Ngày 31-01-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy Tìm Kiếm Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:46 31/01/2018
Nếu như Chúa Nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa Nhật thứ Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù, làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui mừng; mọi người đều ...thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn, Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm. Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.

Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum, trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô : "Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê" (Mt 1,29) . Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì mà sách Tin Mừng đã trình bày như : Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.

Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên : Thiên Chúa thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con người được tìm kiếm được nâng lên!... "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? " (G 7,17). Tôi muốn biết tại sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay cả khi họ có ý tốt lành.

Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta, một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn trào, họ được giải thoát và được cứu.

Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số người bị buộc đưa đến, vì "lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ được nghỉ ngơi trong Chúa" (Thánh Augustinô).

Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người yếu đuối, "Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá" (1Cr 9,22).

Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể "vươn lên và bước tới" bằng lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa : "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó"(Mc 1,35).

Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa Nhật là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin thêm về hiện tình Giáo Hội tại Trung Hoa
Vũ Văn An
03:49 31/01/2018
Theo ký giả Charles Collins của tạp chí Crux, sau khi gặp và trình 1 bức thư của Giáo Hội hầm trú Trung Hoa cho Đức Phanxicô, Đức Hồng Y Joseph Zen, cựu tổng giám mục Hồng Kông, ngày 29 tháng 1, 2018, đã viết 1 lá thứ đăng trên Facebook, cho rằng việc Tòa Thánh yêu cầu hai vị giám mục hầm trú Trung Hoa từ chức để nhường chỗ cho hai giám mục được Nhà Nước công nhận “là ban phúc lành cho giáo hội ly khai vừa được tăng cường”.



Theo AsiaNews, thư mà một trong 2 giám mục trên nhận được của Tòa Thánh chỉ là để xin ý kiến của vị này mà thôi, không hẳn là thư xin ngài nhường chỗ.

Tuy nhiên, Đức Hồng Y Zen viết rằng “nhiều dị bản về sự kiện và giải thích đang tạo ra mơ hồ lẫn lộn cho nhiều người. Nhiều người, khi biết mới đây tôi có đi Rôma, yêu cầu tôi soi sáng thêm.”

Thành thử nhân dịp này ngài cho biết một số sự kiện: hồi tháng 10, ngài có yêu cầu Đức TGM Savio Hon Tai Fai, cựu tổng thư ký Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho Các Dân Tộc và hiện là Đại Sứ của Tòa Thánh ở Hy Lạp nói chuyện với Đức Phanxicô về lời yêu cầu nhường chỗ. Lúc đó, Đức Phanxicô rất “ngạc nhiên và hứa sẽ xem xét vấn đề”. Nhưng rồi hồi tháng 12, lời yêu cầu nhường chỗ lại được lặp lại, nên Đức Hồng Y Zen rốt đỗi bàng hoàng. Chính vì thế ngày 12 tháng 1, 2018, ngài đích thân đi gặp Đức Phanxicô. Trong cuộc gặp gỡ này, Đức Phanxicô cho Đức Hồng Y Zen hay: ngài đã nói với các giới chức Tòa Thánh “đừng tạo ra 1 vụ Mindszenty nữa.”

Mindszenty chính là Đức Hồng Y József Mindszenty của Hung Gia Lợi, bị cộng sản giam giữ từ năm 1949 tới năm 1956. Lúc xẩy ra cuộc cách mạng Hung nhằm lật đổ chế độ Cộng Sản, ngài vào tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Mỹ. Năm 1971, ngài được rời xứ sở và qua đời tại Vienna 4 năm sau đó.

Theo Đức Hồng Y Zen, vấn đề không phải là việc từ chức của các giám mục hầm trú, mà là lời yêu cầu nhường chỗ cho các giám mục do nhà nước bổ nhiệm. Ngài chỉ ra rằng “nhiều vị giám mục hầm trú già nua đã khẩn khoản xin cho được một vị kế vị, nhưng không hề được Tòa Thánh trả lời. Một số vị khác, dù vị kế vị đã được nêu danh, thậm chí còn có cả sắc chỉ với chữ ký của Đức Thánh Cha nữa, nhưng được chỉ thị đừng tiến hành việc tấn phong vì sợ làm phật lòng chính phủ.”

Như đã biết, Hiệp Hội Công Giáo Trung Hoa Yêu Nước được chính phủ Cộng Sản lập năm 1957 để giám sát các Giáo Hội Công Giáo độc lập khỏi Vatican. Một Giáo Hội hầm trú trung thành với Đức Giáo Hoàng hiện hữu song song với Hiệp Hội này.

Năm 2007, trong một lá thư lịch sử gửi người Công Giáo Trung Hoa, Đức Bênêđíctô XVI cho hay việc hoà giải trọn vẹn giữa hai cơ chế trên là điều không thể một sớm một chiều mà có được, nhưng “để Giáo Hội phải sinh hoạt hầm trú là một tình thế không bình thường”. Ngài quả quyết: chỉ có một Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa mà thôi và khuyến khích sự hợp nhất trong việc tuyên xưng đức tin, bằng cách dành cho Hiệp Hội một tính hợp lệ nào đó và cho phép người Công Giáo tham gia Giáo Hội chính thức (được nhà nước công nhận).

Đã có lúc, hai bên đồng ý với nhau về việc cử nhiệm các giám mục cá thể. Tuy nhiên, Chủ Tịch hiện thời là Tập Cẩn Bình đang chủ trương một sự kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các tôn giáo, qua chính sách “Trung Hoa hóa” họ. Các qui định mới nhằm thi hành chính sách này có hiệu lực vào tháng Hai này.

Bởi thế, Đức HY Zen viết rằng “tôi nhận tôi là người bi quan trước hiện tình của Giáo Hội ở Trung Hoa, nhưng sự bi quan của tôi có nền tảng qua kinh nghiệm lâu dài của tôi với Giáo Hội này. Từ năm 1989 tới năm 1996, tôi thường dành 6 tháng mỗi năm dạy học tại một số chủng viện của cộng đồng Công Giáo chính thức. Tôi có kinh nghiệm trực tiếp đối với cảnh nô dịch và nhục nhã mà các hiền huynh giám mục của tôi kia thường phải chịu.”

Đức Hồng Y Zen làm Tổng Giám Mục Hồng Kông từ 2002 tới 2009. Cựu thuộc địa của Anh này được hưởng tự do tôn giáo như là một phần trong thỏa hiệp với Anh dẫn tới việc trả lãnh thổ này lại cho Trung Hoa.

Đức Hồng Y vốn được coi là một trong những người dẫn đầu trong chủ trương cứng rắn với chính phủ Cộng Sản Trung Hoa, chống lại việc tìm thỏa hiệp với chế độ.

Những người tìm cách thỏa hiệp xem ra đang có thế thượng phong ở Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, là cơ quan hiện đang cố gắng giải quyết nhiều vấn đề với Trung Hoa, trong đó, có việc bổ nhiệm các giám mục, tự do thờ phượng, bình thường hóa Giáo Hội do nhà nước bảo trợ, và thiết lập liên hệ ngoại giao.

Nói với tập san Crux hồi tháng 10, Đức Hồng Y Zen cho rằng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Pietro Parolin, có “một tâm trí bị chuốc độc” về Trung Hoa và chỉ lưu ý tới ngoại giao hơn là đức tin Công Giáo.

Trong thư đăng trên Facebook, ngài nhắc lại chủ trương của ngài, cho rằng Vatican “đang bán đứng” Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa.

Đức Hồng Y viết rằng: “Một số người bảo rằng mọi cố gắng để đạt một sự nhất trí là tránh một cuộc ly giáo. Quả là nực cười! Ly giáo đang có đó, trong cái Giáo Hội Độc Lập!”

Ngài viết tiếp: “Các vị giáo hoàng tránh dùng chữ ‘ly giáo’ vì các ngài biết rằng nhiều người trong cộng đồng Giáo Hội chính thức có mặt ở đó không do ý chí tự do của họ, mà dưới áp lực nặng nề. Việc ‘hợp nhất được đề nghị’ sẽ buộc mọi người gia nhập cộng đồng ấy. Vatican sẽ ban phép lành cho Giáo Hội ly giáo vừa được tăng cường, xóa lương tâm xấu khỏi tất cả những ai vốn đã sẵn lòng bỏ đạo và những người đang sẵn sàng tham gia với những người này.”

Đức Hồng Y Zen cũng nhận rằng việc ngài công khai phê phán Đảng Cộng Sản và các cố gắng ngoại giao của Vatican gây vấn đề cho việc hàn gắn sự chia rẽ giữa hai bên.

Ngài viết: “Có phải tôi là trở ngại chính đối với diễn trình đạt thoả ước giữa Vatican và Trung Hoa không? Nếu đó là thỏa ước xấu, thì tôi rất sung sướng làm trở ngại”.

Tuyên Bố của Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh

Có lẽ vì chủ trương mạnh mẽ và dứt khoát trên của Đức Hồng Y Zen sau khi gặp Đức Phanxicô tại Vatican, và sợ chủ trương ấy có thể gây hoang mang, bất lợi cho các cố gắng hòa giải, nên Giám Đốc Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, Greg Burke, ngày 30 tháng 1, 2018, đã ra tuyên bố sau đây:

Tham chiếu các tin tức được phổ biến rộng rãi về sự cho là khác nhau về suy nghĩ và hành động giữa Đức Thánh Cha và các cộng sự viên của ngài trong Giáo Triều Rôma về các vấn đề liên quan tới Trung Hoa, tôi có thể tuyên bố như sau:

“Đức Giáo Hoàng liên tục tiếp xúc với các cộng sự viên của ngài, đặc biệt là Phủ Quốc Vụ Khanh, về các vấn đề Trung Hoa, và được các ngài thông tri một cách trung thành và chi tiết về tình hình của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa và về các bước trong cuộc đối thoại đang diễn tiến giữa Tòa Thánh và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, một cuộc đối thoại được ngài theo dõi hết sức chăm chú. Bởi thế, thật gây ngạc nhiên và đáng tiếc là điều ngược lại đang được người trong Giáo Hội khẳng định, do đó, khuyến khích sự mơ hồ lẫn lộn và tranh cãi.”

Tuy nhiên, người ta hoài nghi một tuyên bố như trên có thể đánh tan các “ưu tư” rất nặng ký của Đức Hồng Y Zen. Trước nhất, tuyên bố này chỉ là của Giám Đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh. Thứ hai, tuyên bố này không đụng gì tới các ưu tư này. Chúng vẫn còn đó.

Thực ra, như nhận định của Victor Gaetan viết trên tờ Foreign Affairs hồi tháng Ba năm 2017, một tạp chí được Đại Học Georgetown bảo trợ, “từ ngày lên ngôi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Bắc Kinh và Rôma đã cùng đưa ra một diễn trình đặc nhiệm (ad hoc, để bổ nhiệm giám mục). Nhưng vì nó không chính thức, nên mơ hồ lẫn lộn vẫn còn đó, sự không hợp nhất vẫn day dứt, các việc trống tòa gia tăng, và, trong lý thuyết, cả hai bên đều có thể phá vỡ thế quân bình mỏng manh. Đó chính là các cuộc thương thảo nửa bí mật trong ba năm qua”.

Còn nhớ tháng 2 năm 2017, Đức Hồng Y John Tong Hon, lúc đó là Tổng Giám Mục Hồng Kông, lạc quan thông báo: Bắc Kinh và Rôma đã “đạt được sự đồng thuận” về việc bổ nhiệm giám mục. Hóa ra, cũng chỉ là thứ diễn trình “đặc nhiệm” như vừa nói, rất dễ bị phá vỡ.

Tuy thế, không ai bác bỏ việc Đức Hồng Y Zen có quan điểm cứng rắn đối với Bắc Kinh, vốn là một chế độ tội ác dưới con mắt của ngài.

Ngài coi các cố gắng hòa giải của Đức Phanxicô là “nực cười” và bất cứ thỏa hiệp nào với Trung Hoa đều “không thể chấp nhận” được.

Gaetan coi quan điểm của Đức Hồng Y Zen là quan điểm thiểu số. Trên thực tế, có nhiều mơ hồ hơn hiện đang hiện diện giữa hai giáo hội “quốc doanh” và “hầm trú” và việc phân rẽ này có hại cho sự toàn vẹn của Đạo Công Giáo dưới mắt nhiều chuyên gia về Giáo Hội, trong đó, có Linh Mục Lawrence Murphy, chủ tịch hưu trí của Đại Học Seton Hall, và nhà báo có trụ sở ở Bắc Kinh là Francesco Sisci, cựu tùy viên văn hóa của tòa đại sứ Ý ở Trung Hoa. Thực vậy, Giáo Hội Rôma xâm nhập Hiệp Hội Công Giáo Yêu Nước rất sớm. Hồ sơ tại Vatican chứa nhiều lá thư của các giám mục Trung Hoa được nhà nước chọn lựa xin hiệp thông cùng Đức Giáo Hoàng và đa số được toại nguyện. Trong số khoảng 110 giám mục ở Trung Hoa, khoảng 70 vị được cả Rôma lẫn Bắc Kinh chấp thuận, 30 vị chỉ được Tòa Thánh chấp thuận và 7 vị do nhà nước bổ nhiệm vẫn còn đợi được Tòa Thánh chuẩn y. Ở cấp địa phương, các linh mục của hai cộng đồng càng ngày càng hợp tác với nhau nhiều hơn. Jeroom Heyndrickx, một linh mục truyền giáo từng làm việc ở Trung Hoa từ năm 1980 và mang một “phái đoàn hỗn hợp” các linh mục Trung Hoa qua hành hương Rôma tháng Tư năm 2016, cho hay: “Một số phát xuất từ giáo hội hầm trú, phần lớn phát xuất từ giáo hội chính thức, nhưng không hề có sự khác biệt nhỏ nhoi nào giữa hai nhóm về lòng trung thành với Rôma”.

