Ngày 15-04-2016
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Trở Nên MụC Tử Của Lòng Chúa Thương Xót
LM. Đan Vinh
08:53 15/04/2016
HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C

Cv 13,14.43-52 ; Kh 7,9.14b-17 ; Ga 10,27-30

TRỞ NÊN MỤC TỬ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 10,27-30

(27) “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. (29) “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi với Chúa Cha là một !”.

2. Ý CHÍNH:

Tin mừng của Gioan hôm nay ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Người đã tự ví mình là Mục Tử nhân lành, được Chúa Cha sai đến để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên đã được trao cho Người. Người và Chúa Cha chỉ là Một”.

3. CHÚ THÍCH:

- C 27-28: + Con chiên và Mục Tử: Trong Thánh kinh, hình ảnh con chiên mang một ý nghĩa tốt đẹp: Đức Chúa đã trao đàn chiên Ítraen cho một số mục tử chăn dắt (Tv 100,3) như: Môsê, Aharon (x. Tv 77,21), Giôsuê (x. Ds 27,18-21), Đavít (x.Tv 78,70-72)... Đến thời Tân ước, Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) và duy nhất của Thiên Chúa (x.Ga 10,16). Người lại trao quyền mục tử ấy cho các Tông đồ, Giám mục, Linh mục... để các vị này thay Người tiếp tục chăn dắt dân Ítraen Mới là Hội thánh. + Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi: Vào mỗi buổi tối, các mục tử thường đưa chiên về một cái chuồng lớn để nhốt chung với các bầy chiên khác. Sáng đến, mục tử đứng ở cửa chuồng gọi chiên của mình ra. Chiên sẽ nhận ra tiếng của mục tử và đi theo ông ra đồng ăn cỏ. Các mục tử thực sự là chủ của đoàn chiên thì sẽ chăm sóc cho chiên của mình, biết rõ tính của mỗi con để săn sóc và bảo vệ chúng cách hữu hiệu.

Ba thái độ mà các tín hữu cần phải thực hành để trở thành chiên ngoan của Mục Tử GIÊSU là Nghe, Biết và Theo Người như sau:

* NGHE: Lắng nghe là khởi đầu của đức tin như Chúa Cha đã nhắn nhủ các môn đệ của Đức Giêsu: “Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người” (Mt 17,5) và thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức tin là bởi nghe” (Rm 10,17).

* BIẾT: Biết ở đây không phải là biết về tri thức, nhưng là về đời sống. Biết điều gì tức là có kinh nghiệm cụ thể về điều ấy. Biết một người nào là có liên hệ thân tình với người đó, như liên hệ giữa hai vợ chồng (x. Lc 1,34). Cũng vậy, Đức Giêsu biết rõ từng con chiên của Người.

* THEO: Chiên của Đức Giêsu có nhiệm vụ phải đáp trả lời mời gọi của Người bằng việc dứt khóat đi theo, quyết tâm vâng nghe lời dạy và sống theo gương lành của Người.

+ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời: Đức Giêsu dẫn các tín hữu đi từ việc được nuôi sống (x. Ga 10,9) đến chỗ được sống dồi dào (x. Ga 10,10) và sống muôn đời (x. Ga 10,28). + Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi: Là mục tử có trách nhiệm và đầy quyền năng, không bao giờ Đức Giêsu để chiên của Người bị giết hại hay bị cướp đoạt. Chỉ có chiên tự bỏ đàn để đi hoang. Còn Chúa thì không bao giờ bỏ mặc họ. Người là Mục Tử tốt lành, sẵn sàng đi tìm các chiên lạc để đưa về đoàn tụ trong một đoàn chiên duy nhất (x. Lc 15,4-7).

- C 29-30: + Tôi với Chúa Cha là một !: Lời tuyên bố này nói đến sự hiệp thông thân mật giữa Chúa Cha và Chúa con. Công đồng Nixêa năm 325 đã dựa trên lời này để tuyên tín: “Chúa Cha và Chúa con đồng một Bản tính Thiên Chúa, nhưng là hai Ngôi vị khác nhau”, để chống lại lạc thuyết Ariô (thế kỷ thứ IV) không công nhận Thần tính của Chúa Giêsu. Chính nhờ mang Bản tính Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các tín hữu được sự sống đời đời. Người cũng nhiều lần tự xưng: “Ta là” giống như Đức Chúa khi xưa. Sau cùng Người đã bị tử hình thập giá và ngày thứ ba đã từ cõi chết sống lại để phục hồi sự sống cho lòai người chúng ta.

4. CÂU HỎI: 1) Hãy kể tên một số vị Mục tử thời Cựu ước đã được Thiên Chúa trao quyền mục tử để thay Người chăn dắt đòan chiên là dân Ítraen. 2) Ba thái độ mà các con chiên ngoan của mục tử Giêsu phải có là gì ? 3) Chúa Giêsu hứa ban những quyền lợi gì cho các con chiên của Người ? 4) Công đồng Nixêa đã dựa vào đâu để tuyên bố tín điều về Thần Tính của Chúa Giêsu chống lại lạc thuyết Ariô ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14).

2. CÂU CHUYỆN:

1) MỤC TỬ TỐT LÀNH SẴN SÀNG THÍ MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN:

Vào cuối thế chiến thứ II, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý năm 1943. Thế là viên tướng chỉ huy Đức Quốc Xã liền bắt 50 người có địa vị nhất của thành phố mang ra xử bắn để răn đe.

Hai Đức Giám Mục chánh và phó của thành phố cố gắng can thiệp nhưng không có hiệu quả. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Rồi sau thời gian chờ đợi căng thẳng, viên sĩ quan ra lệnh cho quân lính chuẩn bị nhắm bắn. Bấy giờ hai vị giám mục đã yêu cầu viên chỉ huy cho phép ôm hôn từ biệt từng người và được chấp thuận. Các ngài đã lợi dụng giây phút quý báu để ban phép giải tội cho họ. Sau đó hai vị giám mục đã không về chỗ mà lại tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Giám Mục chính tòa đã nói với viên chỉ huy: “Không phải 50 người, nhưng là 52 người trong đó có chúng tôi. Ông vẫn quyết định bắn chúng tôi, thì hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.”

Khi ngài vừa dứt lời, thì bầu khí đang nặng nề sự chết chóc đột nhiên biến mất và thay vào bằng những tiếng reo hò vang dậy, vì quân lính Đức đang nhắm bắn tử tội đã được viên sĩ quan ra lệnh hạ vũ khí. Hôm đó trên đường từ pháp trường về, cả hai vị mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng dâng Chúa lời Thánh vịnh: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126,1-2).

2) “GIAI ĐIỆU HẠNH PHÚC”:

Trong một cuốn phim tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La mélodie du bonheur), cô MERI là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Meri đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô...

Cuối cùng cô đã chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu người cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.

3) MỘT BÀ MẸ SẴN SÀNG HY SINH CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG:

Trong thiệp báo tin Maria Cristina qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền một màu xanh hy vọng. Chính giữa thiệp nổi lên hình một bông hoa hồng, có đọng những giọt sương mai óng ánh. Giữa bông hoa là ảnh chân dung của Cristina đang tươi cười duyên dáng trong chiếc áo cưới rất đẹp. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện rút ra từ nhật ký của Cristina: “Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.”

Cuộc đời của Cristina đã kết thúc vào năm 26 tuổi. Bệnh ung bướu ác tính tại tử cung đã mắc vào năm 18 tuổi, tưởng đã được chữa lành, giờ lại xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang chờ sinh con thứ ba. Khi nghe bác sĩ thông báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư ác tính đã tái xuất hiện". Sau khi im lặng một giây, Cristina đã nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói: “Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!”. Viên bác sĩ đã hiểu và không dám đề ra lối trị liệu hóa chất sẽ giết chết bào thai! Mà chỉ kê toa thuốc dưỡng thai.

Sau đó đến tháng 8 năm 1994 thì Maria Cristina đã sinh hạ bé Riccardo. Ngay sau khi sinh, chị mới bắt đầu dùng phương pháp trị liệu bằng hóa chất, nhưng đã quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu vào các cơ quan nội tạng. Người mẹ trẻ đã êm ái trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ dại. Cái chết anh dũng của Cristina để bảo vệ thai nhi đã cho thấy một tình thương vô bờ của một bà mẹ trẻ đối với đứa con thân yêu của mình. Chị đã thực hành lời Chúa: “Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên”.

4) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỦA MỤC TỬ GIÊSU:

Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh Hiêrônimô và hỏi: “Này Hiêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Thầy không?”

Hiêrônimô đáp: “Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con mới dịch xong.”

Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng vẫn chưa thỏa mãn, Người hỏi tiếp: “Con còn có gì khác để dâng cho Ta nữa không?”

Hiêrônimô không chút do dự trả lời: “Con xin dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước cho tới bây giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.”

Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa hoàn toàn mãn nguyện, Người lại hỏi lần thứ ba: “Con cố nghĩ xem còn có gì thêm để dâng cho Ta nữa không?”

Lần này, Hiêrônimô suy nghĩ và đã thưa cùng Chúa: “Con nghĩ con đã dâng cho Chúa tất cả mọi sự của con rồi, Không còn gì khác xứng đáng để dâng cho Chúa.”

