AMAZON JUNGLE - Có lễ chưa bao giờ có thành phố nào phát triển và bùng nổ nhanh như vậy và rồi cũng nhanh chóng phá sản như thành Manaus.

Manaus nằm ở hợp lưu của sông Amazon và Rio Negro ở sâu trên bờ sông cách cửa sông ở Đại Tây Dương là 1.450 km (900 dặm). Có thể ví thành phố này giống như miền Tây nước Mỹ trong thời Old West khai hoang đi tìm vàng, cơ hội lớn làm ăn và giầu có lên như diều nhưng cũng biến mất nhanh chóng trong những năm bùng nổ về sản xuất cao su ở cuối thế kỷ 19. '

Hình ảnh

Một tưởng niệm huy hoàng về thời điểm đó còn để dấu tích lại là nhà Hát lớn và Sân khấu hòa nhạc opera Teatro Amazonas mà vẫn còn đang được sử dụng ngày hôm nay. Những ngày vàng son đó ở Amazon đã giúp truyền cảm hứng cho bộ phim 1982 “Fitzcarraldo”, nói về nỗi ám ảnh điên cuồng của một người thành đạt thời đó muốn mang opera đến rừng rậm nhiệt đới.

Nhưng rồi với thời gian, Manaus cũng vực sống lại và ngày nay hết sức to lớn một cách đáng ngạc nhiên, đó là thành phố lớn thứ bảy của Brazil với gần 2 triệu dân chúng. Một sân vận động bóng đá mới được xây dựng vào dịp World Cup 2014, và một cây cầu mới bằng giây cáp dài 3 cây số bắc qua sông Rio Negro vào năm 2011. Các vùng ngoại ô như Ponta Negra có nhiều nhà cao tầng hiện đại, các nhà hàng ăn sang trọng và những bãi biển đẹp cạnh tranh với bất kỳ thị trấn nào trên biển.

Tuy dầu như vậy, nhưng chỉ trong ít phút là du khách có thể ẩn mình trong rừng nhiệt đới, nơi mà có đến 30% tất cả các sinh vật trên thới giới sống, trong đó có những loài rất đặc biệt như cá dolphin mầu hồng, cá pirarucu to lớn, cá piraha ăn thịt… và biết bao nhiêu loài cây và hoa qủa.

Chúng tôi tới thăm và lưu lại thành phố này 2 ngày. Ngày đầu tiên chúng tôi đi thăm các nhà thờ, chợ, và nhà hát nổi tiếng Teatro Amazonas.

Từ cảng Manaus chúng tôi tới Chợ thành phố Municipal Market, nơi đây các hướng dẫn viên sẽ chỉ cho biết làm thế nào để phân biệt các cá địa phương tốt nhất, các loại trái cây và thảo dược.

Qua Nhà Hải quan, một kiến trúc đã được tiền chế sẵn ở Liverpool bên Anh quốc và được chuyển chở đến Manaus để lắp ráp lại một trăm năm trước đây.

Rồi tới Dinh Palacio Rio Negro là nhà riêng của một Nam tước cao su người Đức và, sau đó được biến thành văn phòng của Thống đốc.

Tiếp đến chúng tôi tới thăm tới địa điểm nổi tiếng nhất của thành phố: Nhà hát Teatro Amazonas với các màu hồng xa hoa và trắng được xây dựng vào năm 1896. Đặc biệt và ngạc nhiên là kiến trúc này có một mái vòm với 36.000 viên gạch men kính được nhập khẩu từ châu Âu. Thảm men mầu mosaic này là các màu sắc của lá cờ Brazil.

Những bức tranh tuyệt vời trên đỉnh bên trong mái vòm nhà hát muốn tái tạo tầm nhìn các tuyệt tác mà du khách muốn thấy giả như bạn đứng dưới tháp Eiffel và nhìn lên.

Nhà hát này cũng tự hào là có kiến trúc mà âm thanh dội ra rất hoàn hảo, và các buổi biểu diễn ở đây từ buổi biểu diễn đàn guitar độc diễn cho toàn bộ đoàn vũ ballet và dàn nhạc giao hưởng. Manaus Opera vẫn là một phần không thể thiếu trong lịch sử của Brazil. màn trình diễn khó quên từ opera Ý, La Gioconda, bởi Amilcare Ponchielli chỉ là một vài trong số các tên tuổi lớn đã để lại dấu ấn của mình trên sân khấu Amazon, nhưng ngày nay, Nhà hát trình bày một loạt các buổi biểu diễn opera jazz và những phong cách nhạc nổi tiếng.