Một điển hình khác: sau 20 năm ngồi tù và 10 năm đi cải tạo và bị giam tại nhà ở miền Bắc Trung Hoa vì tội là linh mục được giáo dục ở Rôma và chống lại thẩm quyền của Đảng, Linh Mục Dòng Tên Aloysius Jin Luxian bằng lòng lãnh đạo chủng viện Thượng Hải khi chính phủ cho phép mở lại năm 1982. Cha Jin cho rằng điều quan trọng hơn là duy trì Giáo Hội và phục vụ giáo dân hơn là tiến hành một trận đánh vô vọng nằm hầm trú chống lại chế độ. Được yêu cầu trở thành Giám Mục Phụ Tá cho nhà nước năm 1985, và năm 1988 trở thành giám mục của Thượng Hải, Đức Cha Jin xin Vatican chấp thuận, nhưng không thành công. Mãi năm 2005, ngài được Tòa Thánh nhìn nhận là giám quản tông toà cho Đức Cha Joseph Fan Zhongliang.

Dưới sự lãnh đạo của Đức Cha Jin, giáo phận Thượng Hải đã phục hồi nhiều nhà thờ, huấn luyện hàng trăm linh mục, khởi đầu một công ty xuất bản Công Giáo, thành lập một trung tâm tĩnh huấn, và lôi cuốn nhiều tín hữu mới. Đức Cha Jin trở nên nổi tiếng khắp nước cả ở hai cơ quan được nhà nước chấp thuận là Hiệp Hội Công Giáo Yêu Nước và Hội Đồng Giám Mục, và còn vận động được việc các giáo dân cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng trong các Thánh Lễ. Ngài lên khuôn cho phụng vụ bằng tiếng Trung Hoa nay trở thành tiêu chuẩn cho cả nước. Khi qua đời năm 2013, ngài được Giáo Hội ca ngợi như một nhà lãnh đạo Công Giáo xuất chúng.

Tính lưu động giữa Đạo Công Giáo chính thức và không chính thức, một phần, cũng vì vấn đề di dân. Giáo Hội hầm trú bắt nguồn từ nông thôn, nơi các giáo sĩ Dòng Tên thế kỷ 17 truyền bá đức tin nhờ hệ thống họ hàng. Tại Trung Hoa hiện thời, khi các tín hữu di chuyển tới các khu đô thị để kiếm việc làm, họ thường phải bỏ các cộng đồng hầm trú để gia nhập các giáo hội có đăng ký, chỉ vì tiện lợi chứ không hẳn theo “phe phái”. Ngày nay, theo các linh mục làm việc ở đấy, phần lớn việc gia tăng của Công Giáo diễn ra trong Giáo Hội chính thức, chứ không hẳn trong các gia đình Công Giáo hầm trú.

Một điều cũng được Gaetan lưu ý là: quan tâm hàng đầu của Giáo Hội ở Trung Hoa là tôn giáo chứ không phải chính trị. Không thể có một giáo hội hoàn vũ hoạt động được tại những nơi người Công Giáo bị cắt đứt khỏi Rôma và bị chia thành phe này phe nọ. Thành thử trong 35 năm qua, viễn kiến của Vatican về đời sống tôn giáo là hòa giải. Lý thuyết để làm việc của Tòa Thánh là: bao lâu Đức Giáo Hoàng còn có quyền duy trì việc kế tục tông đồ (apostolic succession) qua việc bổ nhiệm giám mục, thì mọi vấn đề khác đều có thể giải quyết. Hiệp Hội Công Giáo Yêu Nước có thể trở thành phương thế truyền thông và bác ái; hội đồng giám mục sẽ là một hội đồng giữa nhiều hội đồng trên thế giới.

Trên lý thuyết, Tòa Thánh có thể chấp nhận một thỏa hiệp ngầm với Bắc Kinh như thế. Bức điện năm 2006 do Wikileaks rì rỏ cho thấy Đức Cha Celli từng đề nghị như thế với Đại Sứ Hoa Kỳ. Nhưng theo Gaetan, vì mục tiêu ngày nay không hẳn chia sẻ quyền lực cho bằng bình thường hóa đời sống Giáo Hội, sự trong sáng và việc công bố thỏa thuận là cách duy nhất để xóa tan sự chia rẽ gây đau đớn và không hữu hiệu. Thực vậy, theo Cha John Worthley, một giáo sư Hoa Kỳ về hành chánh công, người từng dạy ở Trung Hoa từ đầu thập niên 1980, thì việc làm chính ở đất liền Trung Hoa trong sáu tháng đầu năm 2017 là hợp nhất hai cộng đồng chính thức và không chính thức: “tình hình đối với Giáo Hội ở Trung Hoa giống lúc Bức Tường Bá Linh sụp đổ. Người ta đã chuẩn bị từ nhiều năm, nên khi diễn ra, nó diễn ra rất nhanh.”
 
Phòng báo chí Tòa Thánh lên tiếng về vấn đề Trung Quốc
LM. Trần Đức Anh OP
10:12 31/01/2018
VATICAN. Giám Đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Ông Greg Burke, bác bỏ những tin nói rằng có sự cách biệt về tư tưởng và hành động giữa ĐTC và các cộng sự viên của Ngài trong giáo triều Roma về các vấn đề Trung Quốc.

Trong thông cáo công bố chiều ngày 30-1-2017, Ông Greg nói:

”ĐGH liên tục tiếp xúc với các Cộng tác viên của Ngài, đặc biệt là Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, về những vấn đề Trung Quốc, và được họ thông báo một cách trung thực và chi tiết về tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc cũng như về những diễn tiến đối thoại hiện nay giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Nhân Dân Trung Quốc, và ngài đặc biệt quan tâm theo dõi. Vì thế, thật là điều gây ngạc nhiên và đáng tiếc, từ phía những người của Giáo Hội, có những khẳng định trái ngược và qua đó tạo nên hoang mang và tranh luận”.

Trong những ngày vừa qua, báo chí quốc tế đưa tin ĐHY Giuse Trần Nhật Quân nguyên GM Hong Kong, đã công bố một thư ngỏ nói rằng trong buổi tiếp kiến riêng dành cho ngài hôm 24-1 vừa qua, ĐGH Phanxicô đã chống lại việc yêu cầu 2 GM thầm lặng ở Trung Quốc từ chức để nhường chỗ cho 2 GM do Nhà Nước Bắc Kinh ủng hộ. Việc làm này do phái đoàn Tòa Thánh đến Trung Quốc đưa ra.

Những lời của ĐHY Giuse Quân ngụ ý phái đoàn Tòa Thánh đến Trung Quốc đã hành động ”sau lưng” ĐTC và trái với ý muốn ngài.

2 GM thầm lặng bị yêu từ chức thuộc giáo phận Sơn Đầu (Shantou) tỉnh Quảng Đông và Mân Đông (Mindong) tỉnh Phúc Kiến. 2 GM mà nhà nước Trung Quốc nhìn nhận, theo báo chí, là những GM chịu chức bất hợp pháp (Rei 30-1-2018)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Dâng Hương và Thánh Lễ Mừng Năm Mới, Mậu Tuất 2018. Phong Trào Cursillo Việt Nam, TGP/LA
Lê Sự
21:28 31/01/2018
Phong Trào Cursillo Việt Nam, TGP/LA mừng năm mới với nghi thức Dâng Hương và Thánh Lễ Minh Niên, Mậu Tuất 2018. được tổ chức tại hội trường Giáo xứ Saint Christopher Church, West Covina, California, Chúa Nhật ngày 28 tháng 1 năm 2018.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bốn nguy cơ đảng chết ngay đơ
Phạm Trần
09:44 31/01/2018
“Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và tệ nạn xã hội vẫn còn có những diễn biến phức tạp.”

Đó là phát biểu của Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội Cựu chiến binh Việt Nam ngày 14-12-2017, tại Hà Nội.

BỐI CẢNH NGUY CƠ

Nhưng bốn (04) nguy cơ có từ bao giờ mà vẫn còn tồn tại ? Đảng không nói mà ai cũng biết chúng bắt nguồn từ sau Hội nghị đảng VI thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1986 khi chủ trương “Đổi mới” và mở cửa làm kinh tế theo Tư bản Chủ nghĩa được áp dụng để cứu dân khỏi chết.

Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã buộc phải “đổi mới” sau 10 năm (1975-1985) sai lầm dẹp bỏ kinh tế tư nhân tự do ở miền Nam để làm theo mô hình kinh tế bao cấp, tập trung và lạc hậu của thời Liên Xô cũ được đem từ miền Bắc vào.

Nhưng sau đó, khi Liên bang Xô viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu, nguồn viện trợ kinh tế và vũ khí cho miền Bắc CSVN trong thời chiến lần lượt tan vỡ (1989-1991) thì Việt Nam thời hậu chiến suy tàn, nội bộ phân hoá, đảng viên hoang mang tìm đường thoát ly.

Để tránh tình trạng “tả xung hữu đột” có nguy cơ vỡ đảng và mất quyền lãnh đạo, hai nước thù nghịch Việt Nam và Trung Hoa trong thời gian này, đã đồng ý gặp nhau để bình thường quan hệ ngọai giao, chấm dứt xung đột biên giới phiá bắc (1979-1990). Đổi lại, Việt Nam phải rút quân để kết thúc cuộc chiến Kampuchea, do lực lượng Khmer đỏ Pol Pot chủ động và được Bắc Kinh hậu thuẫn (1975-1989), thường được gọi là cuộc chiến biên giới Tây-Nam.

Đó là lý do tại sao có Hội nghị được gọi là “thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc.”

Thành phần tham dự hai bên:

-Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng,

-Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Tại liệu BKTT kết luận:”Kết quả của hội nghị là một loạt các thay đổi trong đối nội và đối ngoại, không chỉ giữa Việt Nam với Trung Quốc, mà còn giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước ASEAN.”

Tuy nhiên cho đến nay, sau 28 năm (1990-2018), nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố.

Nhiều giới Trí thức và cựu đảng viên lão thành đã công khai yêu cầu đảng bạch hoá hồ sơ Thành Đô, sau khi họ thấy đảng đã nhượng bộ Trung Hoa trong các:

- Hiệp ước về Biên giới trên đất liền Việt - Trung ngày 30 tháng 12 năm 1999 (ký tại Hà Nội);

-Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ ngày 25 tháng 12 năm 2000 (ký tại Bắc Kinh);

-Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ cũng được ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 (ký tại Bắc Kinh)

Ngoài ra đảng cũng giấu kín “Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ” với Trung Hoa.

Việt Nam cũng tỏ ra yếu đuối trước kế họach biến các bãi đá thành đảo quân sự của Trung Hoa ở hai quần đào Hòang Sa và Trường Sa, và không dám phản ứng bằng hành động khi lính Tầu tấn công ngư dân Việt Nam đến đánh bắt hải sản ở Hòang Sa và Trường Sa.

Ngoài ra theo tiết lộ của nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì tại Thành Đô,phiá Việt Nam phải chấp nhận đòi hỏi của Trung Hoa “không được nhắc đến cuộc chiền biên giới” (1979-1990)

Đó là lý do tại sao đảng CSVN đã không cho phép người dân và cựu chiến binh được tổ chức tưởng niệm những con dân Việt Nam, ước chừng 45 ngàn Quân và Dân đã hy sinh trong cuộc chiến Việt-Trung vào ngày 17 tháng Hai hàng năm.

Riêng về vụ Hoàng Sa, bị Trung Hoa chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974, thì chính Lãnh tụ Đặng Tiều Bình đã bác bỏ đề nghị hai bên cần thảo luận vấn đế chủ quyền do nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu ra tại cuộc gặp họ Đặng tại Bắc Kinh hồi tháng 9/1975.

Vì vậy mà từ đó đến nay, Trung Hoa đã coi thường Hà Nội để lập lại câu nói “không cần phải đặt ra” mỗi khi Việt Nam muốn nhắc đến Hoàng Sa.

Phiá Việt Nam, tuy luôn miệng tuyên truyền “Việt Nam có đầy đủ bắng chứng lịch sử chứng minh chủ quyền trên hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa”, nhưng lại không dám cho dân kỷ niệm và ghi ơn 74 chiến sỹ quân đội Việt Nam Cộng hoà đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu xâm lược Hòang Sa ngày 19/01/1974.

