Xem hình ảnh bài 1

Những sách xuất bản dựa vào thị kiến của Sơ Emmerich

Khoảng 10 năm sau khi Chân Phước Emmerich qua đời thì ông Brentano xuất bản một cuốn sách nhan đề là The Dolorous Passion of Our Lord Jesus Christ According to the Meditations of Anne Catherine Emmerich (Cuộc Khổ Nạn Đau Thương của Chúa Giêsu Kitô dựa vào những Suy Niệm của Sơ Anne Catherine Emmerich, 1833) rồi sau đó ông viết thêm cuốn sách The Life of the Blessed Virgin Mary from the Visions of Anne Catherine Emmerich (Cuộc đời của Đức Trinh Nữ Maria dựa theo những thị kiến của Sơ Anne Catherine Emmerich, 1852).

Tòa thánh Vatican không xác nhận tính xác thực của những sách trên. Tuy nhiên, vẫn coi chúng là có một thông điệp xuất sắc với mục đích phục vụ cho ơn cứu rỗi.

Tuy nhiên những nhà phê bình văn học thì tỏ ra ít thiện cảm hơn, họ chê những cuốn sách chỉ là "những trau chuốt quá đà và chủ quan của một nhà thơ lãng mạn".

Một linh mục Công Giáo Cha Karl Schmoger đã sửa chữa các bản thảo của ông Brentano và xuất bản 3 tâp sách có tên là The Life of Our Lord (Cuộc đời của Chúa) và theo sau là hai tập nói về cuộc đời của Sơ Anne Catherine Emmerich.

Năm 1923 Linh Mục Winfried Hümpfner trong luận án tiến sĩ thần học về những thị kiến của Sơ Emmerich đã so sánh các ghi chép tại chỗ của ông Brentano với cuốn sách của ông, thì kết luân rằng ông Brentano đã bịa đặt thêm ra khá nhiều.

Vậy thì người ta có thể kết luận rằng những sách của ông Brentano không đáng tin cậy.

Tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng lý do mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2004 đã phong Chân Phước cho Sơ Anne Catherine Emmerich là dựa vào nhân đức anh hùng, lòng đạo đức sâu sắc, sự kiên nhẫn và sự đồng cảm mạnh mẽ với những đau khổ của Chúa Kitô, qua 5 dấu thánh trên thân xác.

Đó là một quyết định sau khi có phép lạ qua lời chuyển cầu của vị Chân Phước, chứ không phải dựa vào nội dung những thị kiến mà Giáo Hội xếp vào loại mặc khải tư nhân.

Tuy rằng sách của ông Brentano không đàng tin cậy, nhưng chúng đã tạo ra một ảnh hưởng tích cực là truyền bá ý tưởng của Chân Phước Emmerich về một ngôi nhà của Đức Mẹ ở Ephesus và nó thúc đẩy phong trào đi tìm ngôi nhà ấy.

Thị kiến về ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Ephesus

Ông Brentano chép rằng:

“Sáng ngày 13 tháng 8 năm 1822, Catherine Emmerich nói: ‘Đêm qua tôi đã có một thị kiến tuyệt vời về cái chết của Đức Trinh Nữ Maria, nhưng tôi đã hoàn toàn quên hết rồi.’ Khi được hỏi rằng Đức Trinh Nữ Maria bao nhiêu tuổi khi qua đời, Catherine Emmerich đột nhiên quay đi và nói: ‘Ngài đã sáu mươi bốn tuổi, chỉ trừ hai mươi ba ngày: Tôi vừa thấy con số X sáu lần, rồi I, rồi V; vậy là sáu mươi bốn phải không? (nên ghi nhận là con số XXXXXXIV là cách viết La Mã mà Emmerich chưa bao giờ được học qua)

(Sơ Emmerich nói tiếp)…Sau khi Chúa Kitô Lên Trời, Đức Maria sống ba năm trên núi Sion, ba năm ở Bethany, và chín năm ở Ephesus, Thánh Gioan đã đưa Ngài đến đây ngay sau vụ người Do Thái thả trôi biển ông Lazarô và các chị của ông (hai bà Martha và Madalena).