Vẻ đẹp lộng lẫy và huy hoàng của tòa nhà có lẽ là niềm tự hào, nhưng yếu tố khác thường nhất của nó và đây là một biểu tượng vĩ đại là thực tế rằng nó nằm trong trung tâm của rừng già Amazon, ở thành phố Manaus - một minh chứng cho sự sung túc rực rỡ đi kèm với sự bùng nổ cao su năm 1896.

Trên đường trở về tàu vượt qua các quận Prosamin, có các nhà và chung cư được xây dựng để cải thiện nhà ở cho những người nghèo sống dọc theo con sông. Nếu họ hội đủ điều kiện, họ được ở đây miễn phí. Điều này có nghĩa là điều kiện tốt hơn đời sống, sức khỏe và vệ sinh môi trường, các chương trình xã hội, và nhận thức về môi trường.

Trong thời gian ở Manaus 2 ngày, chúng tôi có dịp thăm 3 nhà thờ lớn: Nhà thờ Saint ngay bên cạnh Teatro Amazonia rất đồ sộ với một tháp cao, bên trong có nhiều tượng và trang trí rất đẹp.

Một nhà thờ khác có tên nhà thờ Đức Bà ở gần khu chợ ngư phủ, nhà thờ có nhiều ảnh tượng đẹp. Đang khi tôi thăm nhà thờ vào lúc trưa thì trời vùng nhiệt đới đổ mưa tầm tã, nên tôi trú lại nhà thờ cầu nguyện. Ông từ nói 12 gờ có lễ ngày Thứ Bảy, nhưng gần đến 12 giờ trưa mà mới chỉ có 15 người tới tham dự, có lẽ vì trời mưa nên ít người.

Nhà thờ chính tòa tổng giáo phận Manaus nằm gần ngay bến tầu du lịc nên tôi có dịp thăm 2 lần để có cơ hội chụp hình. Nhà thờ đang trong giao đoạn tân trang và sửa chữa nên đi vào rất khó, chung quanh có hàng rào bao kín. Phải đi một đoạn đường dài mới vào được. Nhà thờ có tên là Đức Mẹ Vô Nhiễm Conceicao. Bên trong nhà thờ bề thế và có các tượng gỗ tạc rất ấn tượng, mầu sắc thật tinh tế và đẹp.

Từ Manaus đi thuyền 40 phút để tới Amazon Ecopark Jungle Lodge. Cơ sở này đã bắt đầu cuộc sống như một tài sản khoa học và giáo dục, được tạo ra bởi sáng kiến cá nhân vào năm 1991. Nó mở cửa cho công chúng như một nhà nghỉ du lịch sinh thái vào năm 1995. Mặc dù không còn là một tài sản khoa học, khu nghỉ dưỡng ven sông này cung cấp một nền tảng mà từ đó bạn có thể trải nghiệm vẻ đẹp của rừng mưa và tìm hiểu về cuộc sống của rừng. Một số dòng nước chảy rõ ràng thông qua khu vực này và nhiều hơn sáu dặm đường mòn trong rừng, một số loài thảo nguyên thiên nhiên và con lạch, cho phép bạn khám phá những khu rừng nhiệt đới và quan sát phong lan và cây khổng lồ.

Ban đêm có thể ngủ tại đây và các nhân viên phục vụ sẽ làm cho bạn cảm thấy như ở nhà trong trung tâm của rừng già Amazon. Các thực phẩm bao gồm chủ yếu là các sản phẩm địa phương chuẩn bị bởi các đầu bếp. Thịt, cá và rau quả cung cấp một cái gì đó cho mỗi hương vị. Rất nhiều các loại trái cây nhiệt đới ngon được phục vụ.

Một tour du lịch rừng cung cấp một giới thiệu ngắn gọn để các kỹ thuật rừng tồn tại và hệ thực vật và động vật Amazon.

Tìm hiểu sơ qua về Rừng nhiệt đới Amazon

Rừng Amazon bao gồm hơn một nửa các rừng nhiệt đới còn lại của trái đất, rừng nhiệt đới Amazon lớn nhất và đa dạng sinh học nhất thế giới với khoảng 390 tỷ cây lẻ và gồm 16.000 loại cây.

