Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết bốn: Văn chương khải huyền và cánh chung luận
(21) Chương ba: ĐỆ NHỊ ISAIA VÀ ISAIA THỨ BA
Carroll Stuhlmueller, C.P.
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition các tr.329-331
Tài liệu Tham khảo
Begrich,J., Studien zu Deuterojesaja [Nghiên cứu Đệ nhị Isaia] (TBii 20; Munich, 1969).
Bonnard, P.-E., Le Second Isaie [Đệ nhị Isaia](EBib; Paris, 1972).
Clifford, R. J., Fair Spoken and Persuading [Nói hay và thuyết phục] (NY, 1984).
De Boer, P. A. H., Second-Isaiah’s Message [Thông điệp của Đệ nhị Isaia] (OTS 11; Leiden, 1956).
Duhm, B., Das Buck Jesaja iibersetzt und erkldrt [Sách Isaiah được dịch và giải thích] (HKAT 3/1; Gottingen, 1902; tái bản lần thứ 5 năm 1968).
Elliger, K., Deuterojesaja [Đệ nhị Isaia] 40,1-45,7 (BKAT 1/11; Neukirchen, 1978).
Feuillet, A., “Isaie (le livre d’) [Isaia [sách],” DBSup 4. 690-729.
Hanson, P. E., The Dawn of Apocalyptic [Bình minh của văn chương Khải huyền] (tái bản lần 2; Phi, 1979).
Herbert, A. S., Isaiah 40-66 (CBC; NY, 1975).
Kissane, E. J., The Book of Isaiah [Sách Isaia] 2 (Dublin, 1943).
Knight, G. A. E., Servant Theology: Isaiah [Thần học tôi tớ]: Isaiah 40-55 (ITC; GR, 1984); The New Israel [Israel Mới]: Isaiah 56-66 (ITC; GR, 1985).
Levy, R., Deutero-Isaiah [Đệ nhị Isaia] (London, 1925).
McKenzie, J. L., Second Isaiah [Đệ nhị Isaia] (AB 20; GC, 1968).
Melugin, R. F.,., The Formation of Isaiah [Sự hình thành của Isaia] 40-55 (BZAW 141; NY, 1976).
Muilenburg, J., “The Book of Isaiah [Sách Isaia], Ch. 40-66,” IB 5. 381-773.
North, C. R., The Second Isaiah [Đệ nhị Isaia] (Oxford, 1964).
Orlinsky, H. M. và N. H. Snaith, Studies on the Second Part of the Book of Isaiah [Nghiên cứu về Phần thứ hai của Sách Isaia] (VTSup 14; Leiden, 1967).
Rignell, L. G., A Study of Isaiah [Nghiên cứu về Isaia] Ch. 40-55 (LUA; Lund, 1956).
Schoors, A., I Am God Your Saviour [Ta có là Thiên Chúa, Chúa Cứu Thế của ngươi không] (VTSup 24; Leiden, 1973).
Scullion, J., Isaiah 40-66 (OTM 12; Wilmington, 1982).
Seitz, C. (biên tập), Reading and Preaching the Book of Isaiah [Đọc và Rao giảng Sách Isaia] (Phi, 1988).
Stuhlmueller, C., Creative Redemption in Deutero-Isaiah [Sự cứu chuộc sáng tạo trong Đệ nhị Isaia (AnBib 43; Rome, 1970).
Torrey, C. C., The Second Isaiah [Đệ nhị Isaia] (NY, 1928).
Watts, J., Isaiah 34-66 (WBC 25; Waco, 1987).
Westermann, C., Isaiah 40-66 (OTL; Phi, 1969).
Whybray, R. N., Isaiah 40-66 (NCB; GR, 1981).