Không những thế, đảng và nhà nước CSVN còn nhu nhược và sợ mất lòng Trung Hoa nên đã ngăn cản và chống dân khi họ tự nguyện xuống đường tưởng niệm 64 chiến sỹ Quân đội Nhân dân đã hy sinh trong trận chiến chống Tầu ngày 14/03/1988 ở Trường Sa.

Vì vậy, với những gì xẩy ra từ sau Hội nghị Thành Đô, việc đảng quyết định tiếp tục giữ bí mật những thỏa hiệp với Trung Hoa đã khiến nhiều giới ở Việt Nam nghi ngờ về sự thành thật của ba Tổng Bí thư Đỗ Mười (Khoá đảng VII, từ ngày 28/06/ 1991 đến 26/12/1997);Lê Khả Phiêu (khoá đảng VIII , từ 26 tháng 12 năm 1997 – 22 tháng 4 năm 2001) và Nông Đức Mạnh (hai khoá đảng IX và X, từ 22/04/2001 đến 19/01/2011).

Các ông này, cùng với Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, cầm quyền từ khoá đảng XI (19 tháng 1 năm 2011—đến nay) đã nhượng bộ để Trung Hoa vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên và xây dựng nhiều dự án kinh tế bất lợi cho Việt Nam trên khắp lãnh thổ. Nghiêm trọng nhất là dự án nhà máy Thép Formosa Hà Tĩnh, tuy do Đài Loan đứng chủ đầu tư nhưng có Trung Hoa chống lưng và cung cấp hàng chục ngàn công nhân và nhá máy. Thảm họa ô nhiễm môi trường biển từ ngày 06/04/2016 của Formosa đã gây thiệt hại kinh tế lâu dài cho 4 Tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Qủang Bình, Qủang Trị và Thừa Thiên-Huế.

Người dân ở nhiều vùng bị ảnh hưởng đã đứng lên đòi tống cổ Formosa ra khỏi Việt Nam và đòi bồi thường lâu dài, nhưng nhà nước, vì mối lợi trước mắt và sợ phản ứng của Bắc Kinh đã làm ngơ.

CHỒNG CHẤT LÊN NHAU

Bên cạnh những hậu qủa của quan hệ lép vế về chính trị, ngọai giao, quân sự và đặc biệt phải lệ thuộc kinh tế ngày càng sâu vào Trung Hoa với hậu qủa chưa biết thế nào trong tương lai, đảng CSVN trong năm “bản lề” 2018, còn phải dốc tâm chuẩn bị Đại hội đảng XIII năm 2021 và tiếp tục phải đối phó với đe dọa tụt hậu hơn nữa về kinh tế, vì kinh tế của Việt Nam ngày nay là “nền kinh tế làm thuê cho nước ngoài”.

Trong khi đó thì tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, kẻ thù số một của đảng bây giờ, lại tăng nhanh trong nội bộ với số đông không còn tin vào đảng nữa và muốn từ bỏ Chủ nghĩa lạc hậu và giáo điều Cộng sản Mác-Lênin.

Nhưng những “chứng hư tật xấu” này của đảng viên không mới mà chúng có từ khoá đảng VII thời ông Đỗ Mười ngồi ghế Tổng Bí thư.

Bằng chứng là tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII tháng 4 năm 1994, Đảng đã xác định 4 nguy cơ đối với chế độ là:

(1)“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt;

(2) Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện;

(3) Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu;

(4) Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”.

Biết như thế nhưng các khoá đảng sau, từ khoá VIII (Lê Khả Phiêu) đến hai khoá IX và X (Nông Đức Mạnh) và từ khoá XI đến nay (khoá XII) thời Nguyễn Phú Trọng, mọi chuyện vẫn trơ ra như đá.

Bằng chứng như Tài liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã viết:”Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng hơn.”

Như vậy thì có phải đảng viên đã nhờn lệnh đảng, hay cũng coi lãnh đạo là “cá đối bằng đầu” nên những chỉ thị, nghị quyết hay quyết định, dù có hàng hà sa số cũng không lọt lỗ tai đảng viên, hoặc chẳng ai thèm làm theo ?

Vậy mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn như người mơ ngủ, chỉ biết hô hào làm lại những thứ đảng đã thất bại trong suốt 24 năm, từ 1994 tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đến giữa nhiệm kỳ khoá đảng XII năm 2018.

Ông Trọng hứa với báo đảng trong bài phỏng vấn nhân dịp Xuân Mậu Tuất 2018 cần :”Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, chú trọng hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí những cán bộ thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết, thực sự vì Đảng, vì dân vào các vị trí lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước.”

Khi nói về chống tham nhũng, Tổng Trọng lại than tại phiên họp thứ 13 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 22/01/2018:”Tuy nhiên, mặt hạn chế, khuyết điểm là: Việc xây dựng các văn bản hoàn thiện thể chế chưa đáp ứng kịp yêu cầu; việc kết luận thanh tra một số dự án còn chậm; việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn hình thức, hiệu quả thấp (như kê khai tài sản...); tình trạng "dưới lạnh" vẫn còn nhiều, khâu tự kiểm tra còn yếu. Sự phối hợp giữa một số cơ quan có lúc, có việc chưa tốt (để tội phạm trốn...).”

Ca xong, ông lại hứa sẽ:” Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc ("tham nhũng vặt"), kiên quyết loại khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước (nhất là trong cơ quan phòng, chống tham nhũng) những cán bộ hư hỏng, tham nhũng.”

NƯỚC CHẢY QUA CẦU

Nghe bác Trọng hát đi, hát lại mãi thì cũng thấy thương. Nhưng mọi người hãy bình tĩnh theo dõi tiến trình Xây dựng đảng từ khoá đảng VIII, sau khi không làm được những gì đảng nói từ tháng 4 năm 1994.

Hồi ấy, đảng thời ông Lê Khả Phiêu nói:”Tuy nhiên, trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”

(Trích Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02/02/1999 Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCHTW Đảng (khoá VIII)

Sau đó, đảng khoá IX thời Nông Đức Mạnh lại than:”Tuy nhiên, sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn. Hiện tượng phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng có chiều hướng phát triển. Tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên sút kém. Tình trạng không coi trọng nguyên tắc đổi mới, dập khuôn mô hình nước ngoài, chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần... diễn ra ở nhiều lĩnh vực. Tệ mê tín có chiều hướng tăng lên.

-- Nhìn chung, tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân hiện nay là : mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nhân tố quan trọng tạo nên thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước; tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên quan đến sự mất còn của Đảng, của chế độ.

-- Nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh còn giản đơn; hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa sâu sắc, có mặt còn lệch lạc; phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng.

(Trích Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX)

Tiếp theo đến khoá đảng X (vẫn thời Nông Đức Mạnh), Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02/02/2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng viết:” Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Ðảng, tự phê bình và phê bình yếu. Tình thương yêu đồng chí bị giảm sút. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả.”

Đến phiên Nguyễn Phú Trọng lên thay Nông Đức Mạnh để cầm quyền từ khóa XI, đảng lại bô bô cái mồm trong Nghị quyết Hội nghị lấn thứ tư ngày 16 tháng 01 năm 2012 :”Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”

Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:

-Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...

-Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.

-Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.”

Tưởng đâu bấy nhiêu là qúa đủ rồi, ai ngờ đến khoá đảng XII, ông Nguyễn Phú Trọng lại ban hành Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Nghị quyết này nhìn nhận thất bại:”Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.”

Nghị quyết viết tiếp:” Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.”

Cuối cùng đảng cảnh giác cao độ :”Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.”

BỎ CỘNG SẢN ĐI KIẾM TIỀN

Nhưng ông Trọng và Ban Chấp hành Trung ương khoá XII không dừng ở đây mà đi vào sâu hơn để nhìn nhận nguy cơ đang đưa đảng đền miệng quan tài.

Nghị quyết 4/XII nêu ra những “Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị” của đảng viên là:

1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.

3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.

5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.

7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.

9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.

Từ 9 chứng bệnh này, đảng viên đã tự phát để "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ với những biểu hiện:

1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".

2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

Tưởng chỉ có bấy nhiêu cũng đủ giúp đảng “chết ngay đơ” trước mắt dân, nào ngờ đảng viên còn bị ông Trọng phanh thây xé thịt cho bàn dân thiên hạ thấy hết những chứng hư, tật xấu như chưa bao giờ được thấy.

Đó là :

1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.

Với 27 biểu hiện đảng đang xuống dốc không phanh như thế mà ông Trọng vẫn tiếp tục hô hào “xây dựng đảng”, sau 24 năm chưa giải quyết được 4 nguy cơ.

Nhưng khi những nguy cơ này không những vẫn tồn tại mà còn sinh sôi nẩy nở như ong vỡ tổ thì ông lại báo cho dân biết:”Tình hình vi phạm kỷ luật của cán bộ, đảng viên còn diễn biến phức tạp, đáng báo động…. hiện tượng chạy chức, chạy quyền còn diễn biến tinh vi, phức tạp.”

Để sau đó, ông nói với Hội nghị toàn quốc Ngành tổ chức xây dựng Đảng năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018, ngày 19/01/2018 tại Hà Nội:”Chúng ta phải có dũng khí, dám thẳng thắn bảo vệ cái đúng, kiên quyết can ngăn những việc làm sai, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và cũng không để bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng. Kiên quyết chống tham nhũng trong công tác cán bộ.”

Vậy đã có ai, hay viện nghiên cứu chính trị nào đánh gía việc làm của ông Trọng sau 7 năm cầm quyền chưa ?

Tất nhiên chưa có vì Việt Nam không phải là nước có nền dân chủ pháp trị nên tiếng nói dân chủ không thể tồn tại trong chế độ Cộng sản độc tài.

Vì vậy, nhận xét của Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai trưởng của nguyên Tổng bí thư đảng Lê Duẩn, được trích lại dưới đây, thiết tưởng cũng đáng cho mọi người suy nghĩ.

Hỏi:”5 năm trước, TBT (ám chỉ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) nói rằng đang có sự sâu mọt, thoái hóa, làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng. Ngày hôm nay, khi theo dõi một cuộc chiến rất quyết liệt mà TBT là người khởi xướng và lãnh đạo để chống lại tham ô, tham nhũng và sự tha hóa trong Đảng, ông nghĩ gì về sự tồn vong của Đảng thời điểm này?

TS LKT:”Thực ra trong lịch sử của mình, Đảng đã rất nhiều lần đứng trước sự tồn vong, có những lần, nguy cơ bị xóa Đảng đã hiển hiện khi hầu như toàn bộ Ủy viên TƯ bị bắt đi tù. Nhưng những lần đó là do yếu tố bên ngoài, còn đây là lần đầu tiên chúng ta đối diện với nguy cơ đe dọa sự tồn vong mà nguy cơ ấy do chính chúng ta tạo ra. Và nó nguy hiểm hơn nhiều.

Tôi cứ nghĩ đến Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu mà lo sợ. Vì chính họ chứ không phải các thế lực bên ngoài đã làm cho họ bị suy yếu rồi diệt vong. Đó là bài học đau đớn nhất, bài học mà nếu ai còn yêu Đảng thì phải suy nghĩ để chúng ta không bao giờ đi theo vết xe đổ ấy.”

Hỏi:” Dù sao thì trong thời gian vừa rồi, tôi nghĩ mọi tầng lớp trong xã hội đều hồ hởi, phấn chấn khi nhiều người có vị trí cao trong xã hội bị xử lý cả về mặt chức vụ và pháp luật. Liệu chúng ta có đang vội vàng nếu đã cảm thấy hồ hởi và hi vọng vào những tín hiệu vừa qua?”

TS LKT:”Tôi chỉ cảm thấy bớt lo đi chứ chưa thấy hồ hởi. Bởi vì nếu hiện tượng này không bị chặn lại thì tôi hoàn toàn không hiểu xã hội sẽ đi đến đâu, khi mà dường như mọi thứ xung quanh mà tôi chứng kiến đều đang tồi tệ hơn bao giờ hết và làm cho cả Đảng lẫn dân tộc đều suy yếu.

Bên ngoài có một thế lực ngay gần ta đang trỗi dậy với biết bao toan tính không có lợi cho nước ta (ám chỉ Trung Quốc), thế mà trong lòng chúng ta dường như đang phân hóa, đang xuống cấp.

Tôi lo lắng vì cái mà chúng ta luôn dùng để thắng kẻ thù bên ngoài như Nguyễn Trãi nói: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, thì trong lòng dân tộc ta bây giờ, cả đại nghĩa và chí nhân đều bị phân hóa ra.

Cứ nhìn cả hệ thống này, ta sẽ thấy là cái đại nghĩa của dân tộc không còn như vậy nữa, cái chí nhân của người Việt cũng không còn như vậy nữa. Nên khi những người đứng đầu nhìn thấy được sự việc và đứng lên để ngăn chặn những điều không có lợi cho dân tộc thì tôi thấy nỗi lo bớt đi.