Vài nét về Lịch sử

Rừng mưa nhiệt đới có thể hình thành trong kỷ nguyên Eocene. Nó xuất hiện sau khi nhiệt độ toàn cầu giảm xuống và khi đó Đại Tây Dương mở rộng đủ để tạo ra khí hậu ấm áp và ẩm ướt cho lưu vực Amazon. Rừng mưa nhiệt đới đã tồn tại ít nhất 55 triệu năm, và hầu hết vùng này vẫn không có cây cối ít nhất cho tới thời kỳ băng hà hiện nay, khi khí hậu khô và bắt đầu xuất hiện các đồng bằng thảm cỏ phủ rộng rãi hơn gọi là savana.

Sau thời kỳ Cretaceous - Paleogene, sự tuyệt chủng của khủng long và khí hậu ướt có thể đã cho phép rừng mưa nhiệt đới lan rộng khắp lục địa. Từ vĩ độ 66-34 °, rừng nhiệt đới mở rộng đến nam 45 °. Biến động khí hậu trong suốt 34 triệu năm qua đã cho phép vùng savanna mở rộng vào vùng nhiệt đới. Rừng nhiệt đới vẫn có thể phát triển mạnh trong những thời kỳ băng giá này, cho phép tồn tại một sự đa dạng rộng lớn của các loài.

Có bằng chứng cho thấy đã có sự thay đổi đáng kể trong thảm thực vật rừng nhiệt đới Amazon trong thời gian 21.000 năm qua biến chuyển qua tời kỳ băng giá cuối cùng qua the Last Glacial Maximum (LGM) và những thời tan băng sau đó. Phân tích các trầm tích từ lưu vực Amazon cho thấy lượng mưa trong lưu vực trong quá trình thời tan băng lớn cuối cùng thấp hơn so với hiện tại và điều này gần như chắc chắn liên quan đến việc che phủ thảm thực vật nhiệt đới ẩm giảm trong lưu vực.

Bụi Sa mạc Sahara nhờ gió thổi tới Amazon

Hơn 56% lượng bụi làm phân bón cho rừng nhiệt đới Amazon là do bụi từ Bodélé ở miền bắc nước Chad ở sa mạc Sahara: Bụi chứa phốt-pho, chất rất quan trọng cho sự phát triển của cây. Lượng bụi Sahara hàng năm thay thế lượng phốt pho tương đương được rửa trôi hàng năm trong đất Amazon từ mưa và lũ lụt trôi đi. Mỗi năm có tới 50 triệu tấn bụi Sahara được thổi bay qua Đại Tây Dương.

Vệ tinh Calipso của NASA đã đo lượng bụi vận chuyển bằng gió từ sa mạc Sahara đến Amazon trung bình 182 triệu tấn bụi mỗi năm và bụi này vượt qua trên 1.600 dặm (2.600 km) trên Đại Tây Dương ở 15 độ về phía tây kinh độ, (một số bụi rơi vào Đại Tây Dương), sau đó ở kinh độ 35 độ tây ở bờ biển phía đông của Nam Mỹ, 27,7 triệu tấn (15%) bụi rơi trên lưu vực Amazon, 132 triệu tấn bụi vẫn còn trong không khí, 43 triệu tấn bụi được thổi gió và rơi xuống biển Caribbean, qua 75 độ kinh tây tây.

Calipso sử dụng một công cụ tia laser để dò khí quyển của Trái đất để phân bố theo chiều dọc của bụi và các chất aerosol khác. Calispso thường xuyên theo dõi bụi Sahara-Amazon. Vệ tinh này cũng đo được sự biến động của lượng bụi vận chuyển: 86% số lượng bụi vận chuyển giảm so với số lượng cao nhất trong năm 2007 và thấp nhất trong năm 2011.

Một khả năng gây ra biến thể đó là Sahel, một dải đất bán khô và hạn hạn ở biên giới phía nam của Sahara. Khi lượng mưa ở Sahel cao hơn, lượng bụi thấp hơn. Lượng mưa cao hơn có thể làm cho thảm thực vật phát triển hơn ở Sahel, để lại ít cát tiếp xúc với gió để thổi bay đi.