Dẫn Nhập
(I).Tác giả và Biên tập viên. Cho đến thế kỷ 18, người ta cho rằng Isaia của Giêrusalem (Is) đã viết tất cả 66 chương của cuốn sách dưới tên của ông. Chỉ có một tiêu đề duy nhất với tên và ngày tháng của tác giả (Is 1:1); Is 40 và 56 bắt đầu mà không có phần giới thiệu riêng biệt. Hơn nữa, tất cả 66 chương đều được biên tập theo một số chủ đề thống nhất hóa (xem B. S. Childs, CIOTS 310-38; J. D. W. Watts, Is 1-33 ( WBC 24; Waco, 1985) xxvii-xxxii). Truyền thống tác giả duy nhất đã bị Ibn Ezra đặt câu hỏi (khoảng năm 1167; xem Levy, Deutero-Isaiah 2), nhưng cuộc tấn công mạnh mẽ đến từ J. C. Doderlein (1775 ) và J. G. Eichhorn (1780-83). Những học giả này cho rằng các chương 40-66 được viết bởi một tác giả khác, người sống khoảng 150 năm sau trong thời kỳ lưu đày Babylon. Họ đặt tên ông là Đệ nhị Isaia (Dt-Is). Năm 1892, B. Duhm đã tranh luận về một tác giả riêng của các bài hát Người Tôi Tớ Đau Khổ (xem bên dưới) và của các chương 56-66, người mà ông gọi là Trito- hoặc Isaia thứ ba (Tr-Is). Các học giả Thệ Phản nói chung đã bị thuyết phục bởi tính hợp lý của các lập luận mới. Người Công Giáo, mặc dù có đôi chút do dự, có xu hướng đồng ý (ví dụ: A. Condamin, Le Livre d'Isaϊe [Sách Isaia] [Paris, 1905]). Một phản ứng tiêu cực của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh, ngày 29 tháng 6 năm 1908, do lo ngại về phong trào Duy Hiện đại, khiến các học giả Công Giáo quay trở lại quan điểm cực kỳ bảo thủ về tác giả duy nhất—EB 294; RSS 119.
Sau khi các vấn đề thần học được giải quyết, để nguồn cảm hứng của các phần chính của Kinh thánh không bị đặt câu hỏi mà chỉ có các câu hỏi về văn học và lịch sử về tên và ngày tháng của tác giả. Người Công Giáo bắt đầu tranh luận một lần nữa về quyền tác giả chia rẽ của Isaia; mở đầu với các bình luận của F. Feldmann (Munster, 1926), J. Fischer (Bonn, 1939), và đặc biệt là E. J. Kissane. Hầu hết các học giả Công Giáo hiện nay làm việc với luận đề Dt- và Tr-Is. (→ Church Pronouncements, 72:5, 27).
Các lý do cho quyền tác giả riêng biệt của các chương 40-55 trước hết là lịch sử. Người nhận sứ điệp không còn là cư dân của Giêrusalem nữa mà là những người lưu vong ở Babylon (43:14; 48:20). Trên thực tế, Giêrusalem đã bị phá hủy và hiện đang chờ được tái thiết (44:26-28; 49:14-23). Babylon không còn là đồng minh nữa (2 Các Vua 20:12-13), vì nó đã phá hủy Giêrusalem và trục xuất người Israel.
Những lời tiên tri trước đây về sự phá hủy Giêrusalem đã được thực hiện (Isaia1:21- 31; Giê-rê-mi-a 7:1-15; Ed 22,24), và Israel hiện đang chờ đợi một tương lai mới, vinh quang hơn (41:21-23; 42:9-10; 54). Trái ngược với tác giả của các chương 1-39, Dt-Is chỉ đề cập đến triều đại Đa-vít, một lần, và sau đó chuyển giao đặc quyền của nó cho toàn quốc gia (55:3-5). Trong Tr-Is, Israel lại trở về đất nước của mình, và các vấn đề khác với những gì được mô tả trong Is 1-39 (→ bên dưới).
Các lập luận văn học cũng ấn tượng không kém. Giọng điệu đã thay đổi từ đe dọa và lên án trong Is sang an ủi và buồn rầu trong Dt-Is, sang buồn rầu và tưởng tượng trong Tr-Is. Is đã ngắn gọn, bí ẩn và hống hách, xuất sắc trong việc sử dụng sự tương phản và nghịch lý; bài giảng của ông chứa đầy chất liệu tự truyện.