Bấy giờ Chúa Giêsu đã âu yếm nhìn Hiêrônimô và nhỏ nhẹ phán: “Hiêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi cùng những thói hư của con? Con giữ chúng lại làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên cây thập tự chính là để đền mọi tội lỗi của con đó”.

Bấy giờ Hiêrônimô đã thành kính dâng lên Chúa tất cả, kể cả mọi tội lỗi của mình.

3. THẢO LUẬN:

1) Hãy cho biết Chúa Giêsu trong Tin Mừng đã tự xưng là mục tử tốt lành , phân biệt với các đầu mục dân Do thái là các kinh sư, Biệt phái và Tư tế đền thờ như thế nào? 2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để tích cực cộng tác với các vị chủ chăn trong giáo xứ trong việc phục vụ cộng đoàn? 3) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện hiến thân phụng sự Chúa trong các chủng viện hay dòng tu nam nữ?

4. SUY NIỆM:

Trong Cựu Ước, hình ảnh Mục Tử Nhân Lành đã được các ngôn sứ dùng để ám chỉ Đức Chúa như sau: “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,1-4). Hình ảnh người mục tử cũng được dùng để ám chỉ các vị lãnh đạo thời bấy giờ. Nhưng thật đáng buồn khi các vua chúa đã không sống đúng vai trò mục tử của mình như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm Lời Đức Chúa quở trách họ: “Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! … Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng chạy tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất… thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu cũng khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Kẻ làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh ta, nên khi thấy sói đến, anh ta liền bỏ chiên mà chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho đoàn chiên tan tác, vì anh ta chỉ là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến đoàn chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử." (Ga 10,11-16).

1) Mục tử là ai và được phân thành mấy loại?:

Mục tử là người lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên. Đức Giêsu phân biệt ra hai loại mục tử: Một là mục tử đích thực hay là chủ chiên nhân lành, và hai là mục tử giả hiệu hay là kẻ chăn thuê như sau:

- Mục tử nhân lành: Đức Giêsu đã nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giêsu đã thể hiện sứ vụ mục tử của loài người: Trong thời gian giảng đạo, Người đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, dạy cho người ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và đòi chúng ta phải biết đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng việc yêu thương tha nhân bên cạnh, nhất là yêu thương những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi (x Mt 13,1-9). Người đến để cho «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Đây cũng là sứ vụ mà các mục tử hôm nay cần quan tâm thực hiện, là lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào qua việc chuyên tâm dạy giáo lý và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dồi dào qua việc tích cực góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), chia sẻ cơm bánh (x. Mt 14,15-21), phục sinh kẻ chết (x. Ga 11,43-44).

- Mục tử giả hiệu: hay người chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pharisêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ tỏ ra vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm lời Đức Chúa trách các mục tử Ítraen như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

2) Hai loại mục tử trong Hội Thánh hôm nay:

Ngày nay trong Hội thánh cũng luôn có hai loại mục tử như thời Đức Giêsu:

- Các mục tử tốt lành: Hầu hết các mục tử trong Hội Thánh hôm nay đều là những người thành tâm đáp lại ơn Chúa kêu gọi để gia nhập chủng viện, được huấn luyện, được giám mục tuyển chọn đặt tay trao tác vụ linh mục và được sai đi chăm sóc đoàn chiên. Đặc điểm của mục tử tốt lành này là nhiệt tình yêu mến Chúa và khiêm tốn phục vụ đàn chiên vô vụ lợi noi gương Đức Giêsu. Họ luôn vui vẻ đón tiếp mọi người không phân biệt giàu nghèo sang hèn khi làm việc mục vụ, như dạy giáo lý và rao giảng Lời Chúa, thăm viếng an ủi những người bệnh tật đau khổ, chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ người nghèo với tình thương noi gương mục tử Giêsu.

- Bên cạnh những mục tử tốt lành nói trên, vẫn còn một số ít mục tử chưa tốt được Đức Giêsu ví như kẻ chăn thuê. Những người này coi việc mục vụ như một nghề kiếm sống. Họ cũng rao giảng Tin mừng, cũng dạy giáo lý, cũng khuyên bảo mọi người… nhưng chính họ lại không thực hành, nghĩa là “họ nói mà không làm” như lời Đức Giêsu trách các đầu mục dân Do thái: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Hạng mục tử chăn thuê này thường biểu lộ qua các hành vi như: Chỉ kính nể săn đón người giàu và khinh thường bạc đãi người nghèo, có lối sống xa hoa ích kỷ hưởng thụ như: ở nhà sang trọng, mặc quần áo thời trang, chọn đi loại xe đời mới đắt tiền… mà không quan tâm đến những nhu cầu của người nghèo và các bệnh nhân đang cần được trợ giúp. Họ có thái độ kiêu căng tự ái cao thể hiện qua việc tìm cách trả thù những ai dám phê phán các việc làm sai trái của họ. Họ quá quan tâm đến những công việc đời thường hơn là những việc thuộc chức năng mục tử của mình, và làm mọi việc chỉ vì lý do lợi nhuận...

3) Mục tử hôm nay cần phải năng tự kiểm về lòng thương xót:

Hiện nay có hiện tượng ngày càng có nhiều tín hữu chủ trương “Tin Chúa chứ không tin Giáo Hội”. Thực tế tại các nước Nam Mỹ, một số không ít tín hữu đã rời bỏ Hội Thánh Công Giáo để gia nhập các giáo phái lạc đạo nhưng các người đứng đầu của họ lại có lối ứng xử có tình người hơn và có nếp sống khó nghèo phù hợp với lời Chúa hơn. Ngày lễ Chúa Chiên nhân lành hằng năm chính là dịp để các tín hữu chúng ta, nhất là các người đang có trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên kiểm điểm đời sống, năng xét mình về cung cách phục vụ như sau:

Có thể chúng ta đã “nói mà không làm” như các kinh sư và người Pharisêu giả hình xưa đã bị Đức Giêsu phê phán: "Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,2-4).

Có thể một số mục tử trong chúng ta đã lối hành xử thiếu lòng thương xót khi giải quyết giấy tờ hôn phối theo ý riêng mà không theo Giáo Hội, đã bày đặt thêm những điều kiện không có trong giáo luật, gây trở ngại không ít cho công việc làm ăn của các tín hữu, gây bức súc cho các di dân từ các nơi xa đến.

Một số các mục tử trong chúng ta đã có lối hành xử “vụ lề luật”, thiếu lòng thương xót, hoặc ứng xử thiếu nhân bản thân thiện khi tiếp xúc với anh em lương dân, gây cho họ sự bất mãn và tạo thành kiến bất lợi cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh. Chính lối hành xử thiếu lòng thương xót này là nguyên nhân khiến nhiều bạn trẻ phải kết hôn không phép đạo, hoặc khiến một số người lương mới theo đạo có ác cảm và đã bỏ lễ nhà thờ sau khi kết hôn...

4) Thế nào là một mục tử lý tưởng theo Đức Thánh Cha Phanxicô ?:

Đức Thánh Cha Phanxicô quan niệm mục tử lý tưởng phải là "người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có "tâm lý của các ông hoàng". Là những người không tham vọng và là các phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên. Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.

Cuối cùng vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên khi thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên như sau:

-Một là ở đàng trước để dẫn đường.

-Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và động viên tinh thần của đoàn chiên.

-Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đoàn chiên đánh hơi hầu tìm ra một hướng đi mới cho đoàn.

Trong kinh Năm Thánh “Lòng Chúa thương xót” có đoạn cầu cho các thừa tác viên là các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.”

5) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu:

Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân tình thương của Chúa Giêsu trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ Công Giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và làm tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh cách hữu hiệu hơn.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 cũng nhắc đến vai trò của giáo xứ trong việc vun trồng ơn thiên triệu như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được hướng dẫn để gặp được Đức Giêsu, để nghe lời Người và đi theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mạng cứu độ của Người”.

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊSU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa qua các ngài. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành, giàu lòng từ bi thương xót noi gương Chúa xưa, Đấng đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.

- LẠY CHÚA. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn luôn hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên, là điều kiện để giáo xứ phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:52 15/04/2016
30. ĐẶNG NGẢI NÓI LẮP .
Đặng Ngải có tật nói lắp, lúc nói tên của mình, thì thường nói “ngải…ngải” không ngừng, có một lần Tấn Văn công chế nhạo ông ta, nói:
- “Ngảỉ, ngải là mấy ngải ?”
Đặng Ngải trả lời khéo léo:
- “Phượng a, phượng a, vốn dĩ là một con chim phượng.”
(Hài cự lục)

Suy tư 30:
Nói “cà lăm” không phải là một cái tội, nó chỉ là một khuyết tật mà thôi, nó sẽ là một tội lớn khi chúng ta đem cái “cà lăm” của người anh em chị em ra nhạo cười.
Có người mang tật nói lắp nhưng đầu óc rất minh mẫn, sáng suốt, đời sống đạo đức thánh thiện; trái lại có ngưới ăn nói rất trôi chảy, khi nói thì có văn có hoa, nhưng tâm hồn thì bị bệnh “cà lăm”: họ nói năng không ngay thật, ưa nói dối, thích ba hoa nói xấu người khác, thích tranh biện với mọi người để ra vẻ ta đây là người có khoa ăn nói...
Tật nói lắp nơi thân xác và bệnh “cà lăm” trong tâm hồn, nếu đem lên bàn cân “của lòng thương xót” mà cân, thì bệnh “cà lăm” trong tâm hồn đúng là nặng hơn, cần phải chữa trị ngay không chậm trễ.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 4 PS)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:54 15/04/2016
Chúa Nhật 4 PHỤC SINH
(Ngày cầu cho ơn thiên triệu)

Tin mừng : Ga 10, 27-30.
“Tôi ban sự sống đời đời cho chiên của tôi”.