Nhưng việc ngăn chặn đó để làm ra được cái mới tốt hơn thì lại chưa có. Nên tôi chưa dám hồ hởi.”

(Theo Tô Lan Hương, báo Công an Nhân dân, mục An Ninh Cuối Tháng, ngày 29/01/2018)

Thái độ dè dặt của ông Lê Kiên Thành đối với việc làm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chẳng phải không có lý do, vì 4 tồn tại nêu ra từ 1994 thời Đỗ Mười khoá VII, vẫn vững như bàn thạch dưới thời Nguyễn Phú Trọng khóa XII.

Như vậy thì liệu đến bao giờ ông Lê Kiên Thành mới được “hồ hởi” để thỏa chí “một tấm lòng yêu Đảng” như lời ông nói, hay Đảng này sẽ chết ngay đơ trước mắt ông ? -/-

Phạm Trần

(01/018)

 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Thời điểm chúc bình an là hợp lý chăng?
Nguyễn Trọng Đa
09:48 31/01/2018
Giải đáp phụng vụ: Thời điểm chúc bình an là hợp lý chăng?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Theo con, việc chúc bình an được đặt ở phần không hề hợp lý của cử hành Thánh Lễ. Con nghĩ là nên đặt lời chúc bình an vào phần đầu lễ, trước phụng vụ Thánh Thể, mới hợp lý. - G. W., Bahamas.

Đáp: Có thể là hơi thái quá khi nói rằng việc chúc bình an được đặt trong phần không hợp lý nhất ủa việc cử hành Thánh Thể, đặc biệt khi nó được đặt ở vị trí hiện tại trong Thánh lễ kể từ Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả (590-604).

Có lẽ các khó khăn của bạn đọc này phát sinh từ sự việc rằng nghi thức chúc bình an đôi khi được thực hiện một cách thức nhầm lẫn, vốn không phải là ý định của Hội Thánh, và không phải là cách thức mà nghi thức đã phát triển trong lịch sử.

Nghi thức chúc bình an hoặc dấu chỉ bình an là một phần của tập tục của Hội Thánh ngay từ thuở đầu, có lẽ được cảm hứng bởi lời mời gọi của Thánh Phaolô cho tín hữu Côrintô: "Anh em hãy chào nhau bằng nụ hôn thánh thiện" (I Cr 16:20).

Nghi thức đã được đề cập trong các nguồn cổ xưa như các "Tông Hiến" và các bài giảng của Thánh Âutinh.

Ban đầu, nghi thức chúc bình an được xem là một sự chuẩn bị quan trọng, và thậm chí bắt buộc nữa, cho những ai sắp Rước Lễ, nhưng sau đó được mở rộng cho tất cả mọi người. Sau năm 1000, việc chúc bình an dần dần trở thành một nghi thức chính thức hơn nhiều, và sau đó là chỉ dành cho hàng giáo sĩ mà thôi, ngoại trừ một số dịp đặc biệt.

Như vậy, dấu chúc bình an, như được miêu tả trong sách lễ hiện nay, đã khôi phục lại nghi thức theo hình thức mà nó đã có trong thời trung cổ, và theo đó tất cả mọi người chúc bình an cho người bên cạnh. Vào thời điểm đó, cử chỉ chúc bình an là dấu hiệu của sự tôn trọng hơn là tình cảm thương mến. Do đó, cử chỉ được thông qua ngày nay nên là những gì mà tập tục địa phương xem như là cử chỉ tôn trọng.

Chúng ta cũng nên xem xét bản chất của việc chúc bình an mà chúng ta đang trao cho nhau. Nghi thức được diễn ra sau lời mời: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”. Đây vừa là một tín hiệu của nghi thức chúc bình an, vừa là dấu hiệu cho thấy rằng sự bình an, mà chúng ta trao cho nhau, không chỉ là một cảm giác nhân từ đối với người bên cạnh, mà còn là sự bình an đến với chúng ta qua Chúa Kitô, và sự hiệp nhất và hòa hợp vốn bắt nguồn từ việc chia sẻ Bí Tích Thánh Thể.

Sau Thượng Hội Đồng năm 2005, đã có một số thảo luận và tham vấn rộng rãi về khả năng thay đổi thời điểm chúc bình an. Kết quả là phần lớn các chuyên gia đề nghị duy trì vị trí truyền thống của chúc bình an trước Rước lễ.

Cuối cùng, vào ngày 8-6-2014, Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích đã công bố thư luân lưu "Pacem relinquo vobis" (Thầy để lại bình anh cho anh em), về "Việc diễn tả chúc bình an trong Thánh lễ" (Prot. N. 414/14) với kết luận của việc nghiên cứu:

"1. "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Khi các môn đệ tụ tập trong nhà Tiệc ly, đó là các lời mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trước khi đi chịu khổ nạn, để cấy vào họ sự chắc chắn vui mừng về sự hiện diện vững chắc của Ngài với họ. Sau khi phục sinh, Chúa làm trọn lời hứa của Ngài bằng cách hiện ra giữa họ trong nơi họ tụ họp vì sợ người Do Thái, và nói rằng: "Bình an cho anh em!". Sự bình an của Chúa Kitô là hoa quả của sự cứu chuộc, mà Ngài đã đem vào thế gian bởi cái chết và sự phục sinh của Ngài - món quà mà Chúa Phục Sinh tiếp tục ban hiện nay cho Hội Thánh của Ngài, khi Hội Thánh tập hợp để cử hành Bí Tích Thánh Thể, để làm chứng tá cho việc này trong cuộc sống hàng ngày.

"2. Trong truyền thống phụng vụ Rôma, việc chúc bình an cho nhau được đặt trước phần Rước lễ với ý nghĩa thần học đặc biệt của nó. Điểm tham chiếu của nó được tìm thấy trong việc chiêm ngắm Thánh Thể của mầu nhiệm Vượt Qua như là "nụ hôn Phục sinh" của Đức Kitô Phục Sinh hiện diện trên bàn thờ, như là trái ngược với những gì được thực hiện bởi các truyền thống phụng vụ khác, vốn được cảm hứng từ đoạn Tin Mừng của Thánh Matthêu (xem Mt 5:23). Các nghi thức chuẩn bị cho việc Rước lễ tạo ra một sự thống nhất được thể hiện rõ ràng, mà trong đó mỗi yếu tố nghi thức có ý nghĩa riêng biệt, và đóng góp vào chuỗi nghi thức tổng thể của sự tham gia bí tích trong mầu nhiệm đang được cử hành. Vì vậy, nghi thức chúc bình an được đặt giữa Kinh Lạy Cha, vốn chuẩn bị cho lời chúc bình an, và việc bẻ bánh, và trong quá trình này Chiên Thiên Chúa được khẩn cầu để ban bình an cho chúng ta. Với cử chỉ này, "mà chức năng của nó là biểu hiện sự bình an, hiệp thông và bác ái", Giáo Hội ‘xin bình an và hiệp nhất cho chính mình và cho toàn thể gia đình nhân loại, và các tín hữu biểu lộ cho nhau sự hiệp thông trong Hội Thánh và tình bác ái lẫn nhau, trước khi Hiệp lễ’, tức trước khi Rước Thân Mình Chúa Kitô.

"3. Trong Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis (Bí tích tình yêu) sau đó, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ủy thác cho Bộ này thẩm quyền xem xét các vấn đề về việc chúc bình an, để bảo vệ ý nghĩa thánh thiêng của việc cử hành Thánh Thể, và ý nghĩa của mầu nhiệm tại thời điểm Rước lễ: "49. Tự bản chất Bí tích Thánh Thể là Bí tích của sự bình an. Trong Thánh lễ chiều kích này của mầu nhiệm Thánh Thể tìm được cách diễn tả đặc thù trong việc chúc binh an. Chắc chắn cử chỉ này có một giá trị cao đẹp (x. Ga 14, 27). Trong thời đại chúng ta, bị đè nặng bởi những sợ hãi và xung đột, thì cử chỉ này nói lên rất nhiều ý nghĩa, nhất là khi Giáo Hội càng ngày càng ý thức hơn về trách nhiệm phải cầu nguyện không ngừng cho ơn hoà bình và hiệp nhất cho chính mình cũng như cho toàn thể gia đình nhân loại. […] Như thế, chúng ta có thể hiểu được cảm xúc thường cảm nhận được khi chúc bình an trong cử hành phụng vụ. Dẫu vậy, trong khi họp Thượng Hội Đồng Giám Mục, những bàn luận cũng được đưa ra để có một sự giới hạn thích đáng đối với cử chỉ này, nghĩa là nó có thể đi đến hơi quá và gây ra chia trí tong cộng đoàn ngay trước khi rước lễ. Cần ghi nhớ rằng ý nghĩa của nó không hề giảm đi khi việc chúc bình an được thực hiện một cách vừa phải, duy trì trong bầu khí thích hợp của buổi cử hành, chẳng hạn chỉ làm với những người ở gần nhất” (Bản dịch Việt ngữ của Ủy Ban Giáo lý Đức Tin trực thuộc HĐGMVN).

"4. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, thay vì làm sáng tỏ ý nghĩa thực sự của nghi thức và việc chúc bình an, đã nhấn mạnh tầm quan trọng to lớn của nó như là một sự đóng góp của các Kitô hữu, với lời cầu nguyện và chứng tá của họ để làm dịu lại các lo lắng sâu sắc và khuấy động nhất của nhân loại hiện tại. Trong ánh sáng của tất cả những điều này, ngài đã nhắc lại lời kêu gọi rằng nghi thức này phải được duy trì, và cử chỉ phụng vụ này phải được thực hiện với sự nhạy cảm và sự tỉnh thức tôn giáo.

"5. Thánh Bộ, theo yêu cầu của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, đã tiếp xúc với các Hội Đồng Giám mục vào tháng 5-2008, để tìm kiếm ý kiến của họ về việc có nên duy trì việc chúc bình an trước khi Rước Lễ chăng, nơi mà nó hiện nay được tìm thấy, hoặc liệu có nên di chuyển nó sang một nơi khác chăng, nhằm nâng cao sự hiểu biết và thực hiện cử chỉ này. Sau khi suy tư thêm, người ta thấy rằng nên duy trì việc chúc bình an tại nơi truyền thống của nó trong phụng vụ Rôma, và không đưa ra các thay đổi cấu trúc trong Sách Lễ Rôma. Một số hướng dẫn thực tiễn được trình bày dưới đây để giải thích tốt hơn nội dung của việc chúc bình an, và để kiểm soát các biểu hiện quá mức, vốn làm nảy sinh tình trạng hỗn loạn trong cộng đoàn phụng vụ trước Rước lễ.

"6. Việc xem xét chủ đề này là rất quan trọng. Nếu các tín hữu không hiểu và không bày tỏ, qua cử chỉ của mình, ý nghĩa thực sự của việc chúc bình an, quan niệm Kitô giáo về bình an của họ sẽ trở nên nghèo nàn, và việc tham dự thánh lễ thiếu tính hiệu quả. Do đó, cùng với các suy tư trước đây vốn có thể tạo thành nền tảng cho một huấn giáo thích hợp, bằng cách cung cấp một số hướng dẫn, một số gợi ý thực tế được đề nghị cho các Hội Đồng Giám mục để họ có các sự cân nhắc thận trọng:

"a) Cần phải làm rõ ràng một lần và cho tất cả mọi lần rằng nghi thức chúc bình an đã có ý nghĩa sâu xa của nó về cầu nguyện và trao ban bình an trong bối cảnh Thánh Lễ. Sự chúc bình an cho nhau, được thực hiện một cách hợp lý giữa các người tham dự Thánh Lễ, làm phong phú thêm ý nghĩa của nghi thức và trao cho nó sự diễn tả đầy đủ hơn. Vì vậy, thật là hoàn toàn chính xác khi nói rằng điều này không liên quan đến việc mời gọi tín hữu trao chúc bình an “một cách máy móc”. Nếu người ta dự đoán rằng nó sẽ không diễn ra đúng đắn do hoàn cảnh cụ thể, hoặc nếu người ta thấy là không khôn ngoan về sư phạm để thực hiện nó trong các dịp nhất định, nghi thức có thể được bỏ qua, và đôi khi nên được bỏ qua. Cần nhớ rằng chữ đỏ trong Sách lễ nói: ‘Sau đó, nếu thích hợp, phó tế hoặc linh mục, nói thêm: "Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau"’ (nhấn mạnh thêm).

"b) Trên cơ sở các nhận xét này, có thể thấy rằng, nhân dịp xuất bản bản dịch lần thứ ba của Sách Lễ Rôma ở nước mình, hoặc khi các phiên bản mới của cùng một Sách Lễ được xuất bản trong tương lai, các Hội Đồng Giám mục nên xem xét liệu có thể là không phù hợp chăng để thay đổi cách thức chúc bình an, vốn đã được thiết lập trước đó. Thí dụ, sau các năm thử nghiệm này, ở những nơi mà các cử chỉ đời thường quen thuộc của lời chào chúc đã được chọn trước đó, chúng có thể được thay thế bằng các cử chỉ thích hợp khác.