Dt- và Tr-Is thậm chí không tiết lộ tên của họ. Phong cách của Dt-Is rất rộng, rườm rà, trang trọng và trữ tình; phong cách của Tr-Is thiếu tính độc đáo và không duy trì được hình ảnh. Tuy nhiên, trong khi bị ám ảnh bởi nỗi buồn và sự thất vọng, Tr-Is nhìn thấy những thị kiến mới cho tương lai. Chiếc áo choàng tiên tri của Is truyền đạt thẩm quyền cho lời rao giảng của Dt- và Tr-Is; về phần mình, chúng cho phép lời tiên tri ban đầu của Is theo kịp các cuộc khủng hoảng sau này và các khai triển thần học mới.
Các chủ đề tín lý hoặc mục vụ của Dt- và Tr-Is cũng biểu lộ sự thay đổi trọng tâm so với Is. Trước thời kỳ lưu đày, Israel và đặc biệt là cư dân Giêrusalem tương đối thịnh vượng, quá tự tin và vật chất; ngược lại, Dt-Is đã chứng kiến một dân tộc nản lòng, choáng váng và túng thiếu, bị cám dỗ nghiêm trọng bỏ đạo. Những người lưu đày phải được an ủi, không bị trừng phạt; đức tin của họ phải được duy trì, không được thử thách thêm nữa.
Ở Giêrusalem sau thời kỳ lưu đày, đức tin của họ phải cởi mở với các khả thể Do Thái giáo trở thành một tôn giáo thế giới. Is xem các dân tộc ngoại bang như tai họa của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (10:5), Dt-Is như công cụ để cứu Israel (41:1-5;45:1-7). Tr-Is mở các buổi lễ Đền thờ và chức tư tế cho họ (56:1-8; 66:21). Tr-Is giới thiệu cho chúng ta về khởi đầu của văn bản khải huyền, để ngay cả cái chết cũng không làm hỏng các tầng trời mới và đất mới do Thiên Chúa tạo ra (66:17-20).
Mặc dù câu hỏi về tính xác thực dẫn chúng ta đến một loạt các tác giả cho các chương 1-39, 40-55, 56-66, chúng ta vẫn cần phải chú ý đến biên tập viên của toàn bộ tác phẩm.
Người này không chỉ chủ yếu dựa vào truyền thống truyền miệng và viết của ba cá nhân mà còn bao gồm một số suy gẫm và lời dạy của các môn đệ của họ (xem 8:16; 30:8; 50:10; 54:17a; 52:6; 65:13). Biên tập viên đã tập trung toàn bộ cuốn sách vào Giêrusalem. Bằng cách nào đó, Ngôi đền đầu tiên đã phải bị phá hủy và trong quá trình đó, mọi người đã thanh tẩy những hy vọng sai trái ở bên ngoài. Tuy nhiên, ngay cả Ngôi đền mới của thời kỳ hậu lưu đày cũng bị hoen ố bởi những nhà lãnh đạo không xứng đáng. Tình huống đáng buồn, tội lỗi này dẫn đến sự mở cửa cuối cùng của nó cho Dân ngoại. Biên tập viên đã cho phép tất cả các phần chính mở đầu bằng thái độ thông cảm với Dân ngoại: 11:10-16; 23:17-18; 27:12-13; 33:17-24; 35:5-6; 49:6; 56:1-8; 66:18-21.
(II) Nhà tiên tri. Thi ca của Dt-Is cho thấy một người trầm ngâm, nghiêm túc, lạc quan và dễ cảm thông. Đức tin của ông vào Thiên Chúa của lịch sử rất vững chắc đến nỗi mỗi tình tiết đều góp phần vào sự cứu chuộc của Israel (44:24-45:7). Nhà tiên tri đặt các truyền thống cổ xưa vào một bối cảnh vũ trụ, để cuộc di cư mới san bằng các ngọn núi hoặc làm nước chảy trên các đỉnh cao (40:3-5; 41:17-20).
Giao ước của Mô-sê được mở rộng thành một giao ước thế giới bằng cách đề cập đến các giao ước với Nô-ê (54:9) và với Áp-ra-ham và Sa-ra (51:1-3), và trong trường hợp sau, Dt-Is nhìn thấy khu vườn thiên đường hiện ra trước mắt mình.