Hoạt động của con người

Dựa trên bằng chứng khảo cổ học từ một cuộc khai quật tại động Caverna da Pedra Pintada, con người đầu tiên định cư ở vùng Amazon ít nhất là 11.200 năm trước. Sự phát triển tiếp theo đã dẫn đến các khu định cư cuối thời kỳ tiền sử dọc theo biên giới của rừng vào năm 1250 trước Công nguyên, gây ra sự thay đổi độ che phủ rừng .

Trong một thời gian dài, người ta cho rằng rừng nhiệt đới Amazon chỉ có dân số thưa thớt, vì không thể duy trì một quần thể lớn thông qua nông nghiệp vì chất đất ở đây nghèo khó trồng trọt. Nhà khảo cổ học Betty Meggers là một người đề xướng nổi bật của ý tưởng này, như được mô tả trong cuốn sách của bà với tựa đề “Amazonia: Man and Culture in a Counterfeit Paradise - Amazonia: Con người và Văn hoá trong Thiên đường gỉa tạo”. Bà tuyên bố rằng mật độ dân số là 0,2 người trên mỗi kilômét vuông (0,52 / dặm vuông) là mức tối đa có thể duy trì trong rừng nhiệt đới thông qua việc săn bắn, nông nghiệp cần thiết để duy trì một tập thể lớn hơn.

Tuy nhiên, các phát hiện nhân học gần đây đã gợi ý rằng khu vực này thực sự là dân cư đông đúc. Khoảng 5 triệu người có thể đã sống ở khu vực Amazon vào năm 1500, phân chia giữa các khu định cư ven biển dày đặc, chẳng hạn như ở Marajo và cư dân trong vùng nội địa. Đến năm 1900, dân số đã giảm xuống còn 1 triệu người và vào đầu những năm 1980, con số này là dưới 200.000.

Người châu Âu đầu tiên đi thám hiểm theo chiều dài của sông Amazon là Francisco de Orellana vào năm 1542. Trong phim tgài liệu của BBC nhan đề là “Lịch sử phi tự nhiên - Unnatural Histories” đưa ra bằng chứng cho thấy Orellana không hề phóng đại những tuyên bố của ông như đã từng chính xác trong các quan sát của ông rằng một nền văn minh phức tạp phát triển mạnh dọc theo sông Amazon vào những năm 1540. Người ta tin rằng nền văn minh sau đó bị tàn phá bởi sự lây lan của bệnh tật từ châu Âu, như bệnh đậu mùa smallpox.

Kể từ những năm 1970, nhiều geoglyphs đã được phát hiện trên đất bị phá có niên đại từ năm 1 đến năm 1250 sau Công nguyên, điều này chứng tỏ có các nền văn minh thời tiền Columbô Pre-Columbian. Ondemar Dias được công nhận lần đầu tiên khám phá các geoglyphs (đường vẽ dài trên đất) vào năm 1977 và Alceu Ranzi với các khám phá thêm sau khi ông bay qua giải đất vùng Acre.

Tài liệu phim của BBC đưa ra bằng chứng cho thấy rừng mưa Amazon, không hoàn toàn là hoang dã nguyên sơ, đã được con người định hình trong ít nhất 11.000 năm qua các hoạt động như phá rừng làm vườn và biết sử dụng đất terra preta. Terra preta được tìm thấy trên các khu vực rộng lớn trong rừng Amazon; Và bây giờ được chấp nhận rộng rãi như là một sản phẩm do việc biết sử dụng và quản lý đất bản địa.

Sự phát triển của mảnh đất màu mỡ này cho phép nông nghiệp và sinh thực vật nảy nở trong môi trường trước đây đầy thù địch. Điều này cũng có nghĩa là phần lớn rừng nhiệt đới Amazon có lẽ là kết quả của nhiều thế kỷ trong việc quản lý do con người, thay vì xảy ra tự nhiên như đã từng được giả định trước đây. Trong khu vực của bộ lạc Xingu, những gì đã được tìm thấy từ một số khu định cư lớn ở giữa rừng Amazon vào năm 2003 bởi Michael Heckenberger và các đồng nghiệp của Đại học Florida. Trong số đó có những bằng chứng về đường xá, cầu và các trung tâm lớn.

Đa dạng sinh học

Các khu rừng nhiệt đới ẩm ướt là môi sinh cho nhiều loài sinh vật nhất, và rừng nhiệt đới ở châu Mỹ thường có nhiều loài phong phú hơn rừng ướt ở châu Phi và châu Á. Là vùng rừng nhiệt đới nhiệt đới lớn nhất ở châu Mỹ, rừng nhiệt đới Amazon có tính đa dạng sinh học chưa từng có. 10% trong số những loài sinh vật được biết đến trên thế giới sống trong rừng mưa Amazon. Đây cũng là bộ sưu tập lớn nhất các loài thực vật sống và các loài động vật trên thế giới.

Khu vực này có khoảng 2,5 triệu loài côn trùng, hàng chục ngàn loài thực vật, và khoảng 2.000 loài chim và động vật có vú. Cho đến nay, có ít nhất 40.000 loài cây, 2.200 loài cá, 1.294 loài chim, 427 động vật có vú, 428 loài lưỡng cư và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học trong khu vực.

20% trong tổng số các loài chim trên thế giới sống trong rừng nhiệt đới Amazon, và 20% các loài cá sống ở sông Amazon và suối. Các nhà khoa học đã mô tả giữa 96.660 và 128.843 loài động vật không xương sống trong vùng lưu vực Brazil mà thôi.

Đa dạng sinh học các loài thực vật trên trái đất với một nghiên cứu năm 2001 cho thấy một rừng mưa nhiệt đới Ecuador là cao nhất với khoảng 1 km vuông (62 acres) hỗ trợ hơn 1.100 loài cây. Một nghiên cứu năm 1999 cho thấy một rừng mưa Amazon có thể chứa khoảng 90.790 tấn cây sống.

Cho đến nay, đã có khoảng 438.000 loài thực vật có lợi ích kinh tế và xã hội đã được ghi nhận trong khu vực và còn đang được phát hiện thêm. Tổng số loài cây trong khu vực được ước tính là 16.000.

Rừng mưa nhiệt đới có chứa một số loài vật có thể gây nguy hiểm. Trong số những sinh vật ăn thịt lớn nhất là các con caiman đen, báo đốm, cougar và anaconda. Trên sông, những con lươn điện có thể gây ra sốc gây choáng váng hoặc làm chết người, trong khi cá piranha được biết đến là cắn và gây thương tích cho người. Những loài ếch độc độc khác nhau tiết ra các chất độc kiềm chất lipophilic. Cũng có nhiều ký sinh trùng gây bệnh. Những con dơi ma cà rồng sống trong rừng mưa nhiệt đới và có thể lây lan virut bệnh dại.

Các chứng bệnh như sốt rét, sốt vàng da và sốt Dengue cũng có thể dễ xẫy ra ở khu vực Amazon.

Nạn phá rừng

Nạn phá rừng là việc chuyển đổi các khu vực rừng sang các khu vực không có rừng. Các nguồn chính của nạn phá rừng ở Amazon là con người lập khu định cư và phát triển đất đai. Trước những năm đầu của thập niên 1960, việc tiếp cận với nội địa trong rừng sâu bị hạn chế, và rừng vẫn còn nguyên vẹn. Các trang trại được thành lập trong những năm 1960 dựa trên canh tác mùa màng thu hoạch nông phẩm và với phương pháp chặt và đốt rừng. Tuy nhiên, những dân tới lập nghiệp không thể quản lý đồng ruộng và cây trồng vì sự mất màu của đất và sự xâm lấn của cỏ dại.

Các loại đất ở Amazon có năng suất trồng hiệu quả chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, do đó nông dân liên tục di chuyển đến các khu vực mới và giải phóng mặt bằng. Những hoạt động nuôi trồng này đã dẫn đến nạn phá rừng và gây ra những thiệt hại về môi trường nghiêm trọng. Nạn phá rừng xẩy ra đáng kể, và các khu vực trống rừng có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ các máy bay hay vệ tinh không gian bên ngoài.

Trong những năm 1970, việc xây dựng bắt đầu trên xa lộ Trans-Amazonian. Đường cao tốc này là một mối đe dọa lớn đối với rừng mưa Amazon. May mắn cho rừng nhiệt đới, đường cao tốc đã không được hoàn thành, nhờ đó giảm thiểu thiệt hại về môi trường.

Từ năm 1991 đến năm 2000, tổng diện tích rừng bị mất ở Amazon đã tăng từ 415.000 lên 587.000 cây số vuông (160.000 đến 227.000 dặm vuông), với phần lớn rừng bị mất đã trở thành đồng cỏ cho gia súc. 70% diện tích đất rừng trước đó ở Amazon, và 91% đất bị tàn phá từ năm 1970, được sử dụng cho chăn nuôi gia súc.