"c) Trong bất kỳ trường hợp nào, khi chúc bình an, cần phải tránh các lạm dụng, chẳng hạn:

- đưa thêm một 'bài hát hòa bình', vốn không hiện hữu trong Nghi lễ Rôma.

- sự di chuyển nơi đang đứng để chúc bình an cho nhau.

- linh mục rời bàn thờ để chúc bình an cho một số tín hữu.

- trong một số hoàn cảnh, chẳng hạn như Lễ trọng Phục Sinh hoặc Lễ Giáng Sinh, hoặc trong các nghi thức như lễ Rửa tội, Rước lễ vỡ lòng, lãnh phép Thêm sức, lễ Cưới, lễ Truyền chức, Khấn Dòng, và lễ an táng, việc chúc bình an là cơ hội diễn tả lời chúc mừng, lời chúc tốt đẹp nhất hoặc lời chia buồn giữa các người hiện diện.

"7. Mối quan hệ thân thiết giữa lex orandi (luật cầu nguyện) và lex credendi (luật đức tin) phải được mở rộng đến lex vivendi (luật đời sống) nữa. Ngày nay, một luật buộc đối với người Công Giáo, trong việc xây dựng một thế giới công bình và hoà bình, được đi kèm với sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa Kitô giáo của hòa bình, và điều này phụ thuộc phần lớn vào tính nghiêm túc, mà các Giáo Hội địa phương của chúng ta chào đón và khẩn cầu hồng ân hòa bình,và diễn tả nó trong cử hành phụng vụ. Cần phải nhấn mạnh và khuyến khích các bước đi có ích trong vấn đề này, bởi vì chất lượng tham dự Thánh Thể của chúng ta phụ thuộc vào nó, cũng như sự hiệu quả của việc chúng ta tham dự với các người là đại sứ và người xây dựng hoà bình, như đã được diễn tả trong Bát Phúc.

"8. Tóm lại, các Giám mục và dưới sự hướng dẫn của họ, các linh mục được yêu cầu phải xem xét kỹ lưỡng các nhận xét này, và làm sâu sắc hơn ý nghĩa thiêng liêng của nghi thức chúc bình an trong việc cử hành Thánh Lễ, trong việc huấn luyện thiêng liêng và phụng vụ, và trong việc dạy giáo lý thích hợp cho tín hữu. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là hòa bình của Thiên Chúa, được các ngôn sứ và các thiên thần loan báo, và Ngài đã đưa hòa bình đến cho thế giới bằng mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Sự bình an này của Chúa Phục Sinh được khẩn cầu, thuyết giảng và truyền bá trong việc cử hành Thánh lễ, thậm chí bằng một cử chỉ của con người được nâng lên vào lĩnh vực thánh thiêng" (Zenit.org 30-1-2018)

Nguyễn Trọng Đa
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Rạng Đông
Lê Trị
09:16 31/01/2018
RẠNG ĐÔNG
Ảnh của Lê Trị
Rạng đông bừng sáng chân trời
Con đường phía trước rạng ngời lối đi
Vững tâm…
Bền chí…
Kiên trì…
Bước chân thận trọng việc gì cũng nên…
(Trích thơ của Nguyễn Chín)
 
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội Và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Năm 31/1/2018
VietCatholic Network
20:11 31/01/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Tiếp Kiến Chung với Đức Thánh Cha, thứ Tư ngày 31 tháng 1.

2- Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tại Đền thờ Đức Bà Cả.

3- Đức Thánh Cha khai mạc năm tư pháp của tòa Rota.

4- Đức Thánh Cha viếng thăm nhà thờ Công Giáo Đông phương Ukraine ở Rôma.

5- Tòa Thánh công bố Tông Hiến Veritatis Gaudium của Đức Thánh Cha Phanxicô.

6- Tòa Thánh thành lập phân khoa “Vui mừng và hy vọng” để nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưỏng Kitô giáo và tư duy thế tục.

7- Đan sĩ bị Hồi Giáo quá khích chặt đầu được phong chân phước

8- Giáo phận Palm Beach báo cáo về Tòa Thánh trường hợp khỏi bệnh lạ lùng của một Linh mục.

9- Công Giáo Hầm Trú Trung Hoa có vẻ lo ngại về các cuộc thương thảo giữa Tòa Thánh và chính quyền nước này.

10- Giới thiệu Thánh Ca: Cùng Mẹ Con Lên Đường.

Xin mời qúi vị theo dõi phần tin chi tiết
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 1/2/2018: Hãy cảnh giác Tin Giả có thể giết chết Tin Mừng trong lòng người
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:38 31/01/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Đức Thánh Cha nói: Nhiệm vụ của Bộ Giáo Lý Đức Tin là có một “khuôn mặt nổi bật về mục vụ”

Hôm thứ Sáu 26 tháng Giêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ với những tham dự viên phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo lý Đức Tin. Ngài cảm ơn các thành viên của Bộ vì sự “phục vụ tinh tế” của họ đối với Giáo Hội, và ghi nhận “mối quan hệ đặc biệt” giữa Bộ này và “người kế nhiệm Thánh Phêrô, là người được kêu gọi để củng cố anh em trong đức tin, và tăng cường sự hiệp nhất của Giáo Hội.”

Bảo vệ Đức tin và các Bí tích

Đức Thánh Cha cũng cám ơn họ vì những dấn thân trong việc hỗ trợ huấn quyền của các Giám mục “trong việc bảo vệ đức tin và tính thánh thiêng của các Bí tích” trước những vấn đề hiện nay đang đòi hỏi phải có sự phân định mục vụ sâu sắc. Đặc biệt, Đức Thánh Cha đề cập đến công việc khảo sát những trường hợp liên quan đến “graviora delicta” (tức là các tội ác nghiêm trọng, như lạm dụng tình dục hoặc lạm dụng nghiêm trọng các Bí tích) và các câu hỏi liên quan đến việc tiêu hôn “vì lợi ích đức tin” (thường gọi là “đặc ân thánh Phêrô”).

Theo nghĩa này, Đức Giáo Hoàng nói, công việc của Thánh Bộ khi “nhắc nhớ ơn gọi siêu việt của con người” và mối quan hệ giữa lý trí con người với những giá trị của chân lý và sự thiện, được nhận ra qua đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô, “xem ra có tính chất quyết định.” Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng “Không có gì có thể giúp con người nhận ra chính mình và kế hoạch dành cho thế giới của Thiên Chúa cho bằng việc tự mở chính mình ra đối với ánh sáng đến từ Thiên Chúa.”

Công việc của Bộ

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với công việc của Bộ Giáo Lý Đức Tin đã thực hiện trong Phiên Họp toàn thể hai năm, bao gồm: việc nghiên cứu ơn cứu độ Kitô giáo trong mối tương quan với các xu hướng hiện đại, “thuyết tân Pelagiô”[1], và “thuyết tân Ngộ Đạo” [2]; phản ánh tầm quan trọng của một nhân học phù hợp trong lĩnh vực kinh tế và tài chính; và giải quyết “những câu hỏi tế nhị liên quan đến việc tháp tùng những bệnh nhân mắc bệnh nan y”.

Liên quan đến điều sau, Đức Thánh Cha đã ghi nhận sự gia tăng những yêu cầu trợ tử ở nhiều quốc gia “như một khẳng định có tính chất ý thức hệ về ý chí con người muốn nắm quyền sinh tử trong tay mình.” Điều này xảy ra ở bất cứ nơi nào người ta “không coi trọng phẩm giá của cuộc sống, nhưng chỉ coi trọng tính hiệu quả và năng suất của nó”. Đáp lại, Đức Giáo Hoàng nói, “Cần phải nhắc lại rằng cuộc sống con người, từ lúc thụ thai đến kết thúc tự nhiên, có một phẩm giá bất khả nhượng”

Ngài nhận xét rằng, con người đương đại thường gặp khó khăn khi suy tư về thực tại đau khổ, về sự sống và cái chết, với một “cái nhìn hy vọng”. Một trong những sứ vụ mà Bộ Giáo Lý Đức Tin có thể mang lại cho những người nam nữ ngày nay là cung cấp cho họ một niềm “hy vọng đáng tin” có thể giúp họ “sống tốt, và duy trì một viễn ảnh tự tin hướng về tương lai.”

Một khuôn mặt nổi bật về mục vụ

Đức Thánh Cha nói sứ mệnh của Bộ Giáo Lý Đức Tin là đưa ra “một khuôn mặt nổi bật về mục vụ.” Ngài nói trong phần kết luận rằng các mục tử đích thực, là những người “không bỏ mặc con người, cũng không để con người trở thành miếng mồi ngon cho sự mất phương hướng và sự sai lầm của người ấy, nhưng với sự thật và lòng thương xót, hãy giúp người ấy tái khám phá lại khuôn mặt đích thực của mình trong sự tốt lành.”

2. Bức ảnh Đức Mẹ mà Đức Thánh Cha Phanxicô tôn kính đặc biệt được phục hồi

Bức ảnh Đức Mẹ mà Đức Thánh Cha Phanxicô có lòng sùng mộ đặc biệt vừa được phục hồi. Hôm thứ Tư 24 tháng Giêng, Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã công bố hình ảnh về bức ảnh Đức Mẹ Là Phần Rỗi của dân Rôma vừa được phục chế. Bức tranh vẽ trên gỗ theo kiểu Byzantine thường được đặt bên trong Đền Thờ Đức Bà Cả. Biểu tượng này, được đặc biệt tôn kính bởi người dân Rôma, sẽ được trưng bày trước công chúng vào ngày Chúa Nhật 28 tháng Giêng khi Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành một Thánh Lễ long trọng tại đền thờ này.

Đức Phanxicô đã rời Vatican vào ngay sáng hôm sau khi ngài được bầu làm Giáo Hoàng và cầu nguyện trước bức ảnh này, trong đó vẽ Đức Maria, mặc một chiếc áo choàng màu xanh, bồng Chúa Hài Nhi Giêsu, đang cầm trên tay Ngài một quyển sách trang sức bằng vàng. Trước và sau mỗi chuyến tông du nước ngoài, Đức Thánh Cha Phanxicô đều đến nhà thờ này để cầu nguyện trước bức ảnh và để lại một bó hoa hồng.

Người đứng đầu viện bảo tàng Vatican, là bà Barbara Jatta, cho biết cuộc phục chế đã khám phá ra những sắc màu “tinh tế” trong khuôn mặt của Đức Maria và Chúa Giêsu, và sự sáng chói của áo choàng vàng của Chúa Hài Nhi và của áo choàng màu xanh của Đức Maria.

Việc phục chế cũng giúp các học giả xác định niên đại của bức ảnh. Theo truyền thống, bức ảnh được tin là được tìm thấy ở Giêrusalem vào thế kỷ thứ 5 và được chính Thánh Luca vẽ. Trong một bài viết trên tờ Quan Sát Viên Rôma của Vatican hôm thứ Năm 25 tháng Giêng, bà Jatta nói rằng niên đại thật sự có thể là trong khoảng từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 13.

Ngoài việc làm sạch hình ảnh và sửa chữa các vấn đề có trong các lần phục hồi trước đó, các nhà phục chế đã thực hiện một khung mới nhẹ nhàng hơn và có tay cầm để bức ảnh có thể được vận chuyển dễ dàng và an toàn hơn cho các cử hành khác nhau ở các đền thờ ở Rôma nơi bức ảnh được mang đến trưng bày.

Đức Giáo Hoàng đầu tiên của Mỹ châu Latinh có lòng sùng kính Đức Mẹ cách riêng, và với tư cách là một giám mục và một Hồng Y, ngài thường đến Đền Thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước bức ảnh Đức Mẹ Là Phần Rỗi Dân Rôma mỗi khi ngài về Rôma. Một bức ảnh Đức Mẹ khác mà ngài cũng mến mộ là bức “Mary Undoer of Knots” - Đức Mẹ Tháo Gỡ Nút Thắt, mà ngài nhìn thấy đầu tiên trong một nhà thờ vùng Bavarian khi ngài theo học ở Đức vào những năm 1980.

3. Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục Venezuela bày tỏ sự ủng hộ với 2 Giám Mục bị Maduro cáo buộc tội kích động căm thù chế độ

Các giám mục Công Giáo ở Venezuela đang cất tiếng nói bảo vệ hai vị Giám Mục anh em của các ngài, bị tổng thống Nicolas Maduro cáo buộc tội kích động hận thù trong các bài giảng nhân lễ Chúa Chăn Chiên Lành, hôm 14 tháng Giêng. Đó là một trong các ngày lễ lớn ở quốc gia này .

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bày tỏ sự ủng hộ của ngài, dưới hình thức một cú điện thoại riêng đến ít nhất một trong hai giám mục.

Một ngày sau ngày lễ này, phát biểu trước Quốc hội Lập hiến Venezuela, Maduro đã yêu cầu Tòa án tối cao, Viện Kiểm sát và Văn phòng Công tố tiến hành điều tra cả Đức Tổng Giám Mục Antonio López Castillo của tổng giáo phận Barquisimeto và Đức Giám Mục Víctor Hugo Basabe của giáo phận San Felipe, vì “tội kích động thù hận chế độ.”