Tinh thần của phụng vụ bùng nổ thành một cuộc sống mới qua các bài thánh ca, lời than thở và lời công bố của ông. Dt- và Tr-Is có lẽ thuộc về một trường phái tư tưởng tôn giáo Is (8:16). Chúng mang theo một số cụm từ hoặc chủ đề quán xuyến chính từ Is: ví dụ, việc sử dụng hạn từ “dấu hiệu” (7:11,14; 8:18; 19:20; 20:3; 37:30; 38:7; 55:13; 66:19) hoặc danh hiệu quan trọng dành cho Gia-vê, “Đấng Thánh của Israel” (17 lần trong Is; 13 lần trong Dt-Is; 4 lần trong Tr-Is; xem J. J. M. Roberts, Int 36 [1982] 130-43).
Tuy nhiên, không giống như Is, chúng cũng phụ thuộc vào các truyền thống phía bắc: (a) Đnl và Dtr (*) (các chủ đề về sự tuyển chọn, lời và sự vâng lời); (b) Hs (Gia-vê phối ngẫu của Israel và chủ đề xuất hành); và (c) Gr (than khóc và ủy nhiệm tiên tri). Các Thánh vịnh chắc chắn đóng góp vào hình thức thuyết giảng của Dt-và Tr-Is: vũ trụ như phạm vi thờ phượng (Tv 8; 19; 29; 104); than khóc như các Tv 22; 44; xuất hành trong các Tv 114; 136. Các Thánh vịnh sau này sẽ lấy cảm hứng từ công trình của Dt- và Tr-Is, (Gia-vê là vua, Tv 96-98; than khóc, Tv 51).
Dt-Is đã thuyết giảng vào giai đoạn sau của thời kỳ lưu đày, vào khoảng năm 550. Ky-rô [Cyrus] đã bắt đầu hành quân (41:1; 45). Bởi vì có sự thay đổi đáng kể giữa các chương 41-48 và 49-54, cả về tâm trạng và các chủ đề quan trọng, các chương 49-54 thể hiện sự thất vọng sâu xa của nhà tiên tri đối với những người thống trị lần đầu tiên trở về Palestine vào năm 537 và việc cuối cùng họ bác bỏi ông. Bốn bài hát chính của Người tôi tớ đau khổ bắt nguồn từ sự từ chối Dt-Is của những người trở về.
Được Khác-gai [Hag] và Da-ca-ri-a [Zech], thầy thượng phẩm Giô-suê [Joshua] và thống đốc Dơ-rúp-ba-ven [Zerubbabel] hướng dẫn, họ thích thần học của một nhà tiên tri khác của cuộc lưu đày, Ê-dê-ki-en. Tr-Is tiếp tục giữ khoảng cách tương tự với những người trở về, một nhóm có quan điểm hẹp hòi hơn nhiều, thậm chí không cởi mở với những người Israel ở lại vùng đất này và không bao giờ đi lưu đày (Hanson).
(III) Thông điệp tôn giáo.
(a) Cuộc xuất hành mới. Đây là chủ đề chính của Dt-Is, được duy trì trong suốt tác phẩm của ông (Snaith, Studies [Nghiên cứu] 147; Stuhlmueller, Creative Redemption [Sự cứu chuộc sáng tạo] chương 4).
(b) Đầu tiên và Cuối cùng. Một loạt bài thơ hoàn chỉnh được dành riêng cho phần đầu và phần cuối, chủ yếu ở dạng văn học của bài phát biểu tranh luận hoặc thử nghiệm (42:12-31;41:1-5; 41:21-29 + 42:8-9; 43:8-13; 44:6-8; 45:18-22; 46:9-13; 48:1-11,12-19). Những bài thơ này thảo luận về sự ứng nghiệm của các lời tiên tri trước đó, những điều đầu tiên, và do đó sự ứng nghiệm tất yếu của lời tiên tri sau cùng hoặc cuối cùng mở vào một thời đại phi thường cho Israel (xem Stuhlmueller, CBQ 29 [1967] 495-511).
(c) Gia-vê Đấng Tạo Hóa. Dt-Is không du nhập chủ đề về Gia-vê Đấng Tạo Hóa như một bằng chứng hoặc lý do mà đúng hơn như một dấu hiệu của hình thức mới và mở rộng đặc biệt của những gì sẽ xảy ra cho Israel. Từ vựng sáng tạo của Dt-Is rất phong phú (bārāʼ “tạo ra,” xuất hiện 16 lần).