Hiện tại, Brazil là nước sản xuất đậu nành lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nghiên cứu mới do Leydimere Oliveira và các cộng sự tiến hành đã chỉ ra rằng rừng mưa nhiệt đới được ghi nhận ở Amazon, lượng mưa ít hơn đến khu vực này và do đó làm cho sản lượng trên mỗi hecta thấp hơn. Vì vậy, đã không có lợi thế về kinh tế đối với Brazil từ việc khai thác các khu rừng nhiệt đới và chuyển đổi chúng sang các lĩnh vực chăn nuôi.

Nhu cầu của người trồng đậu nành đã được sử dụng để biện minh cho nhiều dự án giao thông gây tranh cãi hiện đang phát triển ở Amazon. Hai tuyến đường cao tốc đầu tiên đã thành công mở ra rừng nhiệt đới và dẫn đến sự sụt giảm và phá rừng gia tăng. Tỷ lệ nạn phá rừng năm trung bình năm 2000-2005 (22.392 km2 hoặc 8.646 sq dặm / năm) cao hơn 18% so với năm năm trước (19.018 km2 hoặc 7.343 sq dặm / năm). Mặc dù nạn phá rừng đã giảm đáng kể ở Amazon giữa năm 2004 và năm 2014, nhưng đã có sự gia tăng cho đến ngày nay.

Bảo tồn và biến đổi khí hậu

Các nhà môi trường đang quan tâm đến việc mất đa dạng sinh học do phá rừng, cũng như về việc giải phóng chất carbon chứa trong thực vật, có thể đẩy nhanh độ ấm lên toàn cầu. Rừng xanh ở Amazon chiếm khoảng 10% năng suất sơ cấp của mặt đất và 10% lượng carbon trong các hệ sinh thái - theo thứ tự là 1.1 × 1011 tấn các-bon. Rừng Amazon ước tính đã tích lũy được 0,62 ± 0,37 tấn carbon mỗi hecta một năm giữa năm 1975 và năm 1996.

Một mô hình máy tính về biến đổi khí hậu trong tương lai do phát thải khí nhà kính cho thấy rừng nhiệt đới Amazon có thể trở thành không bền vững trong điều kiện giảm lượng mưa và nhiệt độ tăng lên dẫn tới sự mất mát toàn bộ rừng nhiệt đới trong lưu vực vào năm 2100. Tuy nhiên, mô phỏng sự thay đổi khí hậu ở lưu vực sông Amazon qua nhiều mô hình khác nhau không đồng nhất trong việc ước lượng bất kỳ sự phản ứng mưa nào, từ sự gia tăng yếu đến giảm mạnh. Kết quả cho thấy rằng rừng nhiệt đới có thể bị đe dọa mặc dù thế kỷ 21 do thay đổi khí hậu và nạn phá rừng.

Khi các vùng lãnh thổ bản địa tiếp tục bị phá hủy bởi nạn phá rừng và sinh thái, ví dụ như ở các cộng đồng rừng nhiệt đới Amazon ở Peru, các cộng đồng rừng nhiệt đới bản địa vẫn tiếp tục biến mất, trong khi những nơi khác, như ở Urarina tiếp tục đấu tranh để giành lấy sự sống còn về văn hoá và số phận của họ trong rừng rậm. Trong khi đó, mối quan hệ giữa động vật linh trưởng (khỉ, đười ươi…) không phải là con người trong sự tồn tại các dân tộc thiểu số bản xứ ở Nam Mỹ đã được quan tâm nhiều hơn, cũng như các nỗ lực bảo tồn dựa vào sinh học và sinh học dựa vào cộng đồng.

Từ năm 2002 đến năm 2006, diện tích đất bảo tồn ở rừng nhiệt đới Amazon đã tăng gần gấp ba lần và tỷ lệ phá rừng đã giảm xuống 60%. Khoảng 1.000.000 kilômét vuông (250.000.000 mẫu Anh) đã được đưa vào một số loại bảo tồn, với tổng diện tích hiện tại là 1.730.000 km2 (430.000.000 mẫu Anh).

Một nghiên cứu năm 2009 cho thấy rằng sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu lên 4oC vào năm 2100 sẽ giết chết 85% rừng nhiệt đới Amazon trong khi nhiệt độ tăng 3oC sẽ giết chết khoảng 75% lượng Amazon.