Trong các bài giảng của mình, được Hội Đồng Giám Mục Venezuela đăng tải rộng rãi trên Facebook của các ngài, hai vị đã yêu cầu chấm dứt nạn đói và tham nhũng, là những điều đã làm tê liệt quốc gia này trong những năm gần đây.

Trong bài giảng của ngài, Đức Cha Basabe đã liệt kê nhiều vấn đề mà giáo hội địa phương đã từng thẳng thắn phê phán. Ngài nói: “Chúng ta không thể chọn con đường của những kẻ cứ khăng khăng phủ nhận rằng ở Venezuela chẳng hề có nạn đói và suy dinh dưỡng.”

Trong bối cảnh xã hội Venezuela, ai cũng phải hiểu ý ngài rõ ràng muốn đề cập tới Maduro, vì ông và các đồng minh của mình đã khăng khăng cho rằng mức độ khủng hoảng chính trị và kinh tế của Venezuela đã được phóng đại bởi các thành phần chống chế độ cả trong lẫn ngoài nước.

Đức Cha Basabe kêu gọi tạo ra các hành lang nhân đạo để thực phẩm và thuốc men có thể đến được với những ai cần. Ngài kêu gọi những người Công Giáo “tránh đừng đi theo con đường” của những kẻ quyết liệt phủ nhận vấn đề “mặc dù họ tận mắt chứng kiến cảnh hàng ngàn người Venezuela phải tìm kiếm thức ăn trong các thùng rác.”

Ngài nói tiếp: “Có những người nhấn mạnh rằng ở Venezuela mọi thứ đều ổn cả, và chúng tôi có đủ lương thực để nuôi sống cả nhiều quốc gia khác, trong khi sự thật nhãn tiền là Venezuela đang ngày càng thiếu thốn mọi thứ và đặc biệt là thực phẩm.”

“Những người này quyết liệt không muốn hiểu rằng nguyên nhân gốc rễ của các căn bệnh tại Venezuela là sự tồn tại của một mô hình chính trị, kinh tế và xã hội phủ nhận Thiên Chúa và do đó phủ nhận luôn cả nhân phẩm”.

Bài giảng của Đức Tổng Giám Mục López Castillo cũng bao gồm các ý tưởng tương tự.

Theo Maduro, các bài giảng đã chứng minh rằng “ma quỷ đang núp dưới những áo chùng các thầy tu để kêu gọi những cuộc đối đầu bạo lực, để thúc đẩy nội chiến”. Đó là một cáo buộc mà cả hai giám mục đã nhanh chóng phủ nhận.

Đức Cha Basabe nhận xét rằng:

“Ông Maduro đã đặt vào miệng của tôi những lời tôi không bao giờ nói. Điều tồi tệ hơn là ông ta buộc cho tôi cái tội mà chính ông ta đang phạm.”

Maduro muốn các giám mục bị buộc tội theo luật kích động thù hận vừa được soạn thảo bởi Quốc hội Lập hiến do hắn đẻ ra để thay thế cho Quốc Hội bao gồm đa số là những người đối lập.

Đức Tổng Giám Mục López Castillo nói với các phóng viên là chỉ một ngày sau khi Maduro yêu cầu điều tra các giám mục, ngài đã nhận được một cú điện thoại hỗ trợ tinh thần của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vào thời điểm đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đang ở Chí Lợi.

Đức Cha Castillo nói, “Đức Giáo Hoàng ủng hộ chúng tôi, ngài ủng hộ toàn thể dân chúng Venezuela”.

Các giáo phận và các cơ quan của Giáo Hội Công Giáo tại Venezuela cũng lần lượt bày tỏ tình liên đới qua các tuyên bố bằng văn bản hoặc các buổi họp báo với giới truyền thông.

4. Các Giám Mục CELAM bày tỏ tình liên đới với 2 Giám Mục Venezuela bị Maduro cáo buộc kích động hận thù chế độ

Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh, gọi tắt là CELAM, đã gửi một thông điệp bày tò tình liên đới với 2 Giám Mục Venezuela đang bị tổng thống Maduro cáo buộc tội kích động hận thù chế độ.

Các ngài đã sử dụng đoạn Phúc Âm Thánh Matthêu như một tiêu đề: “Phúc cho anh em khi bị sỉ nhục, bách hại, vu khống vì danh Thầy.”

CELAM bày tỏ sự ủng hộ không chỉ đối với hai vị giám mục đang bị Maduro truy tố vì “tội kích động thù hận chế độ” - là Đức Tổng Giám Mục Antonio López Castillo của tổng giáo phận Barquisimeto và Đức Giám Mục Víctor Hugo Basabe của giáo phận San Felipe - mà còn với toàn thể nhân dân Venezuela, giữa “cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng” đang ảnh hưởng đến quốc gia này.

Tuyên bố của CELAM viết:

“Những hậu quả trầm trọng của nạn đói, suy dinh dưỡng, thiếu thuốc men và các nguồn cung cấp y tế, cùng với những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền, đã làm xấu đi phẩm chất cuộc sống và tạo ra một đợt di cư chưa từng có của hàng triệu người Venezuela, những người bị buộc phải di cư sang các nước khác để tìm một lối thoát và những cơ hội tốt hơn”

Các vị lãnh đạo của CELAM cũng ca ngợi các giám mục Venezuela về những “lời nói dũng cảm và chân thành” của họ, và khẳng định rằng nội dung của những lời rao giảng của các Giám Mục nước này là đúng với thực tế và nằm trong “viễn ảnh tiên tri” của Giáo hội.

Các vị lãnh đạo của CELAM viết:

“Các hiền huynh đang bị buộc tội quảng bá cho hận thù và bạo lực. Chắc chắn là những kẻ cáo buộc các hiền huynh không hiểu được tình yêu của các hiền huynh trong sứ điệp phát sinh từ Tin Mừng. Tuy nhiên, chúng tôi xác tín rằng các hiền huynh đang hành động nhân danh Chúa và chấp nhận những rủi ro của người ngôn sứ”

5. Ý nghĩa chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại nhà thờ Công Giáo Đông phương Ukraine ở Rôma

Lúc 4h chiều Chúa Nhật 28 tháng Giêng Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm nhà thờ Thánh Sophia trên đường Boccea, phía tây bắc của Rôma. Ngoài 3,000 người Ukraine có mặt tại chỗ để đón tiếp ngài, hàng triệu người Ukraine theo dõi chuyến viếng thăm lịch sử này qua các phương tiện truyền thông.

Mặc dù đây không phải là một giáo xứ Công Giáo thuộc về giáo phận Rome, cuộc viếng thăm này cũng có thể xem là chuyến viếng thăm một “giáo xứ” đầu tiên của vị Giám Mục Rôma kể từ đầu năm mới.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viếng thăm nhà thờ này vào năm 1984, để viếng mộ Đức Hồng Y Josyp Slipyi, là Thượng Phụ Công Giáo Đông phương Ukraine bị bách hại dưới chế độ Xô Viết. Ngài chịu giam cầm trong 18 năm trước khi được trả tự do vào tháng Giêng năm 1963 sau những áp lực ngoại giao từ Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy. Cũng trong năm 1963, ngài đến Rôma tham gia Công Đồng Chung Vatican II và sau đó qua đời tại đây ngày 7 tháng 9 năm 1984.

Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục cũng đã từng đến đây vào năm 1969, để thánh hiến nhà thờ này theo đề nghị của Đức Hồng Y Slipyi.

Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk của tổng giáo phận Kiev-Halyc, nói rằng ngài rất biết ơn vì sự chú ý của Tòa Thánh đối với Ukraine.

Từ bốn qua, Ukraine đã bị Nga xâm lược trực tiếp và gián tiếp thông qua các phiến quân thân Nga. Theo các cơ quan Liên hợp quốc, ngày nay ở Ukraine có 2 triệu người phải di dời bên trong nội địa. Cuộc khủng hoảng tại Ukraine vẫn đang tiếp tục và có khuynh hướng leo thang dần. Những số liệu thống kê cho thấy đây là cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng nhất ở châu Âu sau Thế chiến II. Mặc dù vậy, đó là một “cuộc chiến tranh bị lãng quên”, như Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã nói trong chuyến thăm Nga hồi tháng Tám vừa qua.

Trong cuộc tiếp xúc với các nhà báo ở Vatican, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk đã được hỏi liệu một chuyến tông du của Đức Thánh Cha tới Ukraine có khả thi hay không. Ngài trả lời: “Chúng tôi đã đưa ra lời mời. Đức Giáo Hoàng đã được cả hai vị giám mục Công Giáo Latinh và Đông phương, và cả Tổng thống và chính phủ mời đến Ukraine”

6. Các Giám Mục Ý lên tiếng mạnh mẽ bảo vệ những người nhập cư

Trong khi các giám mục ở Hoa Kỳ tiếp tục lên tiếng ủng hộ những người nhập cư trong một môi trường chính trị rất bất lợi, các Giám Mục Ý cũng mạnh mẽ lên tiếng như thế trong cuộc bầu cử tổng thống ở nước này vào ngày 4 tháng 3 tới đây.

Trong một bài phát biểu trước các giám mục Italia, Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, đã chỉ trích những gì ngài mô tả là một sự hồi sinh đáng báo động của thứ ngôn ngữ phân biệt chủng tộc trong các cuộc thảo luận chính trị ở Ý, và đưa ra một bản đồ nhận thức về các vấn đề để người dân suy tư khi họ đến các phòng bỏ phiếu.

Những điều này bao gồm sự chào đón và hội nhập những người nhập cư, sự nuôi dưỡng cuộc sống gia đình và các giá trị và một lập trường mạnh mẽ bảo vệ cuộc sống.

Tại Hoa Kỳ, các giám mục Công Giáo đã từng là những người bảo vệ thẳng thắn cho cả chương trình Khuyết Tật Cho Trẻ Sơ Sinh (DACA) và Tạm Thời Tạm Ngưng Trục Xuất (TPS), cũng như lên án mạnh mẽ các trường hợp phân biệt chủng tộc và bài ngoại.

5. Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn y việc bổ nhiệm thống đốc Brownback là đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế

Thượng viện Hoa Kỳ đã xác nhận thống đốc Kansas Sam Brownback, một người Công Giáo, làm tân đại sứ lưu động về quyền tự do tôn giáo quốc tế tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Được Tổng thống Donald Trump đề cử vào tháng Bảy vừa qua, ông Brownback được Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn y vào ngày 24 tháng Giêng với tỷ lệ nghiêng ngửa 49-49. Tuy nhiên, Phó Tổng thống Mike Pence đã bỏ phiếu cho ông; và tỷ lệ cuối cùng là 50-49 . Ông Brownback tuyên bố sẽ từ chức thống đốc vào ngày 31 tháng Giêng.

“Thật vinh dự khi được phục vụ Kansans trong vai trò thống đốc của họ từ năm 2011 và trước đó là thượng nghị sĩ và dân biểu”, Ông Brownback đã viết như trên trong bức thư gửi cho Bộ trưởng Thương mại Kansas là ông Kris W. Kobach. “Là một người Kansas và mãi mãi là người Kansas, tôi đã được đặc quyền phục vụ và đại diện cho các công dân của tôi trong suốt cuộc đời trưởng thành của tôi.”

Thomas Farr, chủ tịch của Viện Tự do Tôn giáo ở Washington, hoan nghênh sự chuẩn y của Thượng viện đối với chức vụ này.

Ông Farr cho biết: “Kinh nghiệm sâu sắc của Đại sứ Brownback và cam kết của ông đối với tự do tôn giáo cho tất cả mọi người sẽ giúp đảm bảo sự lãnh đạo của Mỹ trong công cuộc giảm bớt sự đàn áp tôn giáo toàn cầu. Chúng tôi tin rằng ông sẽ làm cho chính sách tự do tôn giáo của Hoa Kỳ trở thành một phần trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ.”

Ông Farr cho biết thêm: “Mức độ bách hại tôn giáo toàn cầu đang tăng lên vì sự thúc đẩy của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo bạo lực, chính sách áp bức của các chính phủ, và chủ nghĩa thế tục chống lại niềm tin tôn giáo. Kết quả là hàng triệu người đang phải gánh chịu những vụ cướp bóc khủng khiếp. Các quốc gia và nền kinh tế đang bị bất ổn bởi sự vắng mặt của tự do tôn giáo. “

Ông Brownback, 62 tuổi, được bầu làm thống đốc thứ 46 của Kansas vào tháng 11 năm 2010 và lên nắm quyền vào tháng Giêng năm 2011. Ông đã giành lại chức vụ vào tháng 11 năm 2016. Trước đó, ông từng phục vụ trong Thượng viện Hoa Kỳ sau khi thắng trong một cuộc bầu cử đặc biệt vào năm 1996 để thay thế cho ông Bob Dole, là ứng cử viên tổng thống của đảng vào năm đó.

