H. Skrobucher, „Ikonen aus der Tschechoslowakei“, Bild 19, Prague 1971; D. Wild, „Ikonen“, Tafel V, Stuttgart 1974; J.E.Tavlakin, theological commtary von N.C.Lavrietis, „The nativity of Christ in Athonite Art“, Thessaloniki 2000, trang 134..
8. Xem B.G.Kaster, trong: „Lexikon der christlichen Ikonographie“, Band 2, o.z., Col. 86/12 và 129.
9. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2427.
10. Thông diệp „Redemptoris custos“, số 27.
11. Đức Bênêđíctô XVI, Tự Sắc “Porta fidei”, ngày 11.10.2012, số 9.
12. Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp “Redemptoris hominis”, số 3/17-19. Trích từ G. Rovira, “Der hl. Josef – Vater und Ehemann“, Fe-Medienverlag, Kisslegg 2005, trang 66.
13. Johannes XXIII, Ansprache am 8.12.1962: AAS 55 (1963) 41.
14. Pius IX., AAS 6 (1870-71) 194.
15. Leo XIII, Thông điệp „Quamquam pluries von 8.12.1884“, AAS 22(1889/90).
16. Tự Sắc „Porta fidei“, số 13.
(Ngày Lao Động Quốc Tế - Thánh Giuse Thợ, 01.05.2013)
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Nhân ngày mồng một tháng năm, ngày Quốc Tế Lao Động và cũng là ngày kính Thánh Giuse Thợ, chúng ta thử nhìn lại hình ảnh về Thánh Cả Giuse trải qua các thời đại trong suốt lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Giáo Hội nói riêng, và đặc biệt trong thế giới hội họa.
Hình ảnh về nhân thân Thánh Cả Giuse đã được hình thành qua các thời đại trong suốt hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội rất phong phú và đa dạng. Trong thời cổ đại đã có nhiều tác giả trình bày về Thánh Nhân, đặc biệt nhất là các tác giả: Justin, Hieronymus, Augustinus và Gioan Chrysostomus. Còn trong thời tân đại thì cách riêng có các tác giả: Pierre d´Ailly, Isidor de Isolanis, Vincente Ferrer, Bernardin von Siena, Teresa von Avila, Franz von Sales, Jose Maria Vilaseca, Josefmaria Escriva und Tarcisio Stramare (1). Sự trình bày về nhân thân Thánh Cả Giuse của các tác giả này trước hết được dựa trên các đoạn Phúc Âm đã viết về Thánh Nhân và tiếp đến là dựa theo truyền khẩu của Giáo Hội.
Thánh Giuse đã được trình bày như một người lao công đầy trung tín và nhiệt thành, một người cha tốt lành thánh thiện, một vị hôn phu hoàn toàn đặc biệt, một đấng bảo trợ của Giáo Hội và của những người trong cơn hấp hối. Ngoài ra Thánh Nhân còn được tuyên xưng là đấng bảo trợ trong nhiều lãnh vực khác nữa.
Cuộc tranh cãi về thiên chức làm cha và làm chồng của Thánh Giuse trong cuộc sống Thánh Gia Thất Na-da-rét vào thời cổ đại và thời trung cổ đã gây nên nhiều lo ngại cho nhiều thành phần trong Giáo Hội, vì người ta sợ rằng thiên chức làm cha Đức Giêsu của Thánh Giuse có thể làm cho thiên chức làm cha đích thực của Thiên Chúa sẽ bị lu mờ lãng quên, và thiên chức làm chồng Đức Maria của Thánh Nhân cũng có thể làm tổn hại và hiểu lầm cho sự đồng trinh vẹn sạch của Đức Maria. Cũng vì thế, để tránh sự hiểu lầm đó, trong các hình ảnh về Thánh Gia Thất Na-da-rét, Thánh Giuse thường đã được trình bày như một ông già tóc râu bạc phơ, còn Mẹ Maria thì trẻ đẹp bên Chúa Hài Đồng Giêsu. Một hình ảnh hoàn toàn bất cân xứng trong một gia đình, nếu không muốn nói là một xúc phạm không những đối với Thánh Giuse mà còn đối với cả Đức Trinh Nữ Maria nữa.
Còn thánh Augustinus đã trình bày rõ ràng điều mà chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thời đại chúng ta ngày nay đã khẳng định lại rằng chính gia đình là yếu tố phải được liên kết trong mầu nhiệm „Xuống Thế làm Người“(2). Cơ sở làm điểm tựa cho những suy luận của thánh Augustinus: „Sau cùng, chính Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã biết rất rõ ràng rằng Mẹ đã cưu mang Đức Kitô không do sự kết hợp hôn nhân, gọi Thánh Giuse là cha Đức Kitô“ (Lc 2,48) (3). Dựa trên nền tảng chắc chắn này của Kinh Thánh, ĐGH Gioan Phaolô II đã dạy rằng thiên chức làm cha của Thánh Giuse trong kế hoạch xuống thế làm người của Con Một Thiên Chúa không được quan niệm chỉ là „hình thức bên ngoài“ hay chỉ là „một cách gọi“ mà thôi, nhưng xét về mặt dân sự, thiên chức ấy mang „đầy đủ quyền làm cha một cách hoàn toàn công khai.“ (4)
Đối với các nhà thần học và các họa sĩ Kitô giáo thời đại tân tiến ngày nay thì ý kiến đó là một điều tất yếu. Sự ngần ngại và do dự của một số tác giả trong thời cổ đại và thời trung cổ kể như không còn chỗ đứng nữa. Trong các bức hình trình bày cuộc sống đầy thơ mộng lý tưởng của Thánh Gia Thất Na-da-rét, các danh họa Kitô giáo ngày nay đã bắt đầu trình bày Thánh Giuse như một người đàn ông trẻ, tay cầm cành hoa huệ trắng, biểu tượng cho sự đồng trinh trong trắng, và như một người cha gương mẫu.(5) Qua đó, Thánh Giuse được coi như một người chồng hoàn toàn tinh tuyền vẹn sạch của Đức Trinh Nữ Maria.
Nhưng để nghệ thuật có thể trình bày được một hình ảnh chân chính như thế về Thánh Giuse, người ta đã phải trải qua những giai đoạn chuyển tiếp lâu dài. Trước hết, để nhấn mạnh và đề cao sự đồng trinh vẹn sạch của Mẹ Maria trong đời sống gia đình Na-da-rét, người ta đã từng trình bày Thánh Nhân như một ông già râu tóc bạc phơ, một người mất hết ham muốn và khả năng trong đời sống chăn gối vợ chồng, không thể truyền sinh được nữa. Và trong các bức họa trình bày ngày Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế, Thánh Giuse thường được trình bày như một người hoàn toàn đóng vai phụ ở „hậu trường“ của biến cố trọng đại này. Chẳng hạn Thánh Giuse đứng dựa vào cánh tay trái, vẻ mặt đầy suy tư, có khi đang trao đổi với ngôn sứ Isaia (6). Trong khi đó, có họa sĩ Kitô giáo khác lại trình bày Thánh Giuse cùng đứng chung với một hay hai mục đồng, những người đôi khi được coi như là những người „đổ thêm dầu vào lửa“, những người càng làm cho Thánh Giuse thêm đăm chiêu hơn.(7) Tất cả những điều đó có thể làm cho người xem có cảm tưởng rằng hình như Thánh Cả Giuse đang trong tâm trạng nghi ngờ và do dự về nguồn gốc của Hài Nhi Giêsu!(8)
Phải chăng qua cách trình bày của mình về sự do dự của Thánh Giuse – vốn được dựa theo ý nghĩa thần học – các danh họa Kitô giáo này chỉ muốn nói lên rằng Đức Trinh Nữ Maria đã cưu mang Con Một Thiên Chúa bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,26-38) và Mẹ đã hoàn toàn phó thác tất cả cho sự an bài của Chúa, chứ chính Mẹ không tự thông báo cho Thánh Giuse biết về quá trình „truyền tin“ và sự mang thai kỳ diệu bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần?
Nhưng nếu vậy, thì quả là một điều phi lý, không lô-gích! Vì, tuy Kinh Thánh không nói rõ, người ta sẽ tự hỏi là sau biến cố „Truyền Tin“, một biến cố không những liên quan trực tiếp đến cuộc đời của Mẹ mà còn liên quan đến cuộc sống gia đình với Thánh Cả Giuse nữa, Đức Trinh Nữ Maria trước tiên đã đi gặp gỡ một ai khác, chứ không phải là Thánh Giuse? Theo tâm lý và lịch trình hợp lý của cuộc sống thì chắc chắn rằng người đầu tiên mà Đức Trinh Nữ Maria đã đi gặp sau biến cố „Thiên Thần truyền tin“ phải là Thánh Giuse, „một người công chính“ (Mt 1,19) và hơn nữa, là hôn phu, là người bạn trăm năm của mình biết rõ điều Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Mẹ. Và tiếp đến, một điều khác cũng chắc chắn là Thánh Giuse đã hoàn toàn tin vào lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, chứ không còn nghi ngờ do dự về hiện tượng Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế nữa. Sự bảo đảm chắc chắn cho lời thông báo của Mẹ Maria là sự thật, trước hết đó là chính Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Thần hiện đến giải thích và động viên Thánh Nhân trong việc đón nhận Đức Trinh Nữ, vì Mẹ đang cưu mang Đấng Cứu Thế, Con Một của Người, do quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Mt 1,20-24). Hơn nữa, chính con người và cuộc sống thánh thiện vẹn toàn – luôn „đầy ơn phúc thiên đàng“, luôn „ có Thiên Chúa ở cùng“ và „luôn đẹp lòng Thiên Chúa“ của Mẹ (Lc 1,28-30) – cả là một bảo chứng chắc chắn và khả tín nhất.
Thật vậy, mặc dù tất cả con cái loài người vốn được cưu mang và sinh ra trong tội lỗi, nhưng một số trong họ, chẳng hạn các vị Thánh Nhân – vì nhờ được ơn thiêng thánh hoá, nhờ có một cuộc sống kết hiệp thần bí mật thiết với Thiên Chúa trong kinh nguyện và nhờ sự nỗ lực trở nên hoàn thiện vượt mực của bản thân – toàn diện con người họ đã tỏa ra một sự thánh thiện cao vời, một nhân cách đáng trân trọng kính nể, đầy thuyết phục và khả tín. Chúng ta có thể trích dẫn trong Kinh Thánh trường hợp thánh tổ phụ Môsê, người tôi tớ trung tín của Thiên Chúa: Sau bốn mươi đêm ngày được diễm phúc tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trên núi Sinai, không những tâm hồn ông đã được thánh hóa nên tinh tuyền thánh thiện trước mặt Thiên Chúa, mà cả con người thể xác của ông cũng đã trở nên sáng láng siêu phàm, đến nỗi con cái Ít-ra-en phải run sợ không dám đến gần ông. Mỗi lần chính Môsê muốn gặp gỡ con cái Ít-ra-en để thông báo cho họ điều này điều kia ông phải lấy khăn che mặt lại (x. Sh 34,29-35).
Nếu một người phàm vốn được sinh ra trong tội lỗi và sự bất toàn như tổ phụ Môsê mà qua sự tiếp cận và đàm đạo với Thiên Chúa trong bốn mươi đêm ngày đã được ơn thiêng biến đổi một cách lạ lùng như vậy, thì Đức Trinh Nữ Maria, một Nữ Tỳ hoàn toàn tinh tuyền và khả ái của Thiên Chúa, đã được kén chọn từ muôn thủa để làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nên cũng đã được Trời Cao gìn giữ khỏi nguyên tội và mọi tội lỗi riêng ngay từ giây phút đầu tiên khi được dựng thai trong lòng mẹ, luôn được Thiên Chúa ở cùng, luôn tràn đầy ơn thánh, v.v… thì con người Mẹ còn tỏa ra sự thánh thiện và sự tinh tuyền cao vời biết chừng nào! Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ và mỗi việc làm của Mẹ còn khả tín và có sức thuyết phục biết bao!
Một yếu tố quan trọng khác chúng ta cũng không được phép bỏ qua, đó chính là ơn Chúa Thánh Thần chắc chắn đã soi sáng và tác động mạnh mẽ trong tâm hồn Thánh Giuse, để Thánh Nhân hiểu và chấp nhận chương trình an bài của thánh ý Người đang được thể hiện nơi Đức Trinh Nữ.
Tất cả những điều đó muốn khẳng định rằng tại máng cỏ Bê-lem trong ngày Đấng Cứu Thế ra đời, Thánh Giuse đã hoàn toàn xác tín và không còn chút hồ nghi rằng người bạn đời của ngài là Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa kén chọn để làm Mẹ Đấng Thiên Sai và Trẻ Hài Nhi đang nằm trong máng cỏ kia chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế.
Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng các họa sĩ Kitô giáo đã trình bày nét mặt hoài nghi và do dự của Thánh Giuse khi chính ngài mắt thấy tai nghe những sự kỳ diệu vượt sức hiểu biết của phàm nhân đang xảy ra tại hang đá Bê-lem – Hài Nhi Giêsu tuy được sinh ra trong cảnh cơ hàn cùng khổ, nhưng chiếu tỏa một ánh sáng siêu phàm khôn tả, Đức Trinh Nữ quỳ chấp hai tay chìm sâu trong sự tôn thờ và yêu mến Con Thiên Chúa mà Mẹ vừa sinh ra giữa muôn khúc nhạc réo rắt huyền diệu của ca đoàn các Thiên Thần Chúa từ Trời xuống, v.v… – không phải Thánh Nhân hoài nghi nguồn gốc của Hài Nhi Giêsu, nhưng chỉ muốn nói lên rằng khi cảm nhận được một cách thực tiễn Hài Nhi Giêsu thực sự là Con Một của Đấng Tối Cao như Thiên Sứ từng báo cho ngài biết và Đức Trinh Nữ Maria thực sự là một vị Thánh Nhân vượt lên trên mọi Thánh Nhân khác, được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng mà không chỉ con cái Ít-ra-en mong đợi từ hàng ngàn năm qua, nhưng còn là Đấng Cứu Thế mà toàn thể nhân loại luôn trông ngóng đợi chờ, Thánh Giuse cảm thấy phận mình quá hèn mọn bất xứng trước sứ mệnh quá cao cả mà Thiên Chúa muốn ngài đảm nhận, đó là làm bạn trăm năm của Đức Thánh Trinh Nữ Maria và qua đó làm dưỡng phụ, là cha nuôi Đức Giêsu, Con Một của Người: „Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, chớ ngại nhận bà Maria làm vợ“(Mt 1,20). Vì thế, người ta có thể cắt nghĩa nét ngần ngại và do dự biểu lộ trên khuôn mặt Thánh Giuse có lẽ chỉ muốn nói rằng Thánh Nhân đang tự hỏi: Với thân phận phàm nhân yếu đuối và bất xứng của mình thế này, làm sao mình xứng đáng phục vụ Con Thiên Chúa và Mẹ Thánh của Người, và rồi đây làm thế nào mình có thể chu toàn được sứ mệnh cao trọng dường ấy được?
Bây giờ chúng ta cùng quan sát một trình bày hoàn toàn đặc biệt khác về Thánh Giuse trong thế giới nghệ thuật hội họa. Trong bức họa thời danh „Martyrologium“ tại Tu Viện Weltenburg/Đức quốc, xuất phát từ thế kỷ XI, Thánh Giuse được trình bày như một người hấp hối giữa muôn thần thánh đang nghiêng mình tôn kính Thánh Nhân. Chủ đề này đặc biệt được giới nghệ thuật thánh vào thế kỷ XIX quan tâm nhiều, nhưng dĩ nhiên dưới một hình thức trình bày mới mẻ: Người ta trình bày Thánh Giuse đang trên giường hấp hối, có Chúa Giêsu và Mẹ Maria luôn túc trực bên cạnh để an ủi và tiễn đưa người tôi trung của Thiên Chúa về Thiên Đàng. Bởi vậy, Thánh Giuse không chỉ được chọn làm Đấng Bảo Trợ các gia trưởng và các gia đình của họ, mà còn là Đấng Bảo Trợ quyền thế của các người hấp hối.
Từ thế kỷ XVI trở đi, được khởi đầu bởi các danh họa và điêu khắc gia người Tây Ban Nha Alonso Cano và Josê Murillo, những trình bày về Thánh Giuse luôn được lồng vào khuôn khổ sự trình bày về Thánh Gia Thất Na-da-rét: Trong sự trình bày Thánh Gia Thất Na-da-rét thì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse được coi như „Ba Ngôi ở trần gian“. Đây là sự gợi ý của nhà thần học người Pháp Johannes Gerson (1363-1429) và được rao truyền bởi nhà thần bí học người Ý thuộc Dòng Phanxicô, thánh Bernardin von Siena OFMConv.
Đặc biệt trong nghệ thuật điêu khắc, Thánh Giuse thường được trình bày đang bồng Chúa Hài Nhi Giêsu trên tay hay đang cầm dụng cụ của một người thợ mộc, nhất là khi Thánh Nhân được chọn làm Đấng Bảo Trợ của lao động và của các thợ thuyền. Trong Sách Giáo Lý GH Công Giáo đã khẳng định rõ ràng: „Lao động là công trình trực tiếp của những con người đã được sáng tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và được mời gọi cùng nhau tiếp nối công trình sáng tạo khi làm chủ trái đất.“(9) Khi sinh thời chính Chúa Giêsu cũng đã phải làm việc cật lực để sinh sống và qua đó Người đã thánh hóa lao động, công việc sinh nhai kiếm sống của nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã nhiều năm lao động ở xưởng thợ Na-da-rét bên cạnh người dưỡng phụ mẫn cán và thánh thiện tuyệt vời. Năm 1989, trong Thông điệp Redemptoris custos (Đấng Bảo Trợ Chúa Cứu Thế) về con người và sứ mệnh Thánh Giuse trong đời sống Chúa Giêsu và đời sống Giáo Hội, ĐTC Gioan Phaolô II đã viết: „Nhờ quyền năng của thần tính Người, các việc làm theo nhân tính của Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta ơn thánh hóa, bởi vì khi chính những việc làm ấy do có công trạng trước mặt Thiên Chúa hay do đã tạo nên được thành quả rõ ràng nhất định, thì chúng đã mang lại ơn thánh trong ta.“ (10)
Vào năm 1870 khi Đức Giáo Hoàng Piô IX tôn phong Thánh Giuse làm Đấng Bảo Trợ Giáo Hội, Thánh Nhân đã đặc biệt được các tín hữu tin tưởng khẩn cầu và phó thác công cuộc truyền giáo của Giáo Hội dưới sự cầu thay nguyện giúp của Thánh Nhân. Nếu thế, trong Năm Đức Tin này (2012-2013) chúng ta càng cần phải phó thác công trình tân Phúc Âm hóa và cả chính Giáo Hội cho sự bầu cử đắc lực của Thánh Cả Giuse trước tòa Đức Kitô, hầu Giáo Hội có thể chu toàn được sứ mệnh của mình và để các tín hữu có thể tuyên xưng đức tin Kitô giáo của mình „một cách đầy đủ trọn vẹn và với sự xác tín mới, với sự tin tưởng phó thác và với niềm hy vọng“ (11). Đó chính là sự xác tín sâu xa và cách thức sống đức tin chân chính của Thánh Cả Giuse, một người công chính, trước bao thử thách vô cùng khó khăn, nguy hiểm khi ngài phải tìm mọi cách để che chở bảo vệ tuyệt đối cho sự sống còn của Hài Nhi Giêsu và của Mẹ Người khỏi mọi đe dọa từ mọi phía và cả chính trong cuộc sống cực kỳ nghèo khổ và vất vả của Thánh Gia Thất tại Na-da-rét.
Theo thiển ý, tôi xác tín rằng, với một đức tin mạnh mẽ và một lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối như thế vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Thánh Cả Giuse còn xứng đáng được tôn xưng với tước hiệu „Cha của những người tin“ hơn cả tổ phụ Áp-ra-ham nữa (x. Rm 4,11b). Bởi vì, Thánh Nhân đã luôn mau mắn tuân phục và thực thi mọi lời Thiên Thần Chúa phán bảo cùng ngài, chứ không một chút trù trừ do dự (x. Mt 1,24; 2,13-14; 19-21). Trong Thông điệp „Redemptoris hominis“ của ngài, chính ĐTC Gioan Phaolô II cũng đã viết: „Rập đúng theo khuôn đức vâng phục nguyên thủy và cơ bản của đức tin, Thánh Cả Giuse đã luôn mau mắn và vui vẻ chu toàn thánh ý Thiên Chúa, mà nhiều lần Thiên Thần đã loan báo cho ngài.“(12)
Vào năm 1963, khi triệu tập Công Đồng chung Vatican II, ĐTC Gioan XXIII đã tôn phong Thánh Cả Giuse làm Đấng Bảo Trợ Công Đồng và phó thác mọi công việc của Công Đồng cho sự bầu cử chở che của Thánh Nhân, ĐTC viết: „Chúng ta luôn luôn cần đến sự dìu dắt của Thánh Cả Giuse (…); Thánh Nhân là Đấng đã được Thiên Chúa đặt làm người dìu dắt và che chở Thánh Gia Thất Na-da-rét“(13). Thánh Giuse, một đàng, là vị Quan Thầy và là người dẫn đường của Giao Ước mới và, một đàng khác, là Đấng hằng cứu giúp tất cả những ai kêu cầu đến ngài. Đó chính là lý do mà Đức Giáo Hoàng Piô IX, vị Giáo Hoàng của các tín điều „Vô Nhiễm Thai“, của „Quyền Tối Thượng và Bất Khả Ngộ của Đức Giáo Hoàng“, vào ngày 8.12.1870, ngày đại lễ Vô Nhiễm Thai của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã khẳng định rằng các Giám Mục và tất cả các tín hữu trong toàn Giáo Hội cần phải được phó thác cho sự che chở bảo trợ thần thế của Thánh Cả Giuse(14).
Tiếp đến, Đức Giáo Hoàng Leô XIII, Đấng kế vị Đức Piô IX, cũng là một vị Giáo Chủ của Giáo Hội rất có lòng sùng kính Thánh Cả Giuse, đã kêu gọi tất cả mọi tín hữu trong toàn Giáo Hội hãy luôn tin tưởng khẩn cầu cùng Thánh Cả Giuse, vì Thánh Nhân là Đấng đã được Trời Cao kén chọn để chăm sóc gìn giữ Con Một Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ thánh của Người với một tình yêu bao la và một sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cũng vậy, chớ gì Thánh Cả Giuse cũng che chở và dìu dắt toàn thể Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng.(15)
Trong Tự Sắc „Porta fidei“ (Cánh Cửa Đức Tin), được công bố ngày 11.10.2011, ĐTC Bênêđíctô XVI đã viết: „Trông cậy vào Thánh Cả Giuse, Bạn Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã mang Chúa Hài Đồng Giêsu lánh nạn sang Ai-cập, hầu để cứu Hài Đồng thoát khỏi sự ruồng bố của bạo vương Hê-rô-đê“(16) chúng ta hãy bước đi trên con đường Thiên Chúa đã tiền định cho mình một cách tin tưởng vững vàng. Vâng, chúng ta hãy bước đi vững vàng trong sự trông cậy tuyệt đối vào Thiên Chúa và trong niềm hy vọng vào sự che chở của „Ba Ngôi ở trần gianQuốc Tế. “
Giêsu, Maria và Giuse, xin cứu giúp chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen
_______________
1. Einen Überblick über die Verehrer des hl. Josef finden wir u.a. bei: H.Rondet, „Joseph von Nazareth“, Freiburg 1956, trong: „St Josef – Zeugnisse der Kirche über ihren Schutzpatron“, Verlag St. Josef, Kleinhain 2004 và nơi tác giả C.Carrillo Ojeda, „El patronato de San José sobre México“, Centro de investigación y estudio sobre de San José, Mexico 2004.
2. Gioan Phaolô II, Thông điệp „Redemptoris custos“, công bố ngày 15.8.1989, số 21.
3. Augustinus, Sermon 51, 10,16; PL 38, 342; xem tiếp “De nuptiis et concupiscentiae I”, 11,12; PL 44, 42; “De consensu evangelistarum II”, 1,2; PL 34,107 và “contra Faustum III”,2; PL 42,214.
4. Thông điệp “Redemptoris custos”, số 21.
5. Xem G. Kaster trong: “Lexikon der christlichen Ikonographie”, Band 7: Josef von Nazareth, Col. 210-215, Freiburg 1994.
6. P. Miklia de Dotega, „Ikonen und Mysterium – Die geistliche Botschaft der Bilder“, St. Pantaleon – Köln 1996, trang 70.
7. Xem Miklia de Dotega, o.z.: „Handbuch der Ikonenkunst“, Slavisches Institut München, trang 200 và 203, München 1966; H. Skrobucher, „Ikonen aus der Tschechoslowakei“, Bild 19, Prague 1971; D. Wild, „Ikonen“, Tafel V, Stuttgart 1974; J.E.Tavlakin, theological commtary von N.C.Lavrietis, „The nativity of Christ in Athonite Art“, Thessaloniki 2000, trang 134..
8. Xem B.G.Kaster, trong: „Lexikon der christlichen Ikonographie“, Band 2, o.z., Col. 86/12 và 129.
9. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2427.
10. Thông diệp „Redemptoris custos“, số 27.
11. Đức Bênêđíctô XVI, Tự Sắc “Porta fidei”, ngày 11.10.2012, số 9.
12. Xem Gioan Phaolô II, Thông điệp “Redemptoris hominis”, số 3/17-19. Trích từ G. Rovira, “Der hl. Josef – Vater und Ehemann“, Fe-Medienverlag, Kisslegg 2005, trang 66.
13. Johannes XXIII, Ansprache am 8.12.1962: AAS 55 (1963) 41.
14. Pius IX., AAS 6 (1870-71) 194.
15. Leo XIII, Thông điệp „Quamquam pluries von 8.12.1884“, AAS 22(1889/90).
16. Tự Sắc „Porta fidei“, số 13.
(Ngày Lao Động Quốc Tế - Thánh Giuse Thợ, 01.05.2013)
Lm. Nguyễn Hữu Thy