Viễn thám

Việc sử dụng dữ liệu từ các máy đo nhiệt cảm ứng từ xa đang làm tăng đáng kể kiến thức của các nhà bảo tồn về lưu vực Amazon. Với tính khách quan và giảm chi phí phân tích độ che phủ mặt đất trên vệ tinh, dường như công nghệ viễn thám sẽ là một phần không thể tách rời trong việc đánh giá mức độ và thiệt hại của nạn phá rừng ở lưu vực. Hơn nữa, viễn thám là tốt nhất và có lẽ cách duy nhất để nghiên cứu Amazon trên quy mô lớn.

Việc sử dụng viễn thám để bảo tồn Amazon cũng đang được các bộ lạc bản địa sử dụng để bảo vệ vùng đất bộ lạc của họ khỏi các lợi ích thương mại. Sử dụng các thiết bị GPS cầm tay và các chương trình như Google Earth, thành viên của Trio Tribe, những người sống trong các rừng nhiệt đới ở phía nam Suriname, lập bản đồ các vùng đất tổ tiên của họ để giúp củng cố các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của họ. Hiện nay, hầu hết các bộ lạc ở Amazon không có ranh giới rõ ràng, làm cho các dự án thương mại dễ dàng nhắm lãnh thổ của họ làm mục tiểu chiếm đoạt.

Để xác vẽ và định hình chính xác lượng sinh sống của Amazon và lượng phát thải liên quan đến carbon, việc phân loại các giai đoạn phát triển cây trong các phần khác nhau của rừng là rất quan trọng. Năm 2006, Tatiana Kuplich đã tổ chức các loại cây cối của Amazon thành bốn loại: (1) rừng trưởng thành, (2) rừng tái sinh (chưa đến ba năm), (3) rừng tái sinh (từ 3 đến 5 năm tái sinh) và (4 ) Tái sinh rừng [từ mười một đến mười tám năm tiếp tục phát triển]. Nhà nghiên cứu đã sử dụng một radar khẩu độ tổng hợp (SAR) và Thematic Mapper (TM) để đặt chính xác các phần khác nhau của Amazon thành một trong bốn loại phân loại.

Tác động của hạn hán Amazon ở đầu thế kỷ 21

Năm 2005, một phần của lưu vực sông Amazon đã trải qua đợt hạn hán tồi tệ nhất trong một trăm năm, và có những dấu hiệu cho thấy năm 2006 có thể là năm thứ hai liên tiếp hạn hán. Một bài báo ngày 23 tháng 7 năm 2006 trên tờ The Independent bên Anh quốc đã báo cáo kết quả do Trung tâm Nghiên cứu Woods Hole cho thấy rừng ở dạng hiện tại có thể tồn tại chỉ trong ba năm hạn hán. Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Amazon ở Brazil đã đưa ra luận cứ cho rằng phản ứng hạn hán này, cùng với những ảnh hưởng của nạn phá rừng đối với khí hậu khu vực đang đẩy rừng nhiệt đới hướng tới một điểm "đỉnh điểm", nơi nó sẽ không thể quay trở lại. Họ kết luận rằng rừng đang trên bờ vực biến thành savanna hoặc sa mạc, với hậu quả thảm khốc cho khí hậu của thế giới.

Theo Quỹ Thế giới vì Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature), sự kết hợp sự thay đổi khí hậu và nạn phá rừng làm tăng tác động làm khô của cây chết gây cháy rừng.

Trong năm 2010 rừng nhiệt đới Amazon đã trải qua một đợt hạn hán nghiêm trọng, theo một số cách khắc nghiệt hơn hạn hán năm 2005. Các khu vực bị ảnh hưởng là khoảng 1.160.000 dặm vuông (3.000.000 km2) của rừng nhiệt đới, so với 734.000 dặm vuông (1.900.000 km2) trong năm 2005. Hạn hán năm 2010 đã ba chấn tâm nơi cây cối chết hết, trong khi vào năm 2005, hạn hán đã được tập trung vào các vùng phía tây nam. Các phát hiện được công bố trên tạp chí Science. Trong một năm tiêu biểu, Amazon hấp thụ 1,5 gigatons carbon dioxide; trong năm 2005 thay vì 5 gigatons đã được phát ra và trong năm 2008 gigatons đã được giải phóng vào khí hậu.