Đức Maria không sống ở Ephesus, mà ở một vùng quê gần đó, nơi một số phụ nữ là bạn thân của Ngài cũng định cư. Nhà của Đức Maria nằm trên một ngọn đồi bên trái con đường từ Jerusalem tới, cách Ephesus khoảng ba tiếng rưỡi (xe lừa). Ngọn đồi này dốc nghiêng về phía Ephesus; là thành phố mà khi đi tới từ phía đông nam thì trông giống như nằm trên một vùng đất cao, nhưng khi đến gần thì nó lại ở dưới thấp. Nhiều đại lộ lớn dẫn đến thành phố, và mặt đất có nhiều tán cây phủ đầy trái màu vàng. Có nhiều đường hẹp dẫn đến một ngọn đồi ở phía nam, trên đồi là một khu đất cao gồ ghề, chu vi khoảng nửa giờ đi bộ, cỏ mọc um tùm, có nhiều cây dại và bụi rậm giống như là có một ngọn đồi khác nằm ở trên,. Chính trên khu đất này, những người định cư Do Thái đã chọn làm nhà. Đây là một nơi rất vắng vẻ, nhưng có nhiều sườn dốc màu mỡ và dâm mát, và các hang động thì sạch sẽ và khô ráo, được bao quanh bởi những mảng cát. Nơi đây tuy hoang dã nhưng không hoang vắng, rải rác xung quanh là một số cây hình kim tự tháp, với những cành cây lớn râm mát và thân cây thì nhẵn nhụi.

Thánh Gioan đã cho xây một ngôi nhà cho Đức Mẹ trước khi đưa Người về đây. Nhiều gia đình Kitô hữu và nữ tu cũng định cư tại đây, một số sống trong hang động dưới đất hoặc trong đá, quây nhà bằng đồ gỗ nhẹ, một số khác sống trong những túp lều tạm bợ. Họ đến đây để trốn tránh sự đàn áp tàn bạo. Nhà cửa của họ giống như những cái chòi của ẩn sĩ, vì họ tận dụng những gì có sẵn trong thiên nhiên mà làm nơi ẩn náu. Thông thường, họ sống cách nhau khoảng một phần tư giờ đồng hồ. Toàn bộ khu định cư giống như một ngôi làng rải rác. Nhà của Đức Mẹ là ngôi nhà duy nhất được xây bằng đá. Phía sau nhà có một đỉnh đồi đá, từ đó qua những hàng cây và những ngọn đồi, người ta có thể nhìn thấy Ephesus, cùng thấy biển cả với vô số hòn đảo. Nơi này ở gần biển hơn là Ephesus, là nơi cách bờ biển tới vài giờ xe. Khu vực này hẻo lánh và ít có người lui tới. Giữa nơi ở của Đức Trinh Nữ Maria và thành phố Ephesus có một dòng suối uốn lượn một cách quanh co.”


Vậy trước tiên người ta phải tìm xem thành phố cổ xưa có tên là Ephesus hiện đang ở đâu? Vì nó là cái mốc để xác định ngôi nhà của Đức Mẹ.

Vấn đề là thành phố Ephesus đã biến mất từ nửa thiên niên kỷ trước! Và chúng ta phải đợi gần nửa thế kỷ sau nữa thì mới có người tìm được manh mối của nó.

Lịch sử đau buồn của Ephesus

Ephesus được xây dựng từ thời cố Hy Lạp trên sông Cayster chảy vào biển Aegean, là một bến cảng giàu có với một đền thờ Nữ thần Artemis, nổi tiếng là một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ xưa.

Dưới thời dế quốc La Mã, Ephesus vẫn là một thành phố quan trọng đứng thứ hai sau Rome, và đó là thành phố mà Thánh Phaolo đã rao giảng tin mừng tại hí viện to lớn của nó.

Thánh Phaolo đã ở Ephesus 3 năm, rồi bị đuổi ra khỏi thành vì chống lại các nhóm thờ nữ thần Artemis. Theo truyền thống thì sau đó Thánh Gioan đã đến thay thế, chết và được chôn ở đây. Truyền thống cũng cho rằng Thánh Maria Madalena cũng đã chết tại đây.

Đối với Kitô giáo thì sau khi thoát khỏi thời Bách Hại, Ephesus trở thành một trung tâm lớn chỉ nhỏ hơn Antioch mà thôi. Ephesus là nơi họp của Council of Ephesus (Công Đồng Ephesus) vào năm 431, là công đồng tuyên xưng tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Nhưng Ephesus đã bị mai một vì tai ương, dịch tễ và chiến tranh.

Trước nhất, con sông Cayster bị phù xa lấp dần làm mất đi lối thông ra biển là con đường kinh tế làm ăn, rối sau đó là nhiều đợt tấn công của người À Rập làm cho thành phố suy thoái dần và trong thế kỷ thứ 11 thì bị người Thổ san bằng chỉ còn lại một ngôi làng nhỏ. Khi người Thổ áp đặt sự cai trị của đế quốc Hồi Giáo Ottoman lên đất Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 15 thì Ephesus trở thành một vũng xình lầy muỗi mòng và là ổ của bệnh sốt rét, cho nên hoàn toàn bị bỏ hoang.

Động đất, phù sa và cát bụi xóa dần vết tích của Ephesus sau đó.

(còn tiếp)