Tuần Thánh: Tìm lại ý nghĩa của đau khổ trong nhãn quan Tân Ước

1. Khái niệm đau khổ
2. Đau khổ trong nhãn quan Tân Ước
  • Đau khổ – cuộc ngã giá vì Sự Thật
  • Đau khổ – bài học của vâng phục
  • Đau khổ – biểu chứng của tình yêu
  • Đau khổ – mảnh đất tràn trề ân sủng
  • Đau khổ là niềm hy vọng
  • Đau khổ là niềm vui
  • Đau khổ là niềm hạnh phúc
  • Đau khổ là lộ trình dẫn tới vinh quang

1. Khái niệm đau khổ

“Đau khổ” là từ ngữ rất thông thường, gắn trên môi miệng của con người trong cuộc sống hằng ngày. Thế nhưng, để hiểu được một cách tương đối đầy đủ cả về cả ngoại diên và nội hàm của nó, ta không đơn giản dừng lại ở câu nói cửa miệng.

Nhìn từ góc độ ngôn ngữ, “đau khổ” là một từ ghép bởi hai từ “đau” và “khổ”. Đây là hạn từ nhằm diễn tả con người ở một trạng thái tinh thần, tình cảm bị giày vò và đau đớn và rất khó chịu. Như thế, hạn từ “đau khổ” thường được hiểu ở khía cạnh tinh thần hơn là vật chất.

Dưới cái nhìn của triết học, xem ra khái niệm “đau khổ” được hiểu một cách rộng rãi hơn. Từ điển triết học định nghĩa đau khổ là trạng thái khó chịu khi một khuynh hướng không được thỏa mãn. Đau khổ, trong chiều kích này, được nhìn nhận cả về khía cạnh vật chất lẫn tinh thần. Đau khổ vật chất là cảm giác khó chịu do kích thích ngoại giới truyền lan vào thân xác hay tâm lý. Đau khổ tinh thần là những tình cảm khó chịu do tâm lý gây ra. Trên thực tế, đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần có một mối tương quan biện chứng. Khi ta rơi vào trạng thái đau khổ vật chất thì tinh thần cũng không là nhân tố ngoài cuộc hay dửng dưng, và ngược lại.

Nhìn chung, đau khổ không phải là khái niệm quá trừu tượng bởi nó gắn liền với sinh mệnh con người. Lịch sử nhân loại đã không ngừng suy tư và tìm lời giải cho vấn nạn đau khổ nhưng có lẽ cũng chỉ là những cuộc phiêu lưu không hồi kết. Một cái nhìn ngang qua Kinh Thánh Tân Ước, phải chăng ta sẽ tìm được chìa khóa cho bài toán về vấn nạn đau khổ?

2. Đau khổ trong nhãn quan Tân Ước

Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy đã có một thời đạo lý cổ truyền tin rằng đau khổ là hình phạt bởi tội. Điều này đồng nghĩa với việc người ta xem đau khổ là lời chúc dữ đến từ Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh ông Gióp, người công chính, cũng phải đau khổ, là dấu chứng để đặt lại vấn đề. Trong nhãn quan của Kinh Thánh Tân Ước, đau khổ được mặc lấy những giá trị mới mẻ và xác thực của nó.

2.1 Đau khổ – cuộc ngã giá vì Sự Thật

Nước Trời không giống như hàng hóa trao đổi, trả giá, lại càng không một thực tại nào có thể sánh bằng. Nhưng đường vào Nước Trời là con đường hẹp, đòi hỏi mọi công dân phải hy sinh đúng tầm mức. Trong Tin Mừng theo Mát-thêu, Chúa Giê-su đã từng nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10,34). Đây là lời dường như đã hàm ẩn một viễn cảnh về cái giá phải trả vì Nước Trời. Và quả thực, để “chiếm hữu” được Sự Thật, được Nước Trời, con người phải đánh đổi bằng đau khổ. Trong bài giảng về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su đã minh định: “Nhưng trước khi tất cả các sự việc ấy xẩy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy” (Lc 21,12). “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu” (Lc 21,17-18). Ở biến cố Đa-mát, Chúa Giê-su đã nói với Kha-na-ni-a về Sao-lô: “Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta” (Cv 9,16). Khởi điểm đức tin, Phao-lô đã phải nếm mùi đau khổ: “suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống” (Cv 9,9) và còn được tiên báo về một tương lai đầy gian lao thử thách. Và cũng chính Phao-lô đã nghiệm được cái giá của Nước Trời khi mình phải đau khổ: “ Thật thế tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em” (2 Cr 2,4). Trong niềm xác tín, Phao-lô không còn so đo về sự được mất giữa đau khổ và Sự Thật nhưng như là một cuộc ngã giá, nghĩa là không còn phải mặc cả mà là một niềm tin tưởng, hy vọng vì Danh Đức Giê-su Ki-tô. Trong thư gửi ông Ti-mô-thê, Phao-lô nhấn mạnh niềm xác tín ấy trước sứ vụ đã được mời gọi: “Chính vì những lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó” (2 Tm 1,12). Thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-ri-tô cũng viết: “Vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6,20). Niềm hy vọng dường như đã chiếm hữu Phao-lô tiếp sức thắng vượt tất cả mọi rào cản vì chính ông đã ý thức được giá trị của Nước Trời: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng, những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Được chịu đau khổ vì Sự Thật còn là một mối phúc: “Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người” (Pl 1,29). Thư thứ nhất của Phê-rô cũng viết: “Nếu có ai phải chịu đau khổ vì danh hiệu Ki-tô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó” (1 Pr 4,16).