7. Các khoa học gia Hoa Kỳ nói thế giới đang gần đến “ngày tận thế” hơn bao giờ

Hôm thứ Năm 25 tháng Giêng, các nhà khoa học nguyên tử của Hoa Kỳ đã mở cuộc họp báo công bố rằng những lo ngại về khả năng xảy ra các cuộc chiến tranh hạt nhân và các mối đe dọa toàn cầu khác đã khiến họ vặn Doomsday Clock (đồng hồ báo ngày tận thế) lên 30 giây; và như vậy là chỉ còn hai phút nữa là đến nửa đêm; tức là đến “ngày tận thế”.

Các nhà khoa học nguyên tử Mỹ cho biết họ đã hành động như vậy vì thế giới đang trở nên “nguy hiểm hơn”.

Đồng hồ Doomsday Clock, được tạo ra bởi Bulletin of the Atomic Scientists - tạp chí của các nhà Khoa học Nguyên Tử - gọi tắt là BAS, vào năm 1947, là một ẩn dụ cho thấy sự gần gũi của con người đối với việc tiêu hủy trái đất.

Cứ năm nào tình hình thế giới nguy hiểm thì họ vặn đồng hồ lên cho gần tới 12 giờ. Năm nào tình hình thế giới thanh bình hơn thì họ vặn xuống.

Kim đồng hồ gần 12 giờ dêm nhất vào năm 1953, khi Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết tiến hành các cuộc thử nghiệm bom hydro.

Năm ngoái, đồng hồ cũng được vặn lên 30 giây.

Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của BAS, Rachel Bronson nói rằng “trong các cuộc thảo luận năm nay, các vấn đề hạt nhân đã trở lại vị trí trung tâm”.

Các nhà khoa học đã chỉ ra một loạt các vụ thử vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Họ lo ngại rằng những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ và quốc gia cộng sản này.

BAS cũng đề cập tới một chiến lược hạt nhân mới của Mỹ, trong đó dự kiến sẽ kêu gọi thêm nhiều nguồn tài trợ để mở rộng vai trò của kho vũ khí hạt nhân của nước này.

Sự căng thẳng gia tăng giữa Nga và phương Tây cũng là một yếu tố.

8. Đức Thánh Cha gửi lời chia buồn đến các nạn nhân tai nạn trật đường ray xe lửa ở Ý

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi lời chia buồn và lời cầu nguyện của ngài đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi một tai nạn xe lửa ở Ý đã giết chết ba người vào hôm thứ Năm 25 tháng Giêng.

Trong bức điện tín, Đức Hồng Y Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã thay mặt Đức Giáo Hoàng bày tỏ nỗi buồn vì tai nạn nghiêm trọng và nói ngài chia sẽ nỗi đau của những người bị ảnh hưởng bởi sự kiện bi thảm này.

Đức Thánh Cha bảo đảm lời cầu nguyện của ngài cho những người đã chết trong thảm kịch này, và nói thêm rằng Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các hành khách bị thương trong chuyến tàu cao tốc đến Milan được sớm phục hồi.

13 người bị thương nặng trong vụ tai nạn này trong đó 5 người đang trong tình trạng nguy kịch.

Trận thảm hoạ xảy ra khi một số toa xe lửa đã bị trật đường ray vào sáng thứ Năm ở một ga bên ngoài Milan.

9. Đức Giáo Hoàng cầu nguyện cho các nạn nhân trong trận hỏa hoạn tại một bệnh viện Hàn Quốc

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một thông điệp bày tỏ sự gần gũi và lời cầu nguyện của ngài cho những người bị ảnh hưởng bởi trận hỏa hoạn tại một bệnh viện Hàn Quốc, trong đó có ít nhất 37 bệnh nhân tử vong.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ tình liên đới và nói rằng ngài đang cầu nguyện cho các nạn nhân và tất cả những người bị ảnh hưởng bởi vụ hỏa hoạn bi thảm ở một bệnh viện ở Hàn Quốc đã giết chết ít nhất 37 người và làm bị thương nhiều người khác.

Trong một bức điện tín được Đức Hồng Y Hồng Y Pietro Parolin, gởi thay mặt cho ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài rất buồn khi biết tin về những thiệt hại nhân mạng và con số đông đảo những người bị thương trong vụ hỏa hoạn tại bệnh viện Sejong, ở thành phố Miryang.

Ngài bày tỏ tình liên đới chân thành với tất cả những ai bị ảnh hưởng bởi bi kịch này và cho biết ngài đang cầu nguyện đặc biệt cho linh hồn những người quá cố và ơn chữa lành tinh thần và thể xác cho những người bị thương.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã lên tiếng ca ngợi các cơ quan dân sự và các nhân viên cấp cứu khi họ anh dũng giúp đỡ các nạn nhân của thảm họa này, và trên hết ngài cầu nguyện xin Chúa gìn giữ họ, tăng cường sức mạnh và an ủi họ.

Ngọn lửa được tin là đã bắt đầu ở phòng cấp cứu tại bệnh viện Sejong phía đông nam thành phố Miryang.

Gần 200 bệnh nhân đa số là những người lớn tuổi đang ở bên trong tòa nhà và nhà dưỡng lão bên cạnh khi ngọn lửa bùng phát vào buổi sáng ngày thứ Bẩy 27 tháng Giêng.

10. Sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế giới năm 2018 về vấn đề tin giả

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế giới năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô lên tiếng kêu gọi một nền “báo chí vì hoà bình” để đối phó với mối đe dọa của tin giả, đang “phát triển mạnh vì thiếu vắng sự đối kháng lành mạnh với các nguồn thông tin khác”.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố sứ điệp Ngày Truyền Thông Thế giới vào ngày 24 tháng Giêng, lễ thánh Phanxicô Đệ Salê, bổn mạng các nhà báo. Chủ đề của sứ điệp năm nay là:

“‘Sự thật sẽ giải thoát anh em’ (Ga 8:32). Tin giả và nền báo chí vì hoà bình”

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha chỉ ra bản chất sai trái của tin giả, làm thế nào để nhận ra tin giả, khả năng giải độc của sự thật, và một nền báo chí vì hoà bình đặt con người ở vị trí trọng tâm như thế nào.

11. Ngày Truyền Thông Thế giới

Kính thưa quý vị và anh chị em

Trong số các ngày kỷ niệm trên bình diện thế giới trong một năm, Ngày Truyền Thông Thế giới là lễ kỷ niệm duy nhất đã được chính Công đồng Vatican II đề xướng trong Sắc Lệnh về các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (Inter Mirifica) được Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục công bố ngày 4 tháng 12, 1963.

Ngày Truyền Thông Thế giới được tổ chức hàng năm vào Chúa Nhật trước Lễ Hiện Xuống, năm nay rơi vào ngày 13 tháng 5. Tuy nhiên, sứ điệp của Đức Thánh Cha thường được công bố trước, vào ngày 24 tháng Giêng, lễ thánh Phanxicô Đệ Salê, bổn mạng các nhà báo, để các hội đồng giám mục, các ủy ban có liên quan ở các giáo phận và các cơ quan truyền thông có đủ thời gian để chuẩn bị các tài liệu in ấn, nghe nhìn và các tài liệu khác cho lễ kỷ niệm này ở các quốc gia và các địa phương.

Ngày Truyền Thông Thế giới lần đầu tiên được cử hành trong toàn Giáo Hội Công Giáo vào ngày 7 tháng 5 năm 1967, dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, là vị Giáo Hoàng đã muốn thu hút sự chú ý của toàn thể Giáo Hội đến truyền thông và sức mạnh to lớn mà nó có thể đem lại cho những thay đổi sâu xa về xã hội, văn hoá và tôn giáo. Ngày Truyền Thông Thế giới năm nay là lần thứ 52.

Trong sứ điệp ngày truyền thông thế giới năm nay, Đức Thánh Cha viết:

Anh chị em thân mến,

Truyền thông là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta và là một cách thiết yếu để trải nghiệm tình bằng hữu. Được tạo ra giống hình ảnh Đấng Tạo Hóa, chúng ta có thể bày tỏ và chia sẻ tất cả những gì là chân, thiện, mỹ. Chúng ta có thể mô tả kinh nghiệm của chính mình và thế giới xung quanh chúng ta, và do đó, tạo ra ký ức lịch sử và sự hiểu biết về các sự kiện. Nhưng, khi chúng ta chiều theo thói kiêu ngạo và tính ích kỷ của mình, chúng ta cũng có thể bóp méo cách thế chúng ta sử dụng khả năng giao tiếp của chúng ta. Điều này có thể được nhìn thấy ngay từ những thời kỳ sơ khai, trong các câu chuyện Kinh thánh như câu chuyện Cain và Abel và chuyện tháp Babel (xem Sáng thế ký 4: 4-16, 11: 1-9). Khả năng bóp méo sự thật là triệu chứng nói lên tình trạng của chúng ta, trong cả hai chiều kích cá nhân và cộng đồng. Trái lại, khi chúng ta trung tín với kế hoạch của Thiên Chúa, truyền thông trở thành một biểu hiện cho thấy rõ sự tìm kiếm chân lý có trách nhiệm và ý chí theo đuổi điều thiện của chúng ta.

Ngày nay, trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng các kỹ thuật truyền thông và các hệ thống kỹ thuật số, chúng ta đang chứng kiến sự lan rộng của cái được gọi là “tin giả”. Điều này đòi hỏi một sự suy tư, và đó là lý do tại sao trong Sứ điệp Truyền thông Thế giới này, tôi đã quyết định trở lại vấn đề về chân lý, là điều đã được đề cập đến bởi các vị tiền nhiệm của tôi bắt đầu với Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, trong sứ điệp năm 1972 của ngài, với chủ đề là: “Truyền thông Xã hội phục vụ Chân Lý”. Bằng cách này, tôi muốn đóng góp vào dấn thân chung của chúng ta nhằm ngăn chặn sự lan rộng của tin giả và tái khám phá phẩm giá của báo chí và trách nhiệm cá nhân của các nhà báo trong việc truyền đạt sự thật.

1. Tính “thất thiệt” của tin giả là gì?

Thuật ngữ “tin giả” đã là đối tượng của các cuộc thảo luận và tranh luận sôi nổi. Nói chung, nó liên quan đến sự lan rộng việc thông tin sai lạc trên mạng hoặc trên các phương tiện truyền thông truyền thống. Nó liên quan đến những thông tin sai lệch dựa trên những dữ liệu không tồn tại hoặc bị bóp méo để lừa dối và thao túng độc giả. Người ta truyền bá tin giả để phục vụ cho các mục tiêu cụ thể, ảnh hưởng đến các quyết định chính trị và phục vụ cho những lợi ích về kinh tế.

Hiệu quả của tin giả phụ thuộc trước hết là vào khả năng bắt chước các tin tức thực sự, đến mức xem ra có vẻ hợp lý. Thứ nữa, cái thông tin này tuy giả nhưng trở nên đáng tin nếu nó “nắm bắt” được sự chú ý của người dân bằng cách đánh trúng các thành kiến và những định kiến xã hội, và khai thác được những cảm xúc bộc phát như lo lắng, căm hờn, tức giận và thất vọng. Khả năng truyền bá những tin giả này thường dựa vào việc lèo lái các mạng xã hội và các phương thức hoạt động của chúng. Những câu chuyện thất thiệt có thể lan truyền nhanh đến nỗi ngay cả những lời phủ nhận có thẩm quyền đi nữa cũng không thể hạn chế được những thiệt hại.

Khó khăn trong việc vạch trần và loại bỏ tin giả cũng do thực tế là nhiều người thường chỉ tương tác trong các môi trường kỹ thuật số với những người hợp ý với mình, trong các môi trường như thế, thường không có chỗ cho các quan điểm và ý kiến khác nhau. Thông tin sai lạc, do vậy, phát triển mạnh khi không có sự đối kháng lành mạnh với các nguồn thông tin khác có khả năng thách thức một cách hiệu quả các định kiến và tạo ra các cuộc đối thoại xây dựng; thay vào đó, nó có nguy cơ làm cho người ta trở thành những kẻ vô tình đồng lõa trong việc truyền bá những ý tưởng sai lệch và vô căn cứ. Bi kịch của thông tin sai lạc là nó làm mất uy tín của người khác, trình bày những người ấy như kẻ thù, tới mức mô tả họ như ma quỷ và nung nấu lòng căm thù họ. Tin giả là một dấu chỉ cho những thái độ thiếu khoan dung và quá nhạy cảm, và chỉ dẫn đến việc truyền bá sự kiêu căng và lòng thù hận. Đó là kết quả cuối cùng của sự thất thiệt.

2. Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra tin giả mạo?