Anh chị em thân mến,
Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ, để Giáo Hội ngày càng có thêm nhiều người hiến dâng cuộc sống của mình để phục vụ Thiên Chúa trong ơn gọi của mình, trong niềm xác tín vào ơn gọi linh mục mà tôi đã lãnh nhận từ nơi Giáo Hội, tôi xin chia sẻ với bạn ba điểm này :

1. Ơn thiên triệu là một sáng kiến của Thiên Chúa.
Thiên Chúa, Đấng vì yêu thương nhân loại mà có những sáng kiến độc đáo vượt qua trí khôn của con người để cứu chuộc nhân loại, trong đó có sáng kiến kêu gọi một số người sống đời tận hiến, để thay mặt Ngài để hiến tế, để tha tội, để phục vụ tha nhân và loan truyền Phúc Âm cho mọi người, đó chính là các linh mục, các tu sĩ nam nữ, và những người tự nguyện sống trong các cộng đoàn tu hội đời được Giáo Hội chấp thuận.

Ơn thiên triệu tự nó đã nói lên được lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi, bởi tự bản chất của nó là mời gọi, là triệu tập những người thiện chí đi theo lời mời gọi của Ngài để trở nên một dụng cụ mới hơn, đắc lực hơn trong công việc rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.

Sáng kiến này được Đức Chúa Giê-su thực hiện đầu tiên khi Ngài kêu gọi các tông đồ đi theo Ngài, để tiếp tục sứ mạng cứu chuộc của Ngài ở trần gian, và hơn hai ngàn năm nay Thiên Chúa –qua Giáo Hội- vẫn tiếp tục mời gọi những tâm hồn thiện chí biết quên mình để phục vụ và yêu thương Ngài nơi tha nhân, chính ơn gọi này đã làm cho nhân loại ngày càng tốt tươi hơn, gần gủi với nhau hơn, và thấy rõ được tình yêu Thiên Chúa hơn, qua đời sống tận hiến của các linh mục và các tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội.

Bởi vì Ơn thiên triệu là một sáng kiến độc đáo của Thiên Chúa, nên chỉ có Thiên Chúa mới độc quyền kêu mời và tuyển chọn ai thì theo ý muốn của Ngài mà thôi, và như thế thì thật vinh dự cho người được chọn vậy...

2. Linh mục là quà tặng Thiên Chúa ban cho thế gian.
Đức Chúa Giê-su –Đấng cứu độ trần gian- đã vì yêu thương nhân loại mà thiết lập chức linh mục –bí tích Truyền Chức thánh- để qua bí tích này, nhân loại đón nhận vô vàn ân sủng của Ngài ban cho qua các linh mục, và chính nhờ bí tích này mà Đức Chúa Giê-su –qua bí tích Thánh Thể- đã trở nên của ăn của uống nuôi dưỡng linh hồn những người tin vào Ngài. Đây là một hồng ân và là một món quà vô giá, mà chỉ có Thiên Chúa mới hào phóng ban tặng cho nhân loại mà thôi, bởi vì không một cá nhân nào tự quyền cho mình lam linh mục, không một tổ chức nhân loại nào có quyền tự phong chức linh mục cho người khác, hoặc đặt người trong tổ chức của mình làm linh mục, nếu đoàn thể đó không hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo và Đức Giáo Hoàng Rô-ma.

Các tín hữu Công Giáo càng ý thức mình là người Ki-tô hữu, thì càng đề cao vai trò của các linh mục trong đời sống thiêng liêng của mình, bởi vì từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, người Ki-tô hữu đã được hưởng biết bao ơn lành của Thiên Chúa từ tay các linh mục, đó chính là hồng ân và là quà tặng của Thiên Chúa ban cho họ, chính qua bí tích Truyền Chức thánh mà linh mục trở nên Đức Chúa Ki-tô thứ hai để tiếp tục sứ mạng và công việc của Đức Chúa Ki-tô tại trần gian này, đó là hiến tế, tha tội và thông ban ân sủng của Thiên Chúa cho người giáo dân.

Không có linh mục thì không có thánh lễ, không có thánh lễ thì không có tiệc thánh Mình và Máu Đức Chúa Ki-tô, tức là không có hy tế dâng lên Chúa Cha xin Ngài ban ơn và tha tội cho nhân loại tội lỗi, do đó mà giáo dân cần phải yêu mến, trân trọng và gìn giữ món quà quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, đó là các linh mục của Chúa.

3. Cầu nguyện, hy sinh và yêu thương các linh mục, tu sĩ nam nữ.
Anh chị em thân mến,
Có giáo dân khóc vì có một số linh mục không làm tròn bổn phận cao quý của mình, có một vài giáo dân bực mình vì có một số linh mục cũng như các tu sĩ nam nữ chưa thực sự dấn thân vì Tin Mừng và vì tha nhân, có những người chống đối và chỉ trích cách sống của một số linh mục, vì những linh mục này sống không giống với những gì mà họ đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa và Giáo Hội...

Trách cứ, buồn phiền, chỉ trích của bạn và của tôi với các linh mục là do những bức xúc mà có, nhưng nếu chỉ trích mà không cầu nguyện cho các ngài, buồn phiền mà không yêu mến các linh mục, trách cứ mà không tha thứ, thì –xét cho cùng- cũng chẳng cải thiện được gì, mà có khi còn mở đường cho người khác chống đối các linh mục của chúng ta. Do đó, mà bạn và tôi nên tự hỏi mình: có lúc nào tôi cầu nguyện cho các linh mục của Giáo Hội không ?

Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu hôm nay, tôi xin mời anh chị em trong giáo xứ của mình tăng gia lời cầu nguyện và làm các việc hy sinh, để cầu nguyện cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ trong Giáo Hội. Bởi vì chỉ có cầu nguyện, hy sinh và yêu thương là những phương thế chữa lành, và ban sức mạnh giúp cho các linh mục và các tu sĩ nam nữ đi trọn con đường tận hiến của mình mà thôi...

Xin Thiên Chúa và Đức Mẹ Ma-ri-a –Mẹ của các linh mục và của các tu sĩ nam nữ- chúc lành cho tất cả chúng ta.
------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:57 15/04/2016

23. Đức khiết tịnh là sự đền đáp đặc biệt của khiêm tốn.

(Thánh Ioannes Bosco)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")

-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Linh Mục hãy sợ sự dữ ?
Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
20:09 15/04/2016
LINH MỤC HÃY SỢ SỰ DỮ!

(SUY TƯ NHÂN Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH)

Mỗi lần giơ tay ban phép lành, Linh mục là người trao ban bình an của Thiên Chúa cho anh chị em. Đặc biệt, trong bí tích giải tội, không chỉ trao ban bình an, khi dùng tác vụ của Hội Thánh, cùng với việc trao ban bình an, linh mục còn là người xua trừ sự dữ khỏi tâm hồn anh chị em. Điều đó cũng có nghĩa là linh mục giải thoát anh chị em của mình ra khỏi sự dữ, khỏi mọi hình thức nô lệ của nó.

Dù vậy, ta vẫn dám khẳng định chắc rằng, sau khi nhân danh Thiên Chúa tha tội cho anh chị em, hiểu theo một nghĩa rộng nào đó, linh mục là tác giả của sự giải thoát, có thể là kẻ không chất chứa sự lành, ngược lại, chất chứa cả một hố sâu thăm thẳm đầy sự dữ, tội lỗi ngay trong chính tâm hồn mình?

Bởi bên cạnh rất nhiều linh mục ngày đêm vươn tới sự lành, lo vun bồi, tưới bón để ơn gọi của mình phong phú hơn, thánh thiện hơn, thì đâu đó vẫn còn những bóng tối của sự dữ thống trị tâm hồn linh mục. Nó biến họ thành những kẻ thích xoi mói, thích gieo tiếng xấu, thích nịnh bợ bề trên, xem thường anh em và những người cùng sống, cùng làm việc, cùng chia sẻ gánh nặng mà chính mình phải mang vác trước…

Hoặc chính linh mục lại hạ danh dự, ganh ghét, gièm pha… anh em linh mục với nhau nói riêng và anh chị em xung quanh nói chung. Tệ hại hơn, chính anh em linh mục chẳng những không thể tha thứ, lại rắp tâm nuôi lòng thù và muốn trả thù một điều gì đó, một ai đó đã gây ra điều bất lợi cho mình.

Linh mục cũng chính là người có thể kéo bè, lập nhóm, a dua theo những thế lực khác nhau, không nhằm giới thiệu Chúa Kitô, hay xây dựng những cộng đoàn yêu thương và cầu nguyện, nhưng hoàn toàn ngược lại, chỉ nhắm củng cố và tạo thêm sức mạnh quyền lực, sức mạnh phòng thủ của riêng bản thân.

Người linh mục cũng có thể lợi dụng chức vụ linh mục của mình tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm những giá trị vật chất. Nếu không tự đào tạo ơn gọi và lương tâm từng ngày, họ có thể cũng bon chen, cũng mưu toan tính toán như bao nhiêu tật xấu của nhiều anh chị em sống giữa đời.