Như thế, ý nghĩa đau khổ trong nhãn quan Tân Ước không dừng lại ở chính chủ thể đau khổ nhưng là một chiều hướng đi tới. Đau khổ trong cái nhìn này có một lý do quý giá và mang một mục đích cao cả. Đau khổ là vì Danh Đức Giê-su Ki-tô, đau khổ để xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa như Phao-lô đã khẳng định: “Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ” (2 Tx 1,5).

2.2 Đau khổ – bài học của vâng phục

Đau khổ và vâng phục là hai phạm trù dường như không mấy liên hệ. Đau khổ diễn tả trạng thái, còn vâng phục lại ở thái độ, hành vi. Vậy, tại sao đau khổ lại có thể là bài học của vâng phục?

Đau khổ, trong nhãn quan của Tân Ước, như là cái giá để đổi lấy Nước Trời nhưng đau khổ cũng biểu lộ thái độ vâng phục. Tin Mừng đã thuật lại một cách chân tình, trong đau khổ cực độ, Chúa Giê-su đã kêu lên thảm thiết nhưng vẫn một mực theo Thánh Ý Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo như con muốn, mà theo như Cha muốn” (Mt 26,39), “lạy Cha, nếu con phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin cho ý Cha thể hiện”(Mt 26,42). Những lời này chứng thực tình yêu giữa Con và Cha qua sự vâng phục, đồng thời cũng xác nhận Đức Ki-tô đã chịu đau khổ thực sự. Là con người, Chúa Giê-su cũng mang lấy tất cả những nỗi khổ đau của kiếp người. Nơi Người, quy tụ mọi khổ đau của nhân thế và khổ đau ấy được đẩy lên tới tột đỉnh. Trong truân chuyên cực độ nhưng Người vẫn không buông xuôi, bỏ cuộc vì Thánh Ý Cha còn quý hơn gấp ngàn lần. Chúa Giê-su ý thức được giá trị của vâng phuc và sẵn sàng tín thác trong Thánh Ý Cha. Tin Mừng Gio-an cho thấy Chúa Giê-su ý thức được sức mạnh cứu độ của đau khổ: “Thiên Chúa yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16) nên đã dấn bước tới đau khổ của mình, dấn bước trong sự vâng phục Chúa Cha. Chúa Giê-su biết trước lộ trình Người đi đầy đau khổ, chết chóc nhưng vẫn dấn thân để ý Cha được trọn hảo nơi mình. Sự dấn thân như thế là một cuộc mạo hiểm và nếu không có sức mạnh của tình yêu thì khó đủ can đảm tiến tới. Bí quyết của Chúa Giê-su để hóa giải mọi tình thế chính là yêu.

Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, Phao-lô đã diễn tả bài ca tuyệt diệu về Chúa Giê-su trong thái độ khiêm hạ và vâng phục như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (Pl 2,6-9)

Là Thiên Chúa nhưng Chúa Giê-su đã tự hạ mình làm kiếp phàm nhân, “mặc lấy thân nô lệ”. Điều này chứng thực Chúa Giê-su đã tình nguyện mặc lấy khổ đau để biểu lộ thái độ vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, “vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” vì tình yêu. Nói như thế, phải chăng trong nội tại Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Giê-su thiếu cách thế để biểu lộ thái độ vâng phục với Chúa Cha? Thực ra, nơi Thiên Chúa sự vâng phục đã là hoàn hảo rồi. Cách thế Chúa Giê-su tự hạ và vâng phục trong kiếp phàm nhân là để làm mẫu gương, làm bài học cho con người. Thư thứ nhất của Phê-rô cũng viết: “Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,21-23). Thư gửi Ga-lát đã viết rằng: “Để cứu chúng ta thoát khỏi cõi đời xấu xa hiện tại, Đức Giê-su Ki-tô đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha chúng ta” (Gl 1,4). Thư gửi tín hữu Do Thái cũng minh định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Như vậy, đau khổ cho ta kinh nghiệm và hiểu biết về cái giá của vâng phục. Chỉ có trong đau khổ, người ta mới cảm được thế nào là sống vâng phục.