(d) Công lý của Thiên Chúa. Bởi vì mọi lời hứa thần linh đều sắp được ứng nghiệm, Dt- và Tr-Is ca ngợi công lý của Thiên Chúa (41:2,16; 42:6; 61:3; 62:11-12); xem Scullion, Isaiah 40-66, 138-40, 211-12.
(e) Quyền năng của Lời Thiên Chúa. Từ những lời mở đầu (40:5,8) cho đến lời tóm tắt cuối cùng (55:10-11), Dt-Is tập trung nhiều hơn bất cứ nhà tiên tri nào vào sức mạnh của lời thần linh. Lời này không bao gồm nhiều trong các thông điệp được viết hoặc nói mà trong những việc làm kỳ diệu hiện lúc này.
(f) Giêrusalem. Trong Dt- và Tr-Is, Giêrusalem đóng vai trò trung tâm. Đôi khi, nhà tiên tri xem Giêrusalem như thông báo về sự trở về của Israel qua sa mạc đến vùng đất của chính nó (40:9-10), đôi khi khác như một góa phụ cô đơn sẽ trở thành người mẹ hạnh phúc của nhiều đứa con (54:1-10; 65:17-25). Chỉ một lần, trong một dòng rất gây tranh cãi (44:28b), Dt-Is đề cập đến Đền thờ. Dt-Is chuyển hình ảnh Đền thờ ra thế giới bên ngoài (40:3-5; 53:4-6); Tr-Is lên án gay gắt những lãnh đạo Đền thờ tham lam của thời kỳ hậu lưu đày (56:9-57:13).
(IV) Những bài thơ về Người Đầy Tớ. Duhm đầu tiên đã tách riêng bốn bài hát. Độ dài chính xác của chúng vẫn còn gây tranh cãi; ở đây chúng tôi xác định chúng là 42:1-7; 49:1-7; 50:4-9; 52:13-53:12. Ngày càng có nhiều học giả, như Muilenburg, Bonnard, Scullion, McKenzie, Clifford, và Melugin, nhấn mạnh mối quan hệ của những bài hát của người đầy tớ với phần còn lại của Dt-Is.
Khi bốn bài hát chính được nghiên cứu trong bối cảnh của các đoạn văn khác về người đầy tớ trong 40-66, tính cách và sứ mệnh của người đầy tớ trở nên phức tạp hơn: (a) theo nghĩa tích cực, người đầy tớ ám chỉ một người được yêu thương và chọn lựa, được Gia-vê cứu chuộc, cho dù đó là Israel (41:8,9; 43:10; 44:1,2,21), Israel dưới tên của Gia-cóp (45:4; 48:20), hay tiên tri Dt-Is và các môn đệ của ông (42:1; 49:3,6), như được những người Israel khác hoặc người nước ngoài suy gẫm (50:10: 52:13, 53:11), hoặc bởi người nước ngoài Ky-rô [Cyrus] (44:26); (b) theo nghĩa tiêu cực, người đầy tớ là dân Israel—mù, điếc và bị cướp bóc (42:19), nô lệ của các vua (49:7) —gánh chịu tội lỗi (43:23, ở đây một động từ được sử dụng); hoặc Gia-vê gánh chịu tội lỗi của Israel (một động từ nữa được sử dụng, 43:24); (c) ở số nhiều, hạn từ này xuất hiện một lần trong Dt-Is chỉ toàn thể Israel (54:17) và nhất quán trong Tr-Is chỉ một số ít người Israel trung thành (54:17; 63:17; 65:6,9,14,15; 66:14) hoặc chỉ những người nước ngoài được kêu gọi để phục vụ trong Đền thờ (56:6; như một động từ, 60:12).