Nếu không lo tích trữ sự lành, lại để những sự dữ ấy tự do thống trị, người linh mục sẽ trở thành kẻ nguy hiểm, bởi họ đi những bước rất dài trong sự xa cách ba lời khuyên Phúc Âm đã từng thề hứa trong ngày chịu chức: vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh.

Ơn thánh hiến mà bị lạm dụng, có khác chi lời tiên tri Êgiêkiel cảnh báo từ rất xưa: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34, 2- 4).

Ơn thánh hiến mà bị lạm dụng, phải chăng rất giống lời cảnh báo trong sách tiên tri Isaia dành cho sự đen tối và tội lỗi của Babylon: “Chính ngươi đã tự nhủ: ‘Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc. Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên như Đấng Tối Cao’. Nhưng ngươi lại phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu… Ngươi bị liệng ra khỏi mồ, như một mầm non ghê tởm, nằm trong đám người chết vì gươm đâm, trên những phiến đá dưới vực thẳm, tựa thây ma bị người ta giày xéo…” (Is 14, 13-19).

Ơn gọi thánh hiến và chính đời linh mục của mình mà để xảy ra như thế thì thật là bi đát, thật nguy hiểm cho Hội thánh của Chúa và xúc phạm danh Chúa.

Là linh mục của Chúa, anh em chúng ta hãy nuôi dưỡng một lối sống lành mạnh. Hãy theo đuổi ơn gọi nên thánh suốt đời, đó là điều mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Các ngươi hãy nên thánh thiện, như Cha các ngươi trên trời là Đấng thánh thiện” (Mt 5, 48).

Trên hết hãy gieo sự lành.

Xin đừng gieo sự dữ! Đừng gieo vào lòng, vào đời sống anh chị em. Đừng gieo nơi chính tâm hồn mình… Hãy sợ sự dữ!…

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha chuẩn bị viếng thăm người tị nạn
Lm. Trần Đức Anh OP
08:37 15/04/2016
ROMA. Lúc 7 giờ chiều tối ngày 14-4-2016, ĐTC Phanxicô đã đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma tại Đền Thờ Đức Bà Cả, để cầu xin ở phù trợ của Đức Mẹ trước cuộc viếng thăm của ngài tại đảo Lesvos (Lesbo), Hy Lạp, trong ngày thứ bẩy 16-4-2016.

ĐTC đã dâng kính Đức Mẹ bó hoa hồng mầu trắng và xanh dương là mầu cờ của Hy Lạp.

Theo thói quen từ đầu triều đại Giáo Hoàng, trước và sau mỗi chuyến viếng thăm ở nước ngoài cũng như trước các biến cố quan trọng, ĐTC đều đến Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện.

Trong cuộc họp báo hôm thứ năm, 14-4-2016, Cha Lombardi Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, đã kêu gọi giới báo chí và dư luận đừng nhìn chuyến viếng thăm của ĐTC tại trại tị nạn ở Lesvos dưới khía cạnh chính trị, và đây không phải là một sự phê bình việc xử lý của Liên hiệp Âu Châu về những người tị nạn và di dân. Cha Lombardi giải thích rằng ”Cuộc viếng thăm này có tính chất hoàn toàn là nhân đạo và đại kết, theo nghĩa cuộc viếng thăm này cùng được ĐTC, Đức Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo và Đức TGM Chính Thống Athènes và toàn Hy Lạp thực hiện.”

Theo LM giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cuộc viếng thăm tại trại tị nạn Lescos này sinh từ mối quan tâm lo lắng của ĐTC trước tình trạng những người di dân và tị nạn. Đây cũng là quan tâm của Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp là quốc gia đang trải qua tình trạng rất trầm trọng như chúng ta biết”. (RG 14-4-2016)

Tổng thư ký Comece

Mặt khác, LM Patrick Daly, Tổng thư ký Ủy ban GM Liên hiệp Âu Châu gọi tắt là Comece, chào mừng cuộc viếng thăm của ĐTC tại đảo Lesvos và khẳng định rằng ”Đây là lúc quyết định cho câu trả lời của Âu Châu đối với cuộc khủng hoảng tị nạn. Ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng, qua cuộc viếng thăm tại đảo Lampedusa, cực nam Italia, ĐTC Phanxicô cho biết số phận của người tị nạn là điều rất quan trọng đối với ngài.

Cha Daly kêu gọi các quốc gia thành viên Liên hiệp Âu Châu hãy xử lý cuộc khủng hoảng tị nạn trong tinh thần liên đới: ”Lối thoát duy nhất cho cuộc khủng hoảng này là một sự tiến hành có phối hợp giữa mọi chính phủ thuộc Liên hiệp Âu Châu”.

Cha Daly cũng đặc biệt đề cao khía cạnh đại kết trong cuộc viếng thăm của ĐTC cùng với hai vị lãnh đạo của Chính Thống Constantinople bên Thỗ Nhĩ Kỳ và Chính Thống giáo tại Hy Lạp. Chiều kích này thật là quan trọng đối với công việc của tổ chức Comece (KNA 14-4-2016)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Video Thánh lễ Tạ Ơn và Tiệc Mừng Cha Gioan Trần Công Nghị 45 năm Linh Mục
VietCatholic
14:27 15/04/2016
Ngày Chúa Nhật 10 tháng 4 năm 2016 vừa qua, Cộng đồng CGVN TGP Los Angeles, 4 Cộng đoàn Việt Nam, và Phong trào Cursillo ở Los Angeles, những nơi Cha Gioan đã phục vụ trong những năm qua, đã tổ chức Lễ Tạ Ơn 45 kỉ niệm linh mục của Cha tại nhà thờ Saint Anthony ở San Gabriel, và Tiệc mừng cho Cha. Bốn cộng đoàn đó là St. Finbar ở Burbank, Saint Gabriel Misssion, Our Lady or the Assuption Church và Saint Anthony.

Những người tham dự có thể download hình ảnh ở đây (Photo William Nguyễn)

Hay những hình ảnh ở link này (Photos Thanh Nguyên)

Hiện diện trong Thánh lễ có Đức Cha Mai Thanh Lương, Cha cậu Trần Bình Trọng, cha em họ Trần Xuân Lãm, cha con thiêng liêng Nguyễn khắc Hiếu, Cha Nguyễn chí Hiếu, Cha Hiển Linh, Cha Việt Châu, cha Văn Chi và chừng 15 linh mục đồng tế. Một số các Sơ dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm và Sơ bà con là Sr Thu Hà.

Thánh lễ thật long trọng có sự tham dự của các qúi chức các cộng đoàn và các ban ngành. Sự hiện diện của Gia đình và thân quyến Cha Gioan. Đặc biệt ca đoàn tỗng hợp gồm 60 ca viên thuộc 3 cộng đoàn hát trong thánh lễ rất sốt sắng.

Sau thánh lễ là Tiệc Mừng do các Các Cộng Đoàn tổ chức. Mở đầu buổi tiệc Cha Văn Chi điều khiển phần khai mạc gồm phần rước nến cảm động và cắt bánh sinh nhật.

Phần văn nghệ rất đặc sắc anh Xuân Ngân và ca sĩ Kim Thúy làm MC. Tiệc mừng rất gồm rất nhiều tiết mục. Mỗi cộng đoàn đóng góp 2 tiết mục và phần phát biểu của qúi chức, gia đình và con cháu thiêng liêng. Có sự đóng góp đặc biệt của Ca sĩ Thanh Lan, Kim Thuý, Lý Mai Trang và em bé Dzian…

Thành phần Ban Tổ Chức gồm có:

Trưởng Ban Tổ chức là Cha Bùi Hiển Linh,
Phó ban Cha Văn Chi,
Ban Cố vấn gồm Cha Đại diện Liên lạc Nguyễn chí Hiếu,
Ông bà Nguyễn Bảo Hoàn, Nguyên Chủ tịch Cộng đồng CGVN TGP Los Angeles
Ông Nguyễn Hiếu Vinh, Chủ tịch Cộng đồng CGVN TGP Los Angeles
Các thành viên Ban tổ chức gồm có:
Đại diện Phong trào Cursillo: Thầy Phó tế Nguyễn Lộc
Cô Trần Anh Phương và chị Chị Dung Hoá
Đại diện CĐ Lòng Chúa Thương Xót: Chị Hoàng Nga
Đại diện Cộng đoàn Mân Côi; ông nguyên chủ tịch Bùi Thái và Chị Xuân Lan
Đại diện Cộng đoàn Phục Sinh: anh chị Quân Châu
Đại diện Cộng đoàn Lộ Đức St Finbar: ông chủ tịch Hoàng Văn Nhạ, và Ông Thọ
Đại diện Giới Văn Nghệ Sĩ: nhà văn Quyên Di và ca sĩ Thanh Lan
Ca trưởng Thu Hương
Văn nghệ: anh Xuân Ngân và KimThúy
Video và Photos: Anh Nguyễn Hóa, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Thanh và Nguyễn Thành.
 
Giáo Phận Phú Cường Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục - Hội Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm
Tôma Đỗ Lộc Sơn
20:04 15/04/2016
Giáo Phận Phú Cường Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục - Hội Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm

Vào lúc 9g30 sáng ngày 15/4/2016, Đức Giám Mục Giuse Nguyễn Tấn Tước - Giám mục Giáo phận Phú Cường dâng Thánh lễ Tạ ơn và truyền chức linh mục cho 4 thầy phó tế thuộc Hội dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm (O.M.I) trên nhà nguyện của Nhà Chung Giáo phận Phú Cường.

Xem Hình

Cùng đồng tế với Đức Cha Giuse, có: Đức Cha Giuse – Nguyên Giám mục Giáo phận Phát Diệm, cha Tổng Đại diện Micae Lê Văn Khâm, cha Giám tỉnh Hội dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm và khoảng 60 cha trong và ngoài giáo phận. Tham dự Thánh lễ có quý tu sĩ của các dòng và khoảng 1200 bà con giáo dân là những thân nhân - ân nhân các tiến chức.

Quý tiến chức gồm:

- Giuse Nguyễn Hữu Thái,

- Phêrô Phạm Hữu Chí,

- Nicola Vũ Duy Tân,

- GB. Nguyễn Quốc Võng.

Đôi dòng tiểu sử dòng O.M.I.

Cuộc cách mạng 1789 mang lại cho người Pháp nền dân chủ và hòa bình; tuy nhiên, xã hội Pháp cũng đi qua giai đoạn khó khăn khi chính quyền tuyên bố tách rời thể chế chính trị với tôn giáo. Nhiều giáo sĩ bị kết án tù đày, nhiều nhà quý tộc bị treo cổ hoặc bị bỏ tù, v.v. Đứng trước thảm trạng một đất nước đang trong cơn khủng hoảng, nhất là phải chứng kiến đời sống đức tin xuống dốc trầm trọng của hàng ngũ linh mục, tu sĩ và giáo dân. Cha Igiêniô Mai Thiên Lộc quyết dấn thân trong việc cải tổ đời sống đức tin của Dân Chúa, ngài lập cộng đoàn “Anh em truyền giáo vùng Provence”. Cha đã quy tụ được 4 linh mục đầy nhiệt huyết cho công việc truyền giáo và sáng tạo trong công việc mục vụ vào năm 1816. Với sự nhạy bén cũng như nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội Pháp thời bấy giờ đã làm cho tu hội phát triển rất nhanh.

Ngày 17 tháng 02 năm 1826, bản Hiến pháp và Quy luật dòng được Đức Giáo Hoàng Lêô XII chính thức phê chuẩn với tên: “Dòng Truyền Giáo Hiến Sĩ Đức Maria Vô Nhiễm – Missionnaires Oblats de Marie Immaculée” thuộc luật Giáo Hoàng.

Bổn mạng của Hội dòng: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 08.12,

Trụ sở tại Việt Nam: A 149c, KP. Bình Đức 2. TX. Lái Thiêu - Thuận An - Bình Dương.

Các cộng đoàn tại Việt Nam: Nhà sinh viên, Tiền tập viện, Tập viện, Học viện, Nhà tình thương, v.v. được công nhận vào những năm gần đây và hiện có 14 linh mục, 60 khấn sinh, tập sinh.

Xin chúc mừng Hội dòng, chúc mừng quý tân chức. Rất ước mong, từ nay, Hội dòng có thêm những mục tử nhiệt thành, luôn hăng say mở rộng Nước Chúa từ những công việc nhỏ thành những việc cao cả, hầu tôn vinh Chúa đến muôn đời.

Tôma Đỗ Lộc Sơn
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ơn Gọi trong lòng Giáo hội.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
12:39 15/04/2016
Ơn Gọi trong lòng Giáo Hội.

Xưa nay chúng ta thường hiểu những người đi tu làm linh mục hay Tu Sĩ Nam Nữ trong các Hội Dòng là những người có ơn Kêu Gọi hay được Chúa kêu gọi tuyển chọn.

Vậy Ơn kêu gọi là gì?

Bây giờ nếu có ai hỏi, phải cắt nghĩa ơn kêu gọi như thế nào cho những người Trẻ hiểu rõ, có lẽ không có một định nghĩa giống như một công thức trắng đen rõ ràng nào.

Vì ơn kêu gọi không phải là một đơn từ, một bài viết ra cho người đọc, người xem chấp nhận hay không chấp nhận. Nhưng Ơn kêu gọi là tiếng mời gọi âm thầm hầu như linh thiêng vang lên từ trong tâm hồn mỗi người.

Nếu có ai hỏi, thế tiếng mời gọi đó vang vọng phát ra âm thanh trong tâm hồn con người như thế nào và vào lúc nào?

Điều này cũng không có thể nói diễn tả ra đơn giản bằng ngôn ngữ hay chữ viết con số được. Vì tiếng mời gọi vang vọng trong tâm hồn không thành tiếng nghe được bằng thính gíac của đôi tai. Nhưng cảm nghiệm nhận ra được trong trái tim tâm hồn.

Phải, tiếng mời gọi truyền đi qua cảm nhận trong làn rung động của trái tim, hay từ tầng thần kinh cảm gíac. Và tiếng mời gọi đó xảy đến bất chợt không theo một thời gian nhất định nào.

Như thế, có thể hiểu là ơn kêu gọi vang lên rồi cứ thế triển nở khắc ghi trong tâm hồn người đó mãi mãi sao?

Không hẳn là như thế đâu. Vì như hạt giống gieo vãi xuống đất, có hạt gặp nền đất tốt, có nước, có ánh sáng mặt trời chiếu xuống cùng được chăm sóc vun xới, sẽ mọc lên thành cây sinh hoa kết trái tươi tốt. Trái lại, nếu thiếu những điều kiện căn bản đó, hạt giống sẽ mai một chết lịm dần đi.

Với tiếng mời gọi cũng tương tự như thế. Những điều kiện ngoại cảnh về môi trường giáo dục đào tạo, môi trường đời sống gia đình, nếp sống văn hóa lành mạnh, cùng nếp sống đạo đức giúp tiếng mời gọi phát triển lớn lên thành ơn kêu gọi phát triển đứng vững giữa dòng đời sống.

Trong dân gian có suy tư: Ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng nồng ấm. Còn gío thổi thì mang đến hơi lạnh. Vì thế bầu khí sinh sống, sự vun xới chăm sóc nếp sống đạo đức nơi gia đình, nơi xứ đạo tựa như ánh sáng mặt trời chiếu tỏa hơi nóng cần thiết cho mầm ơn kêu Gọi nảy sinh phát triển.

Ơn kêu gọi cần phải được vun trồng chăm sóc theo hướng tinh thần cùng đào tạo vươn tới Thiên Chúa, là Đấng kêu gọi, và hướng tới căn bản đời sống tình người, không chỉ cho hôm qua hôm nay mà còn phải liên tục mãi cho ngày mai.

Ngày xưa trong thời Cựu ước, Thiên Chúa kêu gọi cá nhân từng người, như Thánh Tiên tri Maisen, Thánh tiên tri Isaia, Edechiel làm sứ gỉa loan báo ý muốn của Ngài cho mọi con người.

Chúa Giêsu đến, Ngài kêu gọi hoặc từng người, như các Thánh Tông đồ Phero, Phaolo, Andre, Toma, Giacobe…là những người tin đi theo làm chứng nhân sứ gỉa cho phúc âm Chúa giữa dòng đời sống xã hội. Trải qua dòng thời gian luôn có những người, những Bạn Trẻ lớn lên đã cảm thấy có tiếng thôi thúc trong tận tâm hồn về một đời sống trong nhà Dòng, trong Chủng viện ở các Giáo phận về đời sống dấn thân cho việc làm chứng rao truyền tình yêu Nước Chúa ở trần gian trong lòng Giáo Hội. Đó là tiếng Chúa kêu gọi thôi thúc trái tim tâm hồn họ.

Hằng năm vào ngày Chúa Nhật 4. mùa phục sinh, còn gọi là Chúa Nhật Chúa chiên lành, năm nay vào ngày 17.04.2016, là ngày cầu nguyện cho ơn kêu Gọi Linh mục, Tu sỹ Nam Nữ trong các Hội Dòng trong lòng Giáo Hội Công Giáo.

Hãng xưởng, nhà máy sản xuất cần những thợ nhân công làm việc, nhưng họ cần hơn những vị kỹ sư hoạch định thiết kế công việc chế tạo. Cũng tương tự như vậy trong đời sống Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, không dám cùng không được phép nói hay nghĩ cho rằng người tín hữu Chúa Kitô là những người thợ làm việc còn các Linh mục tu sỹ là những kỹ sư…

Không, không, không đâu. Mọi người trong Giáo Hội Chúa đều là những tín hữu Chúa Kitô như nhau. Nhưng mỗi người có bổn phận trách vụ khác nhau trong cánh đồng vườn nho của Giáo Hội Chúa ở trần gian.

Vì thế trong lòng Giáo Hội có những ơn Gọi khác nhau. Và Ơn kêu gọi cũng như đời sống của con người là con đường sống trải dài từ hôm qua sang ngày mai.

„ Ơn gọi được nảy sinh ngay trong lòng Giáo Hội. Từ khoảnh khắc một ơn gọi bắt đầu trở nên rõ ràng, ơn gọi ấy cần phải có “cảm thức” về Giáo Hội. Không ai được kêu gọi để dành riêng cho một vùng riêng biệt, hay cho một nhóm hoặc một phong trào nhưng là dành cho Giáo Hội và thế giới…

Ơn gọi lớn lên trong lòng Giáo Hội. Trong quá trình đào tạo, cáo ứng viên với những ơn gọi khác nhau cần học hỏi kiến thức về cộng đoàn Giáo Hội, vượt qua những giới hạn lúc đầu. Để khi kết thúc, họ nên cùng nhau thực hiện những trải nghiệm tông đồ với những thành viên khác của cộng đoàn, chẳng hạn như: cùng theo một khóa giáo lý, trao đổi các thông điệp Giáo Hội, gặp gỡ liên hội dòng, chia sẻ trải nghiệm việc truyền giáo tại các vùng ngoại vi, chia sẻ đời sống tu viện, khám phá nguy cơ đưa đến cám dỗ; liên hệ với các vị thừa sai để đào sâu hơn về sứ vụ đến với muôn dân; và trong cộng đoàn các linh mục giáo phận, để đi sâu vào kinh nghiệm đời sống mục vụ giáo xứ và giáo phận. Đối với những ai đã sẵn sàng cho việc đào tạo, cộng đoàn Giáo Hội luôn là môi trường đào tạo cơ bản.“ Đức Giáo Hoàng Phanxico, Sứ điệp ngày Thế Giới Ơn Gọi 2016: “Ơn gọi được sinh ra trong lòng Giáo Hội“

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
 
Nguyên Văn Tông Huấn Amoris Laetitia của Đức Phanxicô (các số 58-75)
Vũ Văn An
18:33 15/04/2016
Chương Ba: Nhìn lên Chúa Giêsu: ơn gọi của gia đình

58. Trong và giữa các gia đình, sứ điệp Tin Mừng luôn phải được vang lên; cốt lõi sứ điệp này, tức sơ truyền (kerygma), là điều “tươi đẹp nhất, xuất sắc nhất, lôi cuốn nhất và đồng thời cần thiết nhất” (50). Sứ điệp này “phải chiếm trung tâm mọi hoạt động phúc âm hóa” (51). Nó là lời tuyên xưng đầu triên và quan trọng nhất, “mà ta phải nghe đi nghe lại nhiều cách khác nhau, và phải luôn công bố dưới hình thức này hay hình thức nọ” (52). Thực vậy, “không có gì vững chắc hơn, sâu sắc hơn, an toàn hơn, có ý nghĩa và khôn ngoan hơn sứ điệp này”. Quả thế, “mọi việc đào luyện của Kitô Giáo hệ ở việc bước sâu hơn vào sơ truyền” (53).

59. Giáo huấn của chúng ta về hôn nhân và gia đình không thể không được linh hứng và biến đổi bởi sứ điệp yêu thương và âu yếm này; nếu không, nó sẽ chỉ đơn giản trở thành việc bệnh vực một thứ học thuyết khô khan, không có sinh khí. Mầu nhiệm gia đình Kitô Giáo chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa Cha, như đã được mạc khải nơi Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến mình cho ta và tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta. Giờ đây, tôi muốn hướng cái nhìn của tôi vào Chúa Kitô hằng sống, Đấng đang ở tâm điểm của rất nhiều câu truyện tình, và kêu nài ngọn lửa Thần Khí xuống trên mọi gia đình thế giới.

60. Chương vắn vỏi này, do đó, sẽ tóm lược giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Cả ở đây nữa, tôi cũng sẽ nhắc tới những gì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã phát biểu về ánh sáng do đức tin của chúng ta đem lại. Các ngài đã bắt đầu bằng cách nhìn lên Chúa Giêsu và các ngài nói tới việc Người “đã nhìn những người đàn ông và đàn bà một cách yêu thương và trìu mến ra sao, luôn đồng hành với họ trong sự thật, kiên nhẫn và thương xót khi công bố các đòi hỏi của Nước Thiên Chúa” (54). Chúa cũng đang ở với chúng ta hôm nay, khi ta tìm cách thực hành và truyền thụ Tin Mừng gia đình.

Chúa Giêsu phục hồi và hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa

61. Trái với những người bác bỏ hôn nhân như một điều xấu xa, Tân Ước dạy rằng “mọi sự Thiên Chúa tạo nên đều tốt và không có điều gì cần phải từ bỏ” (1Tm 4:4). Hôn nhân là “một ân ban” của Chúa (1Cr 7:7). Đồng thời, chính vì hiểu tích cực như thế, Tân Ước mạnh mẽ nhấn mạnh đến việc cần phải bảo vệ ân ban của Thiên Chúa: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế” (Dt 13:4). Ơn phúc của Thiên Chúa này bao gồm tính dục: “đừng từ chối nhau” (1Cr 7:5).

62. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã ghi nhận điều này: Chúa Giêsu, “khi nói tới kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa dành cho người đàn ông và người đàn bà, đã tái khẳng định sự kết hợp bất khả tiêu giữa họ với nhau, thậm chí còn quả quyết rằng ‘chính vì sự cứng lòng của các ông nên Môsê mới cho phép các ông ly dị vợ, nhưng ngay từ đầu, không phải thế” (Mt 19:8). Tính bất khả tiêu của hôn nhân ‘điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly’ (Mt 19:6) không nên bị coi như ‘một cái ách’ áp đặt lên cổ nhân loại, nhưng như một ‘ân ban’ cho những ai kết hợp nhau trong hôn nhân... Tình yêu khoan dung của Thiên Chúa luôn cùng đồng hành với con người; qua ơn thánh, tình yêu này chữa lành và biến cải các linh hồn chai đá, dẫn họ trở lại lúc ban đầu qua nẻo đường thập giá. Các sách Tin Mừng trình bầy rõ ràng điển hình của Chúa Giêsu, Đấng... đã công bố ý nghĩa hôn nhân như là sự viên mãn của mạc khải nhằm phục hồi kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (xem Mt 19:3)” (55).

63. “Chúa Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự trong chính Người, đã phục hồi hôn nhân và gia đình trở lại hình thức nguyên thủy của nó (xem Mt 10:1-12). Hôn nhân và gia đình đã được Chúa Kitô cứu chuộc (xem Ep 5:21-32) và phục hồi theo hình ảnh Ba Ngôi Chí Thánh, mầu nhiệm mà từ đó, mọi tình yêu đích thực đã phát sinh. Giao ước phu phụ, khởi nguồn trong tạo dựng và được mạc khải trong lịch sử cứu rỗi, nhận được ý nghĩa đầy đủ của nó nơi Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Qua Giáo Hội của Người, Chúa Kitô ban cho hôn nhân và gia đình ơn thánh cần thiết để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa và sống cuộc sống hiệp thông. Tin Mừng gia đình trải dài dọc lịch sử thế giới, từ lúc tạo dựng người đàn ông và người đàn bà theo hình ảnh và theo họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1:26-27), tới lúc hoàn thành mầu nhiệm giao ước nơi Chúa Kitô vào ngày chung cục với hôn lễ của Chiên Con” (xem Kh 19:9)” (56).

64. “Điển hình của Chúa là mô hình cho Giáo Hội... Người bắt đầu thừa tác vụ công khai bằng phép lạ tại tiệc cưới Cana (xem Ga 2:1-11). Người tham dự mọi giây phút hàng ngày của tình bằng hữu với gia đình Ladarô và hai chị của chàng (xem Lc 10:38) và với gia đình Thánh Phêrô (xem Mc 8:14). Người tỏ thiện cảm với các cha mẹ tang chế và hồi sinh con cái họ (xem Mc 5:41; Lc 7:14-15). Qua cách này, Người biểu lộ ý nghĩa chân thực của thương xót, vốn bao hàm việc phục hồi giao ước (xem Đức Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 4). Điều này rất rõ ràng trong các cuộc trò chuyện của Người với người đàn bà Samaria (xem Ga 1:4-30) và với người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình (xem Ga 8:1-11) trong đó, ý thức tội lỗi đã được đánh thức bởi cuộc gặp gỡ với tình yêu nhưng không của Chúa Giêsu” (57).

65. Việc nhập thể của Ngôi Lời trong một gia đình nhân bản ở Nadarét, nhờ tính mới mẻ của nó, đã thay đổi lịch sử thế giới. Ta cần bước vào mầu nhiệm Chúa Giêsu sinh ra, vào tiếng “xin vâng” của Đức Maria với lời đưa tin của thiên thần, khi Ngôi Lời được thụ thai trong lòng Đức Mẹ, cũng như tiếng “xin vâng” của Thánh Giuse, người đã đặt tên cho Chúa Giêsu và chăm sóc Đức Mẹ. Ta cần chiêm ngưỡng niềm vui của các người chăn chiên trước máng cỏ, sự thờ lạy của Ba Vua và việc trốn qua Ai Cập, trong đó, Chúa Giêsu chia sẻ kinh nghiệm lưu đầy, bị bách hại và hạ nhục của dân tộc Người. Ta cần chiêm ngưỡng hoài vọng tôn giáo của Giacaria và niềm vui của ông lúc Gioan Tẩy Giả sinh ra, sự nên trọn lời hứa đã được ngỏ cùng ông Simêong và bà Anna ở Đền Thờ và sự bỡ ngỡ của các bậc thầy Lề Luật khi lắng nghe sự khôn ngoan của con trẻ Giêsu. Sau đó, ta cần nhìn sâu vào 30 năm trường đằng đẵng lúc Chúa Giêsu kiếm kế sinh nhai bằng việc làm chân tay, đọc những lời cầu nguyện và các phát biểu truyền thống trong đức tin của dân Người và tiến tới chỗ hiểu biết đức tin của cha ông ấy cho tới lúc làm cho nó sinh hoa kết trái trong mầu nhiệm Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Giáng Sinh và bí quyết Nadarét, biểu tỏ hết nét đẹp của đời sống gia đình! Chính mầu nhiệm này đã làm mê lòng Thánh Phanxicô Assidi, Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Charles de Foucauld và tiếp tục làm các gia đình Kitô hữu tràn trề hy vọng và niềm vui.

66. “Giao ước yêu thương và trung thành từng được Thánh Gia Nadarét sống đã soi sáng nguyên tắc vốn lên khuôn cho mọi gia đình và giúp gia đình đương đầu tốt hơn với các thăng trầm cuả cuộc đời và lịch sử. Trên căn bản này, mọi gia đình, bất kể các yếu đuối của họ, có thể trở thành ánh sáng trong đêm tối thế giới. ‘Nadarét dạy ta ý nghĩa cuộc sống gia đình, sự hiệp thông đầy yêu thương của nó, vẻ đẹp đơn giản và chân phương của nó, đặc tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của nó. Ước chi nó dạy ta việc huấn luyện của nó êm dịu và bất khả thay thế xiết bao, vai trò của nó trong trật tự xã hội nên tảng và khôn sánh đến chừng nào’ (Đức Phaolô VI, Diễn Văn tại Nadarét, 5 tháng 1, 1964)” (58).

Gia đình trong các văn kiện Giáo Hội

67. Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes của nó, quan tâm lo lắng “cổ vũ phẩm giá của hôn nhân và gia đình” (xem các số 47-52). Hiến Chế này “định nghĩa hôn nhân như một cộng đồng sự sống và yêu thương (xem 48), đặt lòng yêu thương ở tâm điểm gia đình... ‘Lòng yêu thương đích thực giữa chồng và vợ’ (49) liên quan tới việc hiến thân cho nhau, bao hàm và hội nhập các chiều kích tính dục và xúc cảm, theo kế hoạch Thiên Chúa (xem 48-49). Văn kiện công đồng cũng nhấn mạnh “việc bén rễ vợ chồng vào Chúa Kitô. Chúa Kitô ‘tự làm Người hiện diện với vợ chồng trong bí tích hôn nhân’ (48) và ở lại mãi với họ. Trong việc nhập thể, Người mặc lấy tình yêu nhân bản, thanh tẩy nó và đem nó tới viên mãn. Nhờ Thần Khí của Người, Người ban cho vợ chồng khả năng sống tình yêu này, bằng cách thấm nhiễm mọi phần đời họ bằng đức tin, đức cậy và đức mến. Nhờ cách này, vợ chồng được thánh hiến và, nhờ một ơn thánh đặc biệt, xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và tạo lập một Giáo Hội tại gia (xem Lumen Gentium, 11), để Giáo Hội, nếu muốn hiểu trọn vẹn mầu nhiệm của mình, nhìn vào gia đình Kitô hữu, một gia đình vốn biểu hiện Giáo Hội một cách đích thực” (59).

68. “Chân Phúc Phaolô VI, ngay sau Công Đồng Vatican II, đã khai triển xa hơn giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Một cách đặc biệt, với Thông Điệp Humanae Vitae, ngài đã làm rõ sợi dây gắn bó nội tại giữa lòng yêu thương vợ chồng và việc sinh sản: ‘Lòng yêu thương phu phụ đòi nơi người chồng và người vợ một ý thức trọn vẹn về các nghĩa vụ của họ trong vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm, điều mà ngày nay được nhấn mạnh rất đúng, nhưng đồng thời phải được hiểu một cách đúng đắn... Thi hành việc làm cha mẹ có trách nhiệm đòi hỏi chồng và vợ phải tuân thủ thứ tự ưu tiên đúng đắn, biết nhìn nhận các bổn phận của họ đối với Thiên Chúa, đối với chính họ, đối với gia đình họ và đối với xã hội con người’ (số 10). Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Phaolô VI làm rõ mối liên hệ giữa gia đình và Giáo Hội”(60) .

69. “Thánh Gioan Phaolô II dành sự lưu ý đặc biệt cho gia đình trong các bài giáo lý của ngài về tình yêu con người, trong Lá Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam Sane , và đặc biệt trong Tông Huấn Familiaris Consortio của ngài. Trong các văn kiện này, Đức Giáo Hoàng định nghĩa gia đình là ‘đường của Giáo Hội’. Ngài cũng đề xuất một viễn kiến tổng quát về ơn gọi yêu thương của các người đàn ông và các người đàn bà, cũng như các hướng dẫn căn bản cho việc chăm sóc mục vụ các gia đình và vai trò của gia đình trong xã hội. Đặc biệt, khi bàn đến tình yêu phu phụ (xem số 13), ngài mô tả cung cách vợ chồng, trong tình yêu hỗ tương của họ, đã tiếp nhận ơn Thần Khí Chúa Kitô như thế nào và sống ơn gọi nên thánh của họ ra sao” (61).

70. “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, trong Thông Điệp Deus Caritas Est của ngài, đã trở lại với chủ đề sự thật trong tình yêu của người đàn ông và người đàn bà, một sự thật chỉ được soi sáng trong tình yêu của Chúa Kitô chịu đóng đinh (xem số 2). Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân đặt căn bản trên tình yêu độc chiếm và dứt khoát đã trở nên hình ảnh mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Người, và ngược lại. Cách Thiên Chúa yêu thương đã trở thành thước đo tình yêu nhân bản’ (số 11). Hơn nữa, trong Thông Điệp Caritas in Veritate, ngài làm nổi bật tầm quan trọng của tình yêu, coi nó như nguyên tắc sống trong xã hội (xem số 44), một nơi ta học được kinh nghiệm ích chung” (62).

Bí tích hôn phối

71. “Thánh Kinh và Thánh Truyền giúp ta tiến tới việc hiểu biết Ba Ngôi, một hiểu biết vốn được mạc khải với các đặc điểm của gia đình. Gia đình là hình ảnh Thiên Chúa, Đấng vốn là một hiệp thông các ngôi vị. Lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, người ta nghe thấy tiếng Thiên Chúa phán, gọi Chúa Giêsu là Con Yêu Quí của Người, và trong tình yêu này ta có thể nhận ra Chúa Thánh Thần (xem Mc 1:10-11). Chúa Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự trong chính Người và cứu chuộc ta khỏi tội lỗi, không những phục hồi hôn nhân và gia đình trở lại hình thức nguyên thủy của nó, mà còn nâng hôn nhân lên hàng dấu chỉ bí tích tình yêu của Người dành cho Giáo Hội (xem Mt 19:1-12; Mc 10:1-12; Ep 5:21-32). Trong gia đình nhân bản, được Chúa Kitô tụ tập, ‘hình ảnh và họa ảnh’ của Ba Ngôi Chí Thánh (xem St 1:26) đã được phục hồi, mầu nhiệm từ đó mọi tình yêu đích thực đã phát sinh. Qua Giáo Hội, hôn nhân và gia đình nhận được ơn Chúa Thánh Thần từ Chúa Kitô, để làm chứng cho Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa” (63).

72. Bí tích hôn nhân không phải là một công ước xã hội, một nghi lễ trống rỗng hay một dấu hiệu cam kết bề ngoài. Bí tích là một ân ban để thánh hóa và cứu rỗi vợ chồng, vì “việc họ thuộc về nhau, qua dấu chỉ bí tích, là biểu tượng thực sự của mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Cặp vợ chồng, do đó, là một nhắc nhở thường xuyên để Giáo Hội nhớ tới điều đã diễn ra trên thập giá; Họ là chứng tá cứu rỗi cho nhau và cho con cái, một ơn cứu rỗi họ cùng chia sẻ nhờ bí tích” (64). Hôn nhân là một ơn gọi, bao lâu nó là lời đáp trả ơn gọi đặc biệt cảm nghiệm tình yêu vợ chồng như là dấu chỉ bất toàn của tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thành thử, quyết định kết hôn và tạo lập gia đình phải là hoa trái của diễn trình biện phân ơn gọi.

73. “Việc hiến thân cho nhau trong bí tích hôn phối được đặt cơ sở trong ơn thánh phép rửa, là phép thiết lập ra giao ước nền tảng của mọi người với Chúa Kitô trong Giáo Hội. Khi chấp nhận lẫn nhau, và với ơn thánh của Chúa Kitô, hai người đính hôn đoan hứa với nhau sẽ hiến thân hoàn toàn, trung thành với nhau và sẵn sàng chào đón sự sống mới. Họ nhìn nhận các yếu tố này như những điều cấu thành hôn nhân, như những ơn phúc Thiên Chúa ban cho họ, và họ coi trọng cam kết hỗ tương này, nhân danh Thiên Chúa và trước mặt Giáo Hội. Như thế, đức tin đã làm họ có khả năng coi các thiện ích của hôn nhân như các cam kết mà họ có thể tuân giữ được nhờ sự trợ giúp của ơn thánh bí tích... Thành thử, Giáo Hội trông chờ vào các cặp hôn nhân như trái tim của toàn bộ gia đình và ngược lại họ trông chờ vào Chúa Giêsu” (65). Bí tích không phải là một “sự việc” hay một ‘quyền lực”, vì trong nó, chính Chúa Kitô “hiện đang gặp gỡ các vợ chồng Kitô hữu... Người cư ngụ với họ, ban cho họ sức mạnh để vác thập giá và như thế bước theo chân Người, để trỗi dậy sau khi ngã qụy, để tha thứ cho nhau, để mang gánh nặng của nhau” (66). Hôn nhân Kitô Giáo là dấu chỉ việc Chúa Kitô yêu Giáo Hội của Người xiết bao, trong một giao ước đã được đóng ấn trên thập giá nhưng nó cũng đã làm cho tình yêu này hiện diện trong hiệp thông vợ chồng. Nhờ trở nên một thân xác, họ là hiện thân việc giao bôi của Con Thiên Chúa với bản tính con người của ta. Đó là lý do tại sao “trong niềm vui yêu thương và cuộc sống gia đình của họ, Người ban cho họ ngay trên trần gian này được nếm trước tiệc cưới của Chiên Con” (67). Cho dù sự so sánh giữa cặp đôi nhân bản vợ chồng với cặp đôi Chúa Kitô và Giáo Hội chỉ là “bất toàn” (68), nó vẫn gợi hứng để chúng ta nài van Chúa ban cho mọi cặp vợ chồng được tràn đầy tình yêu thần thánh của Người.

74. Kết hợp tính dục, được cảm nghiệm và được thánh hóa một cách yêu thương bởi bí tích, ngược lại, đối với vợ chồng, là con đường phát triển trong đời sống ơn thánh của họ. Nó là “mầu nhiệm hợp hôn” (69). Ý nghĩa và giá trị sự kết hợp thể lý của họ được phát biểu trong các lời ưng thuận, trong đó, họ chấp nhận và hiến thân cho nhau, để hoàn toàn chia sẻ cuộc sống với nhau. Những lời lẽ đó đem lại ý nghĩa cho mối liên hệ tính dục và giải thoát nó khỏi mọi tính hàm hồ. Nói tổng quát hơn, cuộc sống chung vợ chồng, toàn bộ mạng lưới liên hệ mà họ xây dựng với con cái họ và thế giới chung quanh, sẽ được đắm chìm và được củng cố bởi ơn thánh bí tích. Vì bí tích hôn nhân đã phát sinh từ việc nhập thể và mầu nhiệm vượt qua, nhờ đó, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu viên mãn của Người dành cho nhân loại bằng cách trở nên một với chúng ta. Không ai trong hai người phối ngẫu sẽ còn cô độc trong việc đương đầu với bất cứ thách đố nào họ gặp nữa. Cả hai đều được kêu gọi đáp trả ơn phúc của Thiên Chúa một cách đầy dấn thân, sáng tạo, kiên trì và cố gắng hàng ngày. Họ luôn có thể kêu cầu sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng đã thánh hiến sự kết hợp của họ, để ơn thánh của Người được cảm nhận trong mọi hoàn cảnh mới lạ họ có thể gặp.

75. Trong truyền thống Giáo Hội La Tinh, các thừa tác viên bí tích hôn phối là người đàn ông và người đàn bà kết hôn (70); qua việc tỏ ưng thuận và phát biểu nó một cách thể lý, họ đã tiếp nhận một ân ban lớn lao. Sự ưng thuận của họ và sự kết hợp thể xác của họ là các phương thế do Chúa ấn định để nhờ đó, họ trở nên “một thân xác”. Nhờ sự thánh hiến của phép rửa, họ có khả năng tham dự vào hôn phối như các thừa tác viên của Chúa và nhờ thế đáp lại tiếng Chúa mời gọi. Bởi thế, khi hai vợ chồng không phải là Kitô hữu lãnh nhận phép rửa, họ không cần phải lặp lại các đoan hứa lúc kết hôn nữa; họ chỉ cần không bác bỏ chúng, vì khi lãnh nhận phép rửa, sự kết hợp của họ tự động trở thành có tính bí tích. Bộ Giáo Luật cũng thừa nhận tính thành sự của một số cuộc kết hợp được cử hành không có sự hiện diện của một thừa tác viên thụ phong (71). Trật tự tự nhiên vốn thấm nhiễm ơn thánh cứu chuộc của Chúa Giêsu đến nỗi “một khế ước hôn phối thành sự không thể hiện hữu giữa các người đã chịu phép rửa mà không vì sự kiện này mà không là một bí tích” (72). Giáo Hội có thể đòi việc này: đám cưới phải cử hành cách công khai, với sự hiện diện của các nhân chứng và các điều kiện khác có thể thay đổi theo thời gian, nhưng điều này vẫn không giảm giá việc chính những cặp kết hôn mới là các thừa tác viên của bí tích. Nó cũng không ảnh hưởng gì tới tính trung tâm của việc ưng thuận do người đàn ông và người đàn bà nói lên, một việc tự nó thiết lập ra dây hôn phối. Nói thế rồi, ta vẫn cần suy nghĩ thêm về hành động của Thiên Chúa trong nghi thức hôn phối; điều này đã được biểu lộ rõ ràng nơi các Giáo Hội Đông Phương qua sự coi trọng việc chúc lành mà cặp vợ chồng lãnh nhận như dấu chỉ ơn Chúa Thánh Thần.

Kỳ sau: Hạt giống Lời Chúa và các hoàn cảnh bất toàn, Truyền sinh và dưỡng dục con cái, Gia đình và Giáo Hội
_____________________________________________________________________________________________________________
(50) Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 35: AAS 105 (2013), 1034.
(51) Ibid., 164: AAS 105 (2013), 1088.
(52) Ibid.
(53) Ibid., 165: AAS 105 (2013), 1089.
(54) Relatio Synodi 2014, 12.
(55) Ibid., 14.
(56) Ibid., 16.
(57) Relatio Finalis 2015, 41.
(58) Ibid. 38
(59) Relatio Synodi 2014, 17.
(60) Relatio Finalis 2015, 43
(6) Relatio Synodi 2014, 18
(62) Ibid. 19
(63) Relatio Finalis 2015, 38
(64) Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22 tháng 11, 1981), 13: AAS 74 (1982), 94.
(65) Relatio Synodi 2014, 21.
(66) Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 1642.
(67) Ibid.
(68) Bài Giáo Lý (6 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 7 tháng 5, 2015, p. 8.
(69) Đức Lêô Cả, Epistula Rustico Narbonensi Episcopo, Inquis. IV: PL 54, 1205A; Xem Hincmar of Rheims, Epist. 22: PL 126, 142.
(70) Cf. Đức Piô XII, Thông Điệp Mystici Corporis Christi (29 tháng 6, 1943): AAS 35 (1943), 202: “Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri gratiae …”
(71) Cf. Bộ Giáo Luật, cc. 1116; 1161-1165; Bộ Giáo Luật Các Giáo Hội Đông Phương, 832; 848-852.
(72) Ibid., c. 1055 §2.
 
Văn Hóa
Bánh trường sinh
Đinh Văn Tiến Hùng
19:56 15/04/2016
Bánh Trường Sinh

“Chính Ta là Bánh Trường Sinh.
Ai đến với Ta không hề phải đói.
Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ.”
( Ga.6 : 35 )

-Ở đời ‘dĩ thực vi tiên ‘, (*)
Nghèo thì lận đận lo tìm miếng ăn.
Kẻ giàu lại cứ phân vân,
Ăn gì cho khỏe chẳng cần thuốc thang ?
Quên rằng tuổi thọ thế gian,
Trăm năm rồi cũng vội vàng ra đi.

-Truyện trong Cựu Ước còn ghi,
Chúa thương Do Thái xưa kia lưu đầy,
Chăm lo nuôi dưỡng đêm ngày,
Ban xuống thực phẩm Man-na từ trời.
Tân Ước truyền lại bao lời,
Khi Chúa rao giảng khắp nơi đổ về,
Từ thành thị đến thôn quê,
Say mê Lời Chúa mà quên thân mình.
Nhưng Ngài nhìn họ thương tình,
Hóa năm chiếc bánh năm nghìn người ăn,
Đó là lương thực nuôi thân,
Xác phàm rồi cũng đến ngày tiêu tan,
Thế mà Chúa vẫn ủi an,
Ban cho cuộc sống trần gian tạm thời.

-Huống chi sự sống đời đời,
Ban Bánh Trường Sinh từ trời cho ta,
Hiến chương từ ái ban ra,
Những Lời linh diệu thật là yêu thương,
Muốn được hưởng phúc Thiên đường,
Ăn Bánh Hằng Sống Con Người Hiến Dâng :
“Thịt Ta là thật của ăn,
Máu Ta là thật của uống.
Ai ăn Thịt và uống Máu Ta, sẽ được sống đời đời”

-Con xin cảm tạ Chúa Trời,
Đã sinh hạ xuống làm Người trần gian,
Dù cho biển cạn núi tan,
Thánh Thể lưu mãi muôn vàn yêu thương,
Tình Chúa bao la khôn lường,
Vững tin theo Chúa trên đường Tình yêu.


ĐINH VĂN TIẾN HÙNG

(*) Mượn ý Mạnh Tử : ‘ Quân dĩ dân vi bản, Dân dĩ thực vi tiên ‘
( Nước lấy dân làm gốc, Dân lấy ăn làm đầu )




 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Giây Phút Dấu Yêu
Nguyễn Đức Cung
18:22 15/04/2016
GIÂY PHÚT DẤU YÊU
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Tiềt xuân trời ấm nước trong
Khiến cho chim chóc động lòng dấu yêu.
(nđc)