Tân Ước đã khoác thêm cho đau khổ chiếc áo thật ý nghĩa để diễn tả thái độ vâng phục. Đau khổ mà chính Chúa Giê-su chịu và chịu trong thái độ vâng phục là mẫu gương tuyệt hảo vượt không gian và thời gian.

2.3 Đau khổ – biểu chứng của tình yêu

Người ta vẫn thường nói có yêu mới biết thế nào là đau khổ. Trong tình yêu có quả ngọt nhưng cũng đầy nước mắt. Hơn đâu hết, Kinh Thánh Tân Ước chất chứa một tình yêu nhưng không, vô biên của Thiên Chúa. Chính vì yêu mà Chúa Giê-su đã đến trong thế gian và hiến mạng vì nhân loại. Nói cách khác, những đau khổ mà Chúa Giê-su đã chịu là biểu chứng cho tình yêu, tình yêu đối với Chúa Cha và yêu thương con người.

Như đã đề cập trên đây, Chúa Giê-su biết trước con đường thập giá nhưng Người vẫn tiến tới, tiến tới trong sự vâng phục và vì tình yêu. Có thể nói rằng chính tình yêu hướng dẫn Chúa Giê-su đến với thập giá. Trong lời nguyện cùng Chúa Cha, Chúa Giê-su đã nguyện rằng: “Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19). Chúa Giê-su hiến tế chính mình không phải để vinh danh Người nhưng để làm giá chuộc muôn loài vì yêu. Cuộc nhập thể sống kiếp phàm nhân của Chúa Giê-su đã là một phép mầu của tình yêu. Đặc biệt, cuộc thương khó Chúa Giê-su chịu bắt bớ, sỉ nhục, bạt tai, khạc nhổ, phẩm giá của tù nhân bị khinh miệt, bị xử án bất công, bị đánh đòn, đội mão gai, chế nhạo, vác thập giá, đóng đinh, hấp hối và chết trên cây thập giá đã trở nên biểu chứng hùng hồn nhất cho tình yêu. Trong Tin Mừng Gio-an, Chúa Giê-su đã nói đến giá trị của đau khổ vì yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Hy sinh, đau khổ vì người khác là biểu lộ, là bằng chứng thuyết phục nhất và cao cả nhất cho tình yêu. “Thiên Chúa yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3,16). Thiên Chúa ban Con Một Ngài để nhờ Con Ngài mà thụ tạo con người được chia sẻ thần tính, được sự sống đời đời. Phao-lô đã diễn tả hình ảnh Con Một Thiên Chúa tự hiến chính mình vì Hội Thánh rằng: “Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,24-25). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, Phao-lô cũng đã viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Thiên Chúa yêu con người đến độ đã trao nộp cả Con Một Ngài. Điều này có nghĩa Thiên Chúa tình nguyện trở nên vật hiến tế vì yêu chúng ta. Chính Chúa Giê-su đã tự nhận mình là tội nhân, cho dù Người không hề phạm tội, nộp mình trong tay kẻ dữ xét xử. Có thể nói rằng vụ án Giê-su là vụ án bất công nhất trong lịch sử nhân loại. Câu danh ngôn “tình yêu là cái khôn của người dại, là cái dại của người khôn” nghe có vẻ ngược đời nhưng quả thực là có cơ sở. Người ta có thể chất vấn Thiên Chúa: Để biểu lộ tình yêu, Thiên Chúa có nhiều cách thế, tại sao Thiên Chúa lại chọn con đường thập giá? Thiên Chúa, như thế, đã chẳng dại khờ hay sao? Trong lý luận của con người, Thiên Chúa đã trở nên điên dại. Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1,25). Thiên Chúa đã dành tình yêu tuyệt đối cho nhân loại và cứu nhân loại bằng cách thế hoàn hảo nhất và cao siêu nhất, đó là con đường thập giá. Chính tình yêu đã khơi lên một ước muốn đón nhận cuộc khổ nạn, vì khổ nạn là biểu chứng đáng tin cậy nhất của tình yêu. “Tình yêu đã làm cho Chúa Giê-su có can đảm để quy hướng cuộc đời, tư tưởng và hành động của Người về giờ của đau khổ”.

Đau khổ của Chúa Giê-su là tuyệt đỉnh và cái chết của Người là bằng chứng tối thượng của tình yêu. Mẫu gương tuyệt hảo ấy đã được các môn đệ (những chứng nhân Tin Mừng) của Người chia sẻ. Phao-lô, trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Cô-rin-tô viết rằng: “ Thật thế tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em” (2 Cr 2,4). Như thế, đau khổ là dấu chỉ biểu đạt tình yêu. Điểm đến chính là tình yêu và mục đích này quy hướng mọi hành động về nó. Yêu là trên hết và tất cả chỉ là lệ thuộc và thứ yếu mà thôi. Cũng vì tình yêu, các chứng nhân Tin Mừng còn hãnh diện và phấn khởi khi được chịu đau khổ vì người khác. Phao-lô nói rằng: “Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).

Như vậy, trong cái nhìn của Giao Ước mới, đau khổ là phương tiện hữu hiệu và cần thiết để làm biểu chứng cho tình yêu. Thiên Chúa đã chấp nhận trao Con Một Ngài vì tình yêu. Chúa Giê-su đã mượn con đường đau khổ để biểu lộ tình yêu với Chúa Cha và với nhân loại. Các chứng nhân Tin Mừng đã học được bài học đau khổ vì yêu nơi Đức Giê-su Ki-tô. Đau khổ, vì thế, đã được nâng lên một vị thế mới.

2.4 Đau khổ – mảnh đất tràn trề ân sủng

Chết và đau khổ vốn được xem là hai kẻ thù không đội trời chung của kiếp sống nhân loại. Ai ai cũng mang trong mình ước muốn thoát khỏi đau khổ và tìm mọi cách trốn chạy nó. Một thực tại đáng sợ như thế, tại sao lại có thể là mảnh đất tràn trề ân sủng? Chẳng lẽ giáo lý Đức Giê-su là liều thuốc phiện ru ngủ nhân dân như Marx đã tuyên phán?

Giáo lý Phật Giáo vẫn thường nói: cuộc đời là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn đại dương. Điều này có nghĩa đau khổ là một thực tại hiển nhiên của cuộc sống con người. Chúa Giê-su đến “không hủy bỏ đau khổ nhưng Người an ủi kẻ đau khổ”: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5,5). Tân Ước cho thấy đau khổ không còn là hình phạt như Cựu Ước nhưng là mảnh đất tràn trề ân sủng của Thiên Chúa. Đau khổ không còn là thất vọng nhưng là chan chứa niềm hy vọng. Đau khổ không còn là nỗi u sầu nhưng là tràn ngập niềm vui. Đau khổ không còn là nỗi bất hạnh nhưng là hạnh phúc vô biên. Và đau khổ không còn là vô nghĩa nhưng đem đến cuộc sống vĩnh hằng.

2.4.1 Đau khổ là niềm hy vọng

Kinh Thánh Tân Ước đã tô thêm cho đau khổ một nét đẹp mới khi diễn tả ở chiều kích niềm hy vọng. Chúa Giê-su đã từng nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25). Hạt lúa gieo vào lòng đất mà “chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Khi hạt lúa chết đi cũng chính là hứa hẹn một mùa bội thu tương lai. Cũng thế, chính đau khổ đã tiềm tàng về một niềm hy vọng cho tương lai trổ sinh hoa trái. Ở một đoạn khác, Chúa Giê-su còn nhấn mạnh: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”(Ga 16,33). Một lời quả quyết đảm bảo niềm hy vọng cho những ai cùng đau khổ với Đức Ki-tô. Đức Ki-tô là Đấng chiến thắng đau khổ. Chính Đức Giê-su đã tình nguyện đi vào con đường đau khổ (cho dù đã biết trước) bằng tất cả niềm hy vọng: nhờ đau khổ sẽ tuôn trào ân sủng cho nhân loại. Chiến thắng của Đức Giê-su Ki-tô trước đau khổ và cái chết là đích điểm vững chắc nhất cho tất cả mọi đợi chờ của con người trong đau khổ. Các chứng nhân đau khổ cũng đã thấm thía bài học về niềm hy vọng mà thầy Giê-su để lại. Phao-lô đã viết trong thư gửi giáo đoàn Phi-líp-phê rằng: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, Phao-lô cũng viết:

Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta (Rm 5,3-5).

Thư gửi tín hữu Do-thái còn nhấn mạnh rằng: “Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững…Vậy anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao” (Dt 10,34-35). Phê-rô, trong thư thứ nhất, cũng viết: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai” (1 Pr 5,1). Như thế, cái gốc của niềm hy vọng là ở lòng tin. Lòng tin là nguồn lực chủ đạo thắp sáng niềm hy vọng cho những ai trầm luân trong đau khổ vì “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Phần thưởng lớn lao dành cho những ai đau khổ biết đặt hy vọng vào Đức Ki-tô là đích điểm vững chắc trên lộ trình hướng về Trời Mới Đất Mới như sách Khải huyền đã khẳng định: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

2.4.2 Đau khổ là niềm vui

Đau khổ là niềm vui. Kiểu nói này xem ra thiếu logic và nghe lạ tai. Nhưng thực tế Tin Mừng vẫn là những nghịch lý như vậy. Trong Tin Mừng Gio-an, trước giờ chịu nạn Chúa Giê-su nói với các tông đồ rằng: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (Ga 16,16). Trước giờ bước vào cuộc thương khó là những giây phút giày vò tâm can Chúa Giê-su. Người cũng đau khổ, day dứt lại còn đau khổ hơn khi không nhận được sự chia sẻ của những người thân tín là các tông đồ. Nên khi Người nói “ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” là câu nói trong tâm trạng đau đớn nhưng Người vẫn nghĩ đến niềm vui của cuộc trở lại. Điều này chứng tỏ ngay trong đau khổ đã mang mầm mống của niềm vui. Cũng trong bối cảnh trước giờ thương khó, Chúa Giê-su đã tiên báo cho các tông đồ về đau khổ sẽ là niềm vui: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20). Rồi Chúa Giê-su nói tiếp: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16,21-22). Như thế, chính đau khổ tác tạo người mới và đó là một niềm vui khôn tả. Đức Ki-tô cũng vậy, nhờ cuộc khổ nạn của Người, Người đã tác tạo một dân mới, một nhân loại mới. Đó không chỉ là niềm vui cho cuộc đời ngắn ngủi trần gian nhưng còn là niềm vui vĩnh cửu của những ai được tái sinh trong Đức Ki-tô. Thư thứ nhất của Phê-rô có đoạn viết: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (1 Pr 4,13). Như vậy, đau khổ không còn là lời than thân trách phận nhưng quả thực là niềm hân hoan sung sướng vì cùng được đau khổ với Đức Ki-tô.

2.4.3 Đau khổ là niềm hạnh phúc.

Đau khổ vốn đem đến một niềm vui khôn tả, như thế đã là hạnh phúc rồi. Nhưng Tân Ước không dừng lại ở đó. Tân Ước còn nhấn mạnh hơn về chiều kích thâm sâu của hạnh phúc.

Nếu như Cựu Ước thường đồng nhất giữa đau khổ và sự dữ thì Tân Ước lại nhìn ở một chiều kích tích cực hơn. Chính Chúa Giê-su đã không coi đau khổ như một vận số bất hạnh hay một tai nạn đáng tiếc. Mà trái lại, Người coi đau khổ như một thực tại tuyệt vời của đời sống trần gian. Khi Đức Giê-su loan báo trước Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người, Đức Giê-su đã nói rằng: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). Đau khổ chính là niềm vinh hạnh, là mãnh lực lôi cuốn Đức Giê-su. Chính vì đau khổ, vì giờ định mệnh ấy mà Người đến trần gian. “Người đã muốn sống để mà chết”. Lời giáo huấn trọng tâm của Tin Mừng cũng chính là Tin Mừng về đau khổ, đó là các mối phúc. Mát Thêu đã ghi lại lời chúc phúc của Chúa Giê-su: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5,5); “phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12). Trong tám mối phúc, Chúa Giê-su đã dành riêng hai mối phúc cho đau khổ. Còn Theo Lu-ca, trong bài giảng về các mối phúc, Chúa Giê-su đều nói tới phúc của đau khổ như sau:

Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao (Lc 6,20-23).

Cho dù có những mối phúc không trực tiếp nói tới từ đau khổ nhưng Chúa Giê-su cho thấy cái phúc dành cho tất cả những ai gặp gian truân khốn khó. Đó là phúc của cái nghèo, phúc của cái đói, phúc của giọt nước mắt và khi bị người ta sỉ vả, oán ghét. Chúa chúc phúc cho những ai mà người đời xem là vô phúc. Điều này xem ra đi ngược với hiện sinh của con người. Thế nhưng chính cái nghịch lý này lại là hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vĩnh hằng.

Hơn ai hết, các chứng nhân của Tin Mừng là những người đầu tiên cảm được phúc đau khổ mà Chúa Giê-su đã dạy. Trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, Phao-lô nói trong niềm hân hoan rằng: “Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi” (2 Cr 1,5). Và cũng “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Được chỉa sẻ đau khổ của Đức Ki-tô là một hạnh phúc bất diệt. Đau khổ không là những mất mát và phi lý nhưng là điều kiện để cùng được chung hưởng vinh quang với Đức Ki-tô. Vì thế, Phao-lô vẫn luôn mong ước các tín hữu của mình biết chịu đựng theo mẫu gương tuyệt vời của Đức Ki-tô: “Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Ki-tô” (2 Tx 3,5). Phao-lô đã xác tín niềm hạnh phúc lớn lao ấy và quả quyết rằng: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4,17). Đối với Phao-lô, sống là Đức Ki-tô. Đức Ki-tô chính là máu thịt, là hơi thở cho cuộc sống của con người lãnh hội được ý nghĩa của đau khổ như Phao-lô. Hạnh phúc ấy được tuôn trào nơi Phao-lô trên từng bước chân rao giảng về thập giá và vinh quang thập giá của Đức Ki-tô. Dường như Phao-lô đã không biết mệt mỏi trên những hành trình đầy cam go trong sứ vụ được mời gọi, không còn sợ hãi trước một thế lực trần gian nào. Đức Ki-tô là tất cả cho cuộc đời của Phao-lô “vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).

Ta có thể nói rằng, Tin Mừng là tin mừng về đau khổ. Bởi lẽ ngay chính trọng tâm giáo huấn của Tin Mừng, Chúa Giê-su đã dành để nói về cái phúc của đau khổ. Đau khổ, như thế, đã hoàn toàn vượt trên tất cả những gì mà Cựu Ước nhìn nhận và cũng loại bỏ những gì do chính từ ngữ gợi ra. Đau khổ không còn là nỗi ám ảnh cho cuộc lữ hành trần thế nhưng là một lời chúc phúc đầy hứa hẹn và không kém phần hấp dẫn. Đó là một mối phúc mang tầm vóc lớn cho những ai biết cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô vì “Nước Trời là của họ”

2.4.4 Đau khổ là lộ trình dẫn tới vinh quang

Đau khổ có thể diễn giải ở nhiều góc độ: là cuộc ngã giá, là bài học vâng phục, là biểu chứng tình yêu, là niềm hy vọng, là niềm vui và hạnh phúc,…nhưng tất cả đầu quy hướng về ơn cứu độ. Ơn cứu độ là điểm đến, là đích điểm cho cho mọi khổ đau của con người khi cùng hiệp thông vào mầu nhiệm đau khổ của Đức Ki-tô. Mọi nẻo đường cho dù xa xôi và hoa lệ đến mấy cũng nhằm tới cùng đích là vinh quang Thiên Chúa.

Kinh Thánh Tân Ước diễn tả vinh quang không phải một thứ man-na từ trời xuống nhưng hệ tại ở điều kiện nhất định. Điều kiện đó chính là đau khổ. Chúa Giê-su, cho dù là Thiên Chúa, vẫn không xem lộ trình này như là ngoại lệ cho mình. Tin Mừng Mát-thêu nói rõ: “Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Tin Mừng Mát-thêu nói đến ba lần Chúa Giê-su loan báo trước cuộc thương khó của Người. Điều này chứng tỏ Chúa Giê-su hoàn toàn tự nguyện và cho thấy đây cũng là kế hoạch đời đời của Thiên Chúa. Mác-cô cũng minh định: “Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Tin Mừng Lu-ca cũng nói rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Lc 9,22). Khi nói về Ngày của Con Người, ngày Đức Ki-tô quang lâm, Lu-ca còn nhấn mạnh hơn về điều kiện phải có: “Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ” (Lc 17,25). Cả ba Tin Mừng đều nhắc lại điều kiện để đạt tới vinh quang như là một khẳng định vững chắc về chân lý. Chính Chúa Giê-su đã loan báo điều này trước về Người cho các môn đệ là Người sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Sự Phục Sinh cũng chính là vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện. Đây là giáo huấn Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ và chính Người đã thực thi chân lý này một cách triệt để là chịu đau khổ, chịu chết và Phục Sinh vinh hiển.

Phao-lô đã diễn tả lộ trình này như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.(Pl 2,8-9)

Đau khổ là lộ trình đem tới ơn cứu độ. Đó là một chân lý: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Các chứng nhân Tin Mừng đã thẩm thấu quy luật này khi cùng được đau khổ với Đức Ki-tô. Sách Công vụ Tông đồ đã khẳng định: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22). Thư thứ nhất của Phê-rô đã nói về anh em mình: “Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các ngài, đã báo trước những đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau những đau khổ đó, nên các ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó xẩy ra vào thời nào, trong hoàn cảnh nào” (1 Pr 1,11). Thư Do-thái thì viết: “Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững…Vậy anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao” (Dt 10,34-35). Riêng Phao-lô đã đề cập chân lý về đau khổ một cách mạnh mẽ khi minh chứng Thiên Chúa phải trả giá đắt để cứu độ con người, cũng là để con người được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa: “Vì Thiên Chúa đã Trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6,20). “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Niềm xác tín vào đau khổ đem lại ơn cứu độ được Phao-lô diễn tả: “Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su chỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được chỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (2 Cr 4, 14). Chính trong niềm xác tín ấy, Phao-lô đã được tiếp sức một cách kỳ diệu khi phải chịu đau khổ:

Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xac phải chết của chúng tôi (2 Cr 4, 8-11).

Lộ trình đau khổ dẫn tới vinh quang là chân lý hiển nhiên được Tin Mừng nhắm tới như là mục đích tối hậu. Giá trị mang tầm vóc vĩ đại của đau khổ chính là đau khổ đưa tới vinh quang - ơn cứu độ. Cả cuộc đời Chúa Giê-su và giáo huấn của Người đều quy chiếu về điểm này. Chúa Giê-su, dù nhiệt tình rao giảng, dù lăn xả trên khắp mọi nẻo đường Palestina để đồng cam cộng khổ với con người, dù là một phút nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc…cũng là vì ơn cứu độ cho con người. Đặc biệt, cuộc thương khó và cái chết của Người đã bộc lộ tất cả tình yêu mãnh liệt Thiên Chúa dành cho nhân loại, vì muốn cứu độ nhân loại và cũng “chính vì giờ này mà con đã đến” (Ga 12,27). Vì ơn cứu độ, Thiên Chúa có thể làm tất cả, cho dù phải sống kiếp nô lệ, trở nên như tội nhân để mặc con người xét xử. Và “vì bản thân người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,18). J. Galot, trong tác phẩm Đấng chiến thắng nhờ đau khổ, đã viết: “Đức Ki-tô đã biến đau khổ thành dụng cụ cứu độ, thành đại phương tiện giải thoát. Người mời gọi chúng ta tin rằng: mọi đau khổ được gửi đến cho chúng ta như một sứ mệnh cứu rỗi, rằng nếu biết quảng đại đón nhận và dâng hiến, đau khổ sẽ góp phần vào việc biến đổi thế giới, và làm cho nhân loại nên tốt hơn.”. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II cũng đã xác nhận: “Khi thực hiện ơn cứu độ bằng đau khổ, Đức Ki-tô đồng thời cũng nâng cao đau khổ của con người đến nỗi thông-ban cho nó một giá trị cứu độ. Như vậy, qua đau khổ của mình, mọi người đều có thể tham dự vào đau khổ cứu độ của Đức Ki-tô”. Như thế, đau khổ đã mang chiều kích siêu nhiên và gắn kết với chương trình đời đời của Thiên Chúa.

Thay Lời Kết

Sống ở thời đại nào, ở thái cực hay môi trường văn hóa nào, con người cũng ý thức và cảm nghiệm được vấn nạn đau khổ. Nhưng cái nhìn về đau khổ khó gặp nhau được một cách trọn vẹn. Quả thật “các vấn nạn của con người thì có tính phổ quát, còn câu trả lời còn mang màu sắc văn hóa”. Nếu như ở những thời “son sẻ”, con người ta cảm nhận và suy tư về đau khổ còn đơn điệu hay đúng hơn là hồn nhiên, thì ở trong thế gới hiện đại như ngày nay vấn đề đã được khám phá mang tính khách quan và đi vào chiều sâu. Tuy nhiên dừng lại ở mặt tư tưởng (triết học), vấn đề đau khổ vẫn không tìm được chốn uyên nguyên nương thân, tức là bằng lý trí con người, ta không thể khám phá đầy đủ được vấn đề. Nẻo đường này sẽ dẫn đến một điểm dừng và ta chỉ còn biết vẽ vòng tròn chiêm ngắm.

Vấn nạn đau khổ chỉ có thể được lột tả khi đặt nó trong chiều kích tôn giáo. Các tôn giáo lớn trong lịch sử nhân loại đã đều chạm trán với vấn nạn đau khổ. Ấn Độ giáo, Phật giáo đều có những công hiến tích cực trong vấn đề giải mã bí ẩn đau khổ. Nhưng, xem ra Ki-tô giáo đã nắm được chìa khóa vì được cắm rễ sâu vào mảnh đất Tin Mừng. Kinh Thánh Tân Ước đã nâng đau khổ, vốn được xem là tai họa trong Cựu Ước, trở thành mối phúc lớn cho con người. Đau khổ trong nhãn quan của Tân Ước được phác họa như một bức tranh tươi sáng và tràn trề ân sủng Thiên Chúa. Đau khổ không còn là bị động như một tai nạn nhưng là một cuộc hiến dâng tự nguyện vì Nước Trời. Đau khổ không còn là vô nghĩa nhưng là bài học của vâng phục. Đau khổ không còn là sự dữ vì lỗi lầm nhưng là biểu chứng của tình yêu. Đau khổ không còn là nỗi thất vọng nhưng là niềm hy vọng tràn trề. Đau khổ không còn là nỗi buồn phiền nhưng là niềm vui bất diệt. Đau khổ không còn là bất hạnh nhưng là hạnh phúc vĩnh hằng. Và đau không còn là cái gì phi lý nhưng là đưa đến ơn cứu độ cho con người. Chúa Giê-su đã minh chứng tất cả những ý nghĩa đó bằng cả giáo huấn và con người của Ngài.

Nơi khuôn mặt của Đấng Tử giá, ý nghĩa đích thực của đau khổ được biểu lộ. Nơi Người, đau khổ không chỉ còn là một chuyện thường, nhưng đã trở thành một lý tưởng huyền nhiệm. Nó không còn là một hình phạt đè bẹp hay một gánh nặng mà người ta phải kéo lê vì bị Thiên Chúa đọa phạt: nó là một lễ dâng tự tình chấp nhận và được dâng lên Cha trên trời, trong một nhiệt tình mến yêu đền tạ.

Và từ đây ta có được một sự đợi chờ đầy hứa hẹn. Trong chiều kích Ki-tô giáo, ta không hề chạy trốn đau khổ nhưng là đối diện và hơn nữa là đón nhận nó. Một thái độ đón nhận trong tình yêu là cần thiết vì từ thập giá sẽ đi tới vinh quang. Nhận định của Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II sau đây có lẽ là lời kết thật ý nghĩa cho đề tài này:

Đau khổ của con người đã đạt tới đỉnh cao nơi cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô. Đồng thời nó mang lấy chiều kích hoàn toàn mới mẻ và đã đi vào một trật tự mới: đau khổ được liên kết với tình yêu, tình yêu mà Chúa Ki-tô đã nói với Ni-cô-đê-mô, tình yêu làm nên điều thiện hảo bằng cách rút rỉa ngay từ sự dữ, ngay từ đau khổ, cũng như sự thiện cao cả nhất- tức là ơn cứu độ thế giới – đã được thực hiện qua thập giá Đức Ki-tô, và không ngừng khởi đi từ thập giá. Cây thập giá đã trở thành nguồn mạch tuôn trào dòng nước đem lại sự sống (xc Ga7, 37-38). Cũng chính từ thập giá, chúng ta phải đặt lại câu hỏi về ý nghĩa đau khổ, và chúng ta tìm được lời giải đáp trọn vẹn cho câu hỏi đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điển ngữ thần học Thánh Kinh. Đà Lạt: Phân khoa thần học Giáo Hoàng học viện Thánh Piô X, 1973.
2. Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước. TPHCM: TPHCM, 2002.
3. Lý Giác Minh. Đàm đạo với Phật Đà. Hà Nội: Văn học, 2006.
4. J. Galot. Đấng chiến thắng nhờ đau khổ. Vaiqueur par la souffrance.
5. Doãn Chinh. Kinh văn của các trường phái triết học An Độ. Hà Nội: Đại học Quốc gia, 2003.
6. Lê Xuân Hoa. Nhập môn triết học Ấn Độ. Bình Thuận: Chủng Viện Thánh Nicolas, 2005.
7. Nguyễn Đăng trúc. Tiếp cận tư tưởng Việt Nam và vấn đề triết học. France: Định Hướng Tùng Thư, 1999.
8. Nguyễn Ngọc Mỹ. Tìm từ Kinh Thánh Tân Ước. Hà Nội: Tôn Giáo, 2005.
9. Hoàng Phê & tgk. Từ điển tiếng việt. Đà Nẵng, 1997.
10. Trần Văn Hiến Minh. Từ điển và danh từ triết học. Sài Gòn: Ra khơi, 1966.
11. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Ý nghĩa đau khổ theo Kitô giáo. Éditions du centurion, 1984.