Từ những đoạn văn này, người đầy tớ xuất hiện ngày càng rõ ràng hơn với một sứ mệnh: 43:10—Israel hoặc Gia-cóp sẽ là nhân chứng; 44:26; 45:4—Ky-rô khai mạc cuộc xuất hành mới của Israel; 42:1—sứ mệnh thầm lặng của người đầy tớ phân biệt người đầy tớ với Ky-rô; 49:1-7; 50:4-9—nỗi đau khổ gắn kết người đầy tớ với toàn thể Israel, hoặc 52:13-53:12 —tách biệt người đầy tớ với một Israel tội lỗi. Trong 49:3, người đầy tớ được gọi rõ ràng là “Israel”, nhưng trong 49:6, sứ mệnh của người đầy tớ vượt ra ngoài Israel, để trở thành ánh sáng cho các quốc gia. Trong Tr-Is, những người đầy tớ là một số ít người Israel tốt (62:1-3; 65:8-16) là nguồn hoán cải cho Israel tội lỗi (63:17).
Trong khi các bài hát của người đầy tớ hòa lẫn vào sự phát triển lớn hơn của tư tưởng trong các chương 40-66, tuy nhiên, về mặt văn bản, có những vấn đề ở bất cứ nơi nào các bài hát xuất hiện (xem Stuhlmueller, CBQ 42 [1980] 21-27).
Các dòng liền kề bị đặt sai chỗ ở một nơi khác (48:22; 57:21) hoặc xuất hiện dưới dạng bình luận biên tập (50:10-11; 51:4-6). Hơn nữa, bốn bài hát, nếu bị loại bỏ cùng với các đoạn xung quanh, cho phép văn bản của Dt-Is đọc trôi chảy: cảnh xét xử trong 41:21-29 tiếp tục với 42:8-9; cuộc xuất hành mới trong 48:21-22 với 49:9b-12; hình ảnh tấm vải trong 50:3 với 50:9b. Khi được tách ra khỏi bối cảnh, bốn bài ca về người đầy tớ có sự phát triển thần học độc đáo của riêng chúng: 49:1-7—người đầy tớ, trong khi bị ngược đãi và làm nhục, được giao nhiệm vụ mới; 50:4-9—người ấy được rèn luyện và mạnh mẽ hơn qua sự đau khổ; 52:13-53:12 —ngay cả những người Ngoại cũng được thấy đang trầm ngâm kinh ngạc trước người đầy tớ đau khổ và bị bác bỏ; 42:1-7—sứ mệnh của người đầy tớ đối với những người Ngoại được hoàn thành khác với người Ngoại Ky-rô; 61:1-3 —sứ mệnh của người đầy tớ tiếp tục giữa các môn đệ của ông khi trở về quê hương.
Do đó, sự khác biệt của các bài ca cho phép chúng ta chuyển sự diễn giải tập thể sang một người đầy tớ cá thể có sự thánh thiện tối cao, vĩ đại hơn bất cứ người Israel nào trong quá khứ. H. Hegermann đã chỉ ra rằng Do Thái giáo trước Ki-tô giáo đã đưa ra một cách giải thích về đấng cứu thế cho các bài hát của người đầy tớ, nhưng chính Chúa Giêsu đã tự nhận mình là người đầy tớ. Tuy nhiên, Thánh Phao-lô vẫn tiếp tục cách giải thích tập thể, vì ngài coi mình là người đầy tớ (Công vụ 13:47; Ga-lát 1:15; Rô-ma 15:21). Để biết cách giải thích lại các bài hát của người đầy tớ trong Do Thái giáo và trong Ki-tô giáo thời kỳ đầu, hãy xem Grelot, Les Poemes 77-260.
(DBT 531-33. Baltzer, K., “Zur formgeschichtlichen Bestim mung der Texte vom Gottes-Knecht,” [Về sự xác định hình thức-lịch sử của các văn bản về Người Tôi Tớ của Chúa],” Probleme biblischer Theologie [Các vấn đề của Thần học Kinh Thánh] [Fest. G. von Rad; biên tập. HW Wolff; Munich, 1971] 27-43. Bonnard, Second Isaie [Isaia thứ hai] 37-56. Gazelles, H., RSR 43 [1955] 5-51.Dion, P.-E., Bib 51 [1970] 17-38 Grelot, P., Les Poemes du Serviteur [những bài thơ về người đầy tớ] [LD 103; Paris, 1981]. Hegermann, H., Jesaja 53 in Hexapla, Targum und Peschita Isaia 53 trong Hexapla, Targum và Peschita] [Gütersloh, 1954]. North, C. R., The Suffering Servant in Deutero-Isaiah [Người đầy tớ đau khổ trong Đệ nhị Isaia] [2d ed.; London, 1956]. Scullion, Isaiah 40-66 133-37; →16 và 44-46 bên dưới.)
Những người bên ngoài, dưới tiêu đề quốc gia, dân tộc, tận cùng của trái đất, hoặc những hòn đảo xa xôi, thường được Dt-Is ngỏ lời. Theo D. E. Hollenberg (VT 19 [1969] 23-36), những từ ngữ này có thể bao hàm “những người Israel bí mật” [crypto-Israelites], những người đã bội giáo và gia nhập hàng ngũ của người Babylon nhưng hiện đang được kêu gọi hoán cải (42:24-25; 43:22-28; 48:1-11; 50:1-2). Trong Dt-Is, nhiều từ ngữ khác nhau cho “các dân tộc” cũng có thể ám chỉ đến những người ngoại giáo thường bị bác bỏ (chương 47; 49:26) hoặc những người đến với Israel trong điều kiện hèn mọn và xiềng xích (45:14). Trong bài ca người đầy tớ thứ tư (52:13-53:12), các quốc gia bị sửng sốt và kinh hoàng trước người đầy tớ bị đánh bại nhưng chiến thắng, và trong Tr-Is, họ được kêu gọi gần gũi hơn và tôn trọng hơn vào hàng ngũ của Israel.
(V) Phong cách và Hình thức Văn học. Dt-Is cho thấy mình là bậc thầy trong việc sử dụng và đôi khi pha trộn các hình thức văn học truyền thống: (a) Sấm ngôn về sự cứu rỗi, được thể hiện rõ trong Kinh thánh (Sáng thế 21:17; 26:24; Giô-ên 2:21-22 ): Isa 41:8-13,14-16; 43:1-4,5-7; (b) một biến thể của điều vừa nói, được Westermann nhận diện, là lời công bố về sự cứu rỗi: 41:17-20; 43 :16-21; (c) bài thánh ca, thường là một sự tô điểm trong các hình thức khác, như một thực thể độc lập chỉ trong 42:10-13; 44:23; 48:20-21, để đánh dấu một kết luận quan trọng; (d) phán quyết hoặc diễn từ phiên xử ( xem Hs 4:1-3; Am 4:1-3; Is 1:2-3, 10-20), thường được Dt-Is sử dụng để đưa những kẻ thờ ngẫu tượng và các vị thần của họ ra xét xử: 41:1-5; 43: 9-13; (e) tranh luận hoặc lý lẽ, một biến thể không chính thức của điều vừa nói: 40:18-24; 41:27-31; 44:24-28. Xem thêm Stuhlmueller, Creative Redemption 16-40.
Không ai khiến chúng ta nhạy cảm với sự tao nhã trong tu từ của Dt-Is hơn J. Muilenburg: việc sử dụng lại âm đầu [alliteration] (40:5; 47:1); phép tượng thanh [onomatopoeia] trong đó âm tiếng Do Thái gợi ý nghĩa của từ ngữ (40:1a; 42:14); các dòng bắt đầu và kết thúc bằng cùng một âm thanh (40:12ab; 45:9c,20e); sự tương phản mạnh mẽ (41:17-18); câu hỏi (43:19; 44:7); mệnh lệnh (43: 11-12,25).
(VI) Văn bản và Phiên bản. MT được bảo quản rất tốt. Trong số DSS, IQIsaa rất giống với MT và IQIsab thì gần như giống hệt nhau. Bản Bẩy Mươi kém hơn nhiều. Bản Phổ Thông [Vg] có xu hướng làm sắc nét những lời giải thích về Đấng cứu thế (42:8).
----------------------------------------
(*) Deuteronomist, viết tắt là Dtr hoặc đơn giản là D, có thể ám chỉ đến tài liệu nguồn nằm bên dưới các chương cốt lõi (12–26) của Sách Đệ nhị luật hoặc đến "trường phái" rộng hơn đã tạo ra toàn bộ Sách Đệ nhị luật cũng như lịch sử Đệ nhị luật của Sách Giô-suê Thủ Lãnh, Sa-mu-en, Các Vua v.v...