Không ai trong chúng ta có thể cảm thấy được miễn trừ khỏi trách nhiệm chống lại những sự giả trá này. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, vì những thông tin sai lệch thường dựa trên những luận điệu cố ý gây hiểu nhầm một cách quanh co và xảo quyệt, và đôi khi còn sử dụng cả các cơ chế tâm lý tinh vi. Các nỗ lực đáng khen đang được thực hiện để hình thành các chương trình giáo dục nhằm giúp người dân lý giải và đánh giá thông tin được cung cấp bởi các phương tiện truyền thông và dạy họ tham gia tích cực vào việc vạch trần sự giả dối thay vì vô tình góp phần làm lan rộng những thông tin sai lệch. Cũng đáng khen ngợi đó là những sáng kiến về cơ chế và luật pháp nhằm phát triển các quy định giúp kiềm chế hiện tượng này, đó là chưa kể các công trình đang được thực hiện bởi các công ty công nghệ và truyền thông trong việc đưa ra các tiêu chí mới nhằm xác minh các đặc điểm nhận dạng cá nhân ẩn nấp sau hàng triệu hồ sơ kỹ thuật số.

Tuy nhiên, việc ngăn ngừa và xác định cách thức hoạt động của thông tin sai lệch cũng đòi hỏi một quá trình phân định sâu sắc và thận trọng. Chúng ta cần phải vạch trần cái gọi là “những chiến thuật của con rắn” được sử dụng bởi những kẻ cải trang để tấn công bất cứ lúc nào và bất cứ tại nơi nào. Đây là chiến lược được sử dụng bởi “con rắn quỷ quyệt” trong Sách Sáng thế ký, đó là đứa đã tung ra những tin giả trước nhất (Sáng thế ký 3: 1-15), khởi đầu lịch sử bi thảm của tội lỗi con người, bắt đầu với cảnh huynh đệ tương tàn đầu tiên (xem Sáng thế ký 4) và dẫn đến cơ man những sự ác khác chống lại Thiên Chúa, người lân cận, xã hội và thiên nhiên. Chiến lược của “Cha đẻ những lời dối trá” ranh mãnh này (Ga 8:44) là bắt chước chính xác cái hình thức dụ dỗ tinh quái và nguy hiểm đó để lẻn vào con tim con người với những lý lẽ vừa giả dối vừa quyến rũ.

Trong trình thuật về tội lỗi đầu tiên, tên cám dỗ tiếp cận người phụ nữ bằng cách giả vờ là bạn của cô, chỉ quan tâm đến phúc lợi của cô, và bắt đầu bằng cách nói điều gì đó chỉ có một phần là thật: “Thiên Chúa thực sự nói rằng ông bà không được ăn trái của bất kỳ cây nào trong vườn này sao?”(Sáng thế ký 3: 1). Trên thực tế, Thiên Chúa không bao giờ nói ông Adong không được ăn trái của bất kỳ cây nào, nhưng chỉ là trái từ một cái cây: “trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn” (Sáng thế ký 2:17). Người đàn bà sửa sai con rắn, nhưng lại để cho mình bị thua trước sự khiêu khích của nó: “Trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: ‘Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.’” (Sáng thế ký 3: 2). Câu trả lời của cô bao hàm những ý tưởng vụ luật và tiêu cực; sau khi lắng nghe đứa lừa dối và để bản thân mình chịu thua trước phiên bản của nó về các sự kiện, người phụ nữ bị lừa. Vì vậy, cô chú ý đến lời trấn an của nó: “Ông bà sẽ không chết đâu!” (Sáng thế ký 3: 4).

“Sự hủy diệt” của tên cám dỗ khoác lên chút sắc màu của sự thật: “Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (Sáng thế ký 3: 5). Mệnh lệnh hiền phụ của Thiên Chúa là vì lợi ích của họ, đã bị làm mất uy tín bởi sự cám dỗ hấp dẫn của kẻ thù: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt” (Sáng 3: 6). Câu truyện Kinh thánh này mang lại một yếu tố thiết yếu cho suy luận của chúng ta: chẳng hề có những thông tin sai lạc mà lại vô hại; trái lại, tin vào sự giả dối có thể có những hậu quả thảm khốc. Ngay cả một sự méo mó chút đỉnh sự thật cũng có thể có những hệ quả nguy hiểm.

Điều nguy hiểm là lòng tham của chúng ta. Tin giả thường lan truyền nhanh chóng đến nỗi khó có thể dừng lại, không phải vì cảm thức muốn được chia sẻ, là điều truyền cảm hứng cho các phương tiện truyền thông xã hội, mà bởi vì nó hấp dẫn lòng tham không đáy rất dễ bùng lên trong lòng người. Những mục tiêu kinh tế và lèo lái gây ra tin giả bắt nguồn từ lòng khao khát quyền lực, ham muốn sở hữu và lạc thú, mà chung cuộc biến chúng ta trở thành nạn nhân của một cái gì đó bi thảm hơn nữa: đó là sức mạnh lừa đảo của cái ác di chuyển từ lời nói láo này đến lời lừa dối khác nhằm cướp đi sự tự do nội tâm của chúng ta. Đó là lý do vì sao giáo dục chân lý có nghĩa là dạy cho mọi người biết cách phân định, đánh giá và hiểu rõ những ham muốn và khuynh hướng sâu xa nhất của chúng ta, để chúng ta đừng đánh mất đi nhận thức về điều thiện để rồi chiều theo mọi cám dỗ.

3. “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8:32)

Sự ô nhiễm liên tục bởi ngôn ngữ lừa dối có thể làm đen tối cuộc sống nội tâm của chúng ta. Quan sát của Dostoevsky thật là chí lý: “Những người nói dối chính mình và lắng nghe những lời nói dối của chính họ đến một lúc nào đó sẽ hết còn phân biệt nổi đâu là sự thật trong họ, hoặc xung quanh họ, và như vậy họ mất tất cả lòng tự trọng và sự tôn trọng đối với người khác. Và khi không còn được ai tôn trọng, họ không còn biết yêu, và khi không có tình yêu, để lấp đầy chính mình và quên đi, họ lao vào những đam mê và những lạc thú tầm thường và chìm sâu trong thú tính giữa những thấp hèn của họ, tất cả đều do liên tục dối trá với người và với mình mà ra” (Anh em nhà Karamazov, II, 2).

Vậy làm thế nào để chúng ta tự bảo vệ mình? Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho vi khuẩn giả dối là sự thanh lọc trong chân lý. Trong Kitô giáo, chân lý không chỉ là một thực tại nhận thức [chú thích của người dịch conceptual reality để phân biệt với physical reality – thực tại thể lý] liên quan đến cách thức chúng ta đánh giá sự vật, xác định xem chúng là đúng hay sai. Sự thật không chỉ mang ra ánh sáng những thứ được che giấu, “vạch ra thực tại”, như thuật ngữ Hy Lạp xưa là aletheia (từ chữ “a-lethès”, “không ẩn dấu”) mà còn có thể làm chúng ta tin. Sự thật liên quan đến toàn bộ cuộc đời của chúng ta. Trong Kinh Thánh, nó có nghĩa là sự ủng hộ, sự vững chắc và tin cậy, như được ám chỉ bởi từ gốc ‘aman’, là nguồn gốc của thành ngữ phụng vụ Amen của chúng ta. Sự thật là cái gì bạn có thể dựa vào, để không bị rơi. Theo ý nghĩa tương quan này, Đấng duy nhất thực sự đáng tin cậy và tín thác – Đấng mà chúng ta có thể tin tưởng chính là Thiên Chúa hằng sống. Vì thế, Chúa Giêsu mới nói: “Ta là sự thật” (Ga 14: 6). Chúng ta khám phá và tái khám phá sự thật khi chúng ta trải nghiệm điều này trong lòng mình với niềm trung thành và tin tưởng vào Đấng yêu thương chúng ta. Chỉ điều này thôi mới có thể giải phóng chúng ta: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8:32).

Tự do khỏi sự giả trá và tìm kiếm mối quan hệ là hai thành phần không thể thiếu nếu những lời nói và cử chỉ của chúng ta là đúng, chân thực và đáng tin cậy. Để phân biệt sự thật, chúng ta cần phải phân định mọi thứ khuyến khích sự hiệp thông và cổ vũ điều thiện với bất cứ điều gì có xu hướng cô lập, chia rẽ và chống đối. Sự thật, do đó, không thực sự được nắm bắt dù cho nó không bị áp đặt bởi một cá nhân nào. Sự thật cần phải xuất phát từ các mối quan hệ tự do giữa con người với nhau, từ việc lắng nghe lẫn nhau. Chúng ta cũng không bao giờ có thể ngừng tìm kiếm sự thật, bởi vì sự giả dối luôn luôn có thể len vào, ngay cả khi chúng ta nói ra những điều đúng. Một lý luận cho dù không ai bắt bẻ vào đâu được, và hoàn toàn dựa trên những sự kiện không thể phủ nhận, nhưng nếu nó được dùng để làm tổn thương người khác và làm mất uy tín của người đó trước mắt người khác, thì bất kể nó có vẻ đúng đến đâu đi nữa, nó cũng không phải là đúng. Chúng ta có thể nhận ra tính chân thực của những lời phát biểu qua hoa trái của chúng: liệu chúng có gây tranh cãi, chia rẽ, làm nhụt chí; hay chúng thúc đẩy sự suy tư trưởng thành và được thông tin đầy đủ, dẫn đến sự đối thoại xây dựng và những thành quả tích cực.

4. Hòa bình là những tin chân thực

Thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho sự giả dối không phải là những chiến lược, nhưng là con người: những người không tham lam nhưng sẵn sàng lắng nghe, những người nỗ lực tham gia vào cuộc đối thoại chân thành để sự thật có thể nổi lên; và những người bị thu hút bởi sự thiện và chịu trách nhiệm về cách họ sử dụng ngôn ngữ. Nếu trách nhiệm là câu trả lời cho sự lan rộng của tin giả, thì một trách nhiệm nặng nề đặt trên vai những người mà công việc của họ là cung cấp thông tin, cụ thể là các nhà báo, những người bảo vệ tin tức. Trong thế giới ngày nay, công việc của họ, trong mọi khía cạnh, không chỉ là một nghề kiếm ăn; đó là một sứ mệnh. Giữa những cạnh tranh ác liệt và chạy đua ráo riết, họ phải nhớ rằng trái tim của thông tin không phải là tốc độ tường trình hay tác động của nó đối với độc giả, mà là những con người. Thông báo cho người khác có nghĩa là đào tạo người khác; nó có nghĩa là động chạm đến cuộc sống của người dân. Đó là lý do tại sao việc bảo đảm tính chính xác của các nguồn tin và bảo vệ việc truyền thông là những phương tiện thực sự để quảng bá sự thiện, tạo ra lòng tin và mở đường cho sự hiệp thông và hoà bình.

Như thế, tôi muốn mời gọi tất cả mọi người cổ vũ một nền báo chí vì hòa bình. Khi nói như thế, tôi không có ý muốn nói đến loại hình báo chí đầy mật ngọt và từ chối thừa nhận sự tồn tại của những vấn đề nghiêm trọng; hay loại hình báo chí chỉ đầy cảm tính. Ngược lại, tôi muốn nói đến một nền báo chí trung thực trong đó chống lại những giả dối, những thứ khẩu hiệu nghe thật kêu, và các tiêu đề giật gân. Một nền báo chí do dân tạo ra và vì dân, một nền báo chí phục vụ tất cả mọi người, đặc biệt là những người không có tiếng nói- và họ là đa số trong thế giới của chúng ta. Một nền báo chí ít tập trung vào các tin tức giật gân và tập chú nhiều hơn vào việc tìm ra các nguyên nhân cơ bản của các cuộc xung đột, nhằm thúc đẩy sự hiểu biết sâu sắc hơn và góp phần giải quyết bằng cách thiết lập các quy trình đạo đức. Một nền báo chí dấn thân vào việc chỉ ra những lựa chọn khác hơn là sự leo thang các trận chiến la hét và bạo lực bằng lời nói.

Để đạt được mục đích này, lấy cảm hứng từ một lời cầu của Thánh Phanxicô, chúng ta có thể hướng về Đấng Chân Lý với lời nguyện cá nhân sau:

Lạy Chúa, xin làm cho chúng con nên những khí cụ bình an của Chúa.

Giúp chúng con nhận ra sự ác len lỏi trong thứ truyền thông không kiến tạo sự hiệp thông.

Giúp chúng con biết loại bỏ nọc độc khỏi những phán đoán của chúng con.

Giúp chúng con nói về tha nhân như anh chị em của chúng con.

Chúa là Đấng trung tín và đáng tin cậy, xin làm cho lời nói của chúng con thành những hạt giống sự thiện cho thế giới.

nơi có tiếng la hét, xin làm cho chúng con biết lắng nghe;

nơi có hoang mang, xin cho chúng con gợi hứng cho hài hòa;

nơi có mơ hồ, xin cho chúng con biết mang lại sự minh bạch;

nơi có sự loại trừ, hãy để chúng con mang đến tình đoàn kết;

nơi có chủ nghĩa kích động, xin cho chúng con biết dùng sự tỉnh táo;

nơi hời hợt, xin cho chúng con nêu lên những câu hỏi thực sự;

nơi có thành kiến, xin cho chúng con đánh thức niềm tin;

nơi có hận thù, xin cho chúng con mang lại niềm tôn trọng;

nơi có sự giả dối, xin cho chúng con mang đến sự thật.

Amen.

Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2